QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Saturday, July 6, 2013

Cuộc Hội Ngộ của Sĩ Quan TQLC/VNCH


 

April 12, 2013 7:24 PM


 

  • TEXT 

Soldier's selfless act leads to reunion 40 years in the making


 

(CBS News) WASHINGTON -- Kimberly Mitchell's life story has always been missing a few important pages. Before her current job as president of a nonprofit helping veterans, before she was a Navy Lieutenant Commander, before Annapolis, before Wisconsin, before American even -- who was she?

Kim Mitchell

Kim Mitchell

 / CBS News

"If you're an adopted child, you always want to know -- did your mother, did your father want you?" Kim says.

The missing part of her story, if she could ever find it, would explain how she ended up at an orphanage in Vietnam. It was 1972, war was raging, orphans were everywhere and none of them came with bios.

Her only clue was her papers at the time. The name they had for her was Tran Thi Ngoc Bich. Ngoc Bich means "precious pearl." It's an unusual name, which for Kim deepened the mystery even more.

In May of last year, Kim's story about her search for her roots appeared in a Vietnamese-language magazine published here in the states. It's an obscure publication with a small circulation, but at least one man read the article and hung on every word.

Kim was brought to an orphanage in Vietnam in 1972.

Kim was brought to an orphanage in Vietnam in 1972.

"In the article, it said that she was abandoned at the orphanage," says Bao Tran. "But I wanted her to know she was not abandoned."

Bao Tran fought on the side of the South Vietnamese, alongside the Americans. He moved to New Mexico after the war as part of a resettlement program and has been carrying Kim's story with him ever since.

As Bao tells it, the city of Quang Tri had just fallen to the North Vietnamese, and refugees were streaming out of the city. It was his job to blow up a bridge outside of town to slow the enemy's advance, and his company was about to do just that when one last survivor stumbled onto the bridge -- two survivors, actually.

Bao Tran

Bao Tran

 / CBS News

"I saw a man carrying a hat with a baby inside," Bao says. "I ran to him, and he described this tragic scene he found on the side of the road -- of this baby trying to nurse on her dead mother. I took the child from him."

It's important to remember that at that moment, saving one baby was the least of his army's concerns. But Bao took it upon himself to see this child to safety. He also named her: Precious Pearl.

Kim and Bao reunited last month. He told her how big she'd gotten, and she told him two words 40 years in the making.

Kim and Bao reunited last month.

Kim and Bao reunited last month.

 / CBS News

"I get to say 'thank you' to a man who took time to save a baby," Kim said.

Thanks to Bao Tran, Kim Mitchell's life story now has its beginning, its hero and its moral.

"You never know what one act of kindness will do -- one act of kindness," she says.

To contact On the Road, or to send us a story idea, e-mail us.

© 2013 CBS Interactive Inc. All Rights Reserved.

 

 

Câu chuyện thật của một người Sĩ quan trẻ của TQLC, đã cứu một em bé, mẹ đã chết, bị bỏ rơi, trên đường di tản ở Quảng Trị, mùa Hè đỏ lửa 1972......


41 năm sau, gặp lại cô bé đó, nay là một Hải Quân Trung Tá của Quân Lực Hoa Kỳ...

Bài viết của
Thanh Phong báo Viễn Đông...

Phần tài liệu bổ túc là Tiểu sử của
Hải Quân Trung Tá Kimberly Mitchell,
và chuyến đi VN vào năm 2011 của Tr. Tá Mitchell. để tìm lại gốc gác của mình..
do BMH sưu tập...

Xin mời Qúy Vị theo dỏi , để tường...

 

 

BMH

Washington, D.C

 

 

-

**************************

Cuc Hi Ng ca Sĩ Quan TQLC/VNCH
và Em Bé Gái Mà Ông Đã C
u  41 Năm Trước...
Nay là Trung Tá c
a Hi Quân Hoa Kỳ..

 

(VienDongDaily.Com - 04/04/2013)

Bài và hình: Thanh Phong/Viễn Đông

WESTMINSTER. Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.



        Thiếu úy TQLC Trần Khắc Báo và Hải Quân Trung Tá Kimberly Mitchell
hội ngộ sau 41 năm bặt vô âm tín.

 (ảnh TP chụp lại từ gia đình).

Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc không tìm thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang tìm đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH còn đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) thì nơi đây là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Cộng Sản Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên kia cầu còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu gì nữa đây cha nội?”
Người ôm vòng chiếc nón lá nói với Thiếu úy Trần Khắc Báo:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm lòng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách gì giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho Thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn luyện và thuộc nằm lòng tinh thần 'Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm' nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: 'Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.'”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông thì còn là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa thì lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nhìn ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xã hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà tìm.”
Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị Việt cộng bắt làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được chúng thả về gia đình và bị quản chế. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico... 


Em bé Mồ Côi Gặp May Mắn

Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy mình không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết mình là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
"Con muốn biết con người gì, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
"Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra tìm được tông tích của gia đình con.”
Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi em đã muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về nghệ thuật lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đình. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương trong vai một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đã biết mình là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của mình.




 

Cuộc hội ngộ sau 41 năm với chiếc nón lá mà 41 năm trước, Trần Thị Ngọc Bích đã được cứu sống bởi các chiến sĩ VNCH. Trong hình, gia đình ông Trần Ngọc Báo và nữ Trung tá Kimberly Mitchell (quàng khăn hình Quốc kỳ VNCH )-
ảnh TP/VĐ chụp lại.

 

Gặp Lại Cố Nhân

Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số hình ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ giữa gia đình ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy sang bắt quàng làm họ” như ông cha mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8. 2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào thị Lệ biết là cô không muốn gia đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.

Giây phút đầy xúc động

Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
"Cô đến đây tìm ai?”
Cô trả lời:
"Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
"Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
"Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và ông mãn nguyện ngay, khi Kimberly Mitchell gọi “Tía”. Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đình ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết, và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể tìm ra tung tích cha cô hoặc người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được tìm thấy và mang tới trại mồ côi . Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH , luôn đặt Tổ Quốc - Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết. (TP)

 

 

Thanh Phong/Viễn Đông

  **********************************
Tài liu b túc
S
ưu tp bi BMH

** Hình ảnh khi Cô còn mang cấp bậc Hải Quân Thiếu Tá (LCDR)

Tiu s Kimberly M. Mitchell

Mitchell

Lieutenant Commander Kimberly M. Mitchell, US Navy


LCDR Mitchell was born in 1971 in DaNang, South Vietnam. She was adopted and brought to the United States in September 1972. Raised in Solon Springs, Wisconsin, she was active in sports, church, 4-H and other community activities.

Upon graduation from high school, LCDR Mitchell was accepted into the United States Naval Academy and graduated in 1996 with a Bachelor of Science degree in Ocean Engineering. Selecting the Surface Warfare Community, she was assigned to USS STUMP (DD 978) as the Damage Control Assistant. Following that tour, she was assigned to Assault Craft Unit 4 as a Detachment Officer-In-Charge (OIC) for a detachment of Landing Craft Air Cushion (LCAC). Her first shore duty brought her to Washington DC as part of the Washington Navy Intern Program where she completed her Masters of Arts degree in Organizational Management from The George Washington University as well as completing three internships in the office of the Chief of Naval Operations, the State Department and on the Joint Staff.

Following shore duty, LCDR Mitchell reported to USS CROMMELIN (FFG 37) as the Operations Officer and then reported to Commander Destroyer Squadron 50 home ported in the Kingdom of Bahrain as the Future Operations Officer and Maritime Security Operations Officer.

LCDR Mitchell’s second shore duty again brought her to Washington DC as a Country Program Director assigned to the Navy International Programs Office (NIPO) doing Foreign Military Sales. Following her tour at NIPO, she was selected to be the Military Assistant in the Office of Wounded Warrior Care and Transition Policy in the Office of the Secretary of Defense. Following a year in that job, she transferred to the Office of the Chairman of the Joint Chiefs of Staff where she is currently the Deputy Director for the Office of Warrior and Family Support.

LCDR Mitchell’s personal awards include Joint Commendation Medal, Navy Commendation Medal, Joint Service Achievement Medal, Navy Achievement Medal, as well as other unit awards. She has also received recognition from the Assistant Secretary of State for her work in Humanitarian and Peacekeeping Operations as well as the Director of the Defense Security Cooperation Agency for her work in Foreign Military Sales.

 

 

** Cuc hành trình tìm v quê hương ca cha, m rut...

Adopted U.S. Navy Officer Makes First Return to Vietnam


Lieutenant Commander Kim Mitchell with Sister Mary (left) and Sister Vincent in Danang.

Lieutenant Commander Kim Mitchell with Sister Mary (left)
and Sister Vincent in Danang.

 

HANOI, August 26, 2011 – She was once known only as Baby #899, an abandoned infant in Danang’s Sacred Heart Orphanage.  With more than a bit of luck, as she now acknowledges, Baby #899 was eventually adopted by a U.S. Air Force Tech Sergeant and his wife in 1972, and brought up on a farm in rural Wisconsin.

U.S. Navy Lieutenant Commander Kimberly M. Mitchell now works at the Pentagon, as Deputy Director for the Office of Warrior and Family Support, and recently made her first trip back to Vietnam.  “I wanted to try to reconnect with the unknown of my past,” said LCDR Mitchell after meeting with officials at the U.S. Embassy in Hanoi. “I’ve been talking about coming back for years, but it was like a soccer ball that I kept kicking down the field.”

LCDR Mitchell returned to Vietnam and visited Ho Chi Minh City and Hanoi—but the most moving part of her week-long homecoming was in Danang, where she found the Sacred Heart Orphanage (now a monastery) and tracked down one of the nuns, Sister Mary, who worked in the orphanage four decades ago at the time that Baby 899 was adopted.  

“Sister Mary was able to tell me about the name they gave me, Tran Thi Ngoc Bich—and that it meant precious pearl,” said LCDR Mitchell. “It was the trip of a lifetime. I certainly won’t wait another 40 years to return.”

 

BMH

Washington, D.C

 

Monday, July 1, 2013

Thư số 21 gởi:Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


 

 

 

 

                                            

 

                                                    Thư số 21 gởi:

                                                    Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam                                                                                                                              Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa  mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này tôi mời Các Anh nhìn vào điều mà lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn ‘”hãy quên quá khứ mà hòa giải hòa hợp”. Vì vậy mà từ năm 2003, lãnh đạo Các Anh chia nhau ra hải ngoại -nhất là Hoa Kỳ- tìm mọi cách chiêu dụ để khống chế Cộng Đồng chúng tôi vào vòng tay tàn bạo của họ! Thật là ghê tởm!

Lãnh đạo cộng sản chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản.

Chắc Các Anh chưa quên là khi lãnh đạo CSVN xua toàn lực đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi vào cuối tháng 4/1975, thì từ đó cả hệ thống truyền thông của đảng ra rả hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, hết năm này sang năm khác, họ miệt thị chúng tôi dưới những nhóm chữ “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh, bọn rác rưởi cặn bả của xã hội, ..v..v...” Họ dùng tất cả những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng. Lúc bấy giờ lãnh đạo Các Anh, luôn miệng ngạo mạn cứ như cộng sản quốc tế sắp nắm quyền bá chủ thế giới vậy. Họ tranh nhau cướp đoạt tài sản quốc gia và tài sản người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ.

Rồi “nhờ những Nghị Quyết đúng đắn” của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, mà chỉ 10 năm sau khi hoàn thành cuộc xâm lăng, họ đã đẩy toàn dân Việt Nam xuống đến tận đáy của lạc hậu nghèo khổ. Hóa ra ở đó là xã hội chủ nghĩa, đúng như họ luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Người tự do chúng tôi gọi là “lùi xuống” nhưng lãnh đạo Các Anh nói là “tiến lên”. Thôi thì cứ gọi là tiến lên cũng được, nhưng tại sao khi “tiến đến xã hội chủ nghĩa” thì lãnh đạo Các Anh vội vã tìm đường ra hài ngoại cầu cạnh thế giới tự do nhất là Hoa Kỳ, một quốc gia mà họ từng mạnh miệng nguyển rủa “Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”. Câu này trong bài học số 1 có tên là “Đế quốc Mỹ, kẻ thù số 1 của Việt Nam” mà tên Thượng Tá Bình của Bộ Công An, từ Hà Nội vào trại tập trung Long Giao bắt buộc anh em chúng tôi “học 10 bài chính trị” hồi tháng 8/1975, chớ hổng phải tôi nghĩ ra à nghe. Mà lạ thật, “tên đế quốc đầu sỏ Hoa Kỳ giãy chết từ những năm 1970”  mà 20, 30 năm sau chẳng những chưa chết, lại còn phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, nhất là lãnh vực khoa học kỹ thuật.

Giá mà “bác Hồ” Các Anh còn sống đến bây giờ để tận mắt nhìn thấy bộ mặt Hồ Chí Minh của ổng: Tham nhũng từ trên chót vót xuống đến làng xã. Công An thì móc ngoặc khắp phố phường đến tận cùng ngóc ngách xã hội. Còn “các cháu ngoan” của ổng đang lãnh đạo thì bằng cấp giả là kiến thức của họ, nhưng ăn chơi sa đọa và hiếp đáp dân lành thì thế giới tự do phải chào thua. Hồ Chí Minh thì lưu manh đỉ điếm với côn đồ cướp giựt ngày đêm. Hằng trăm cơ sở môi giới đã bán hơn nửa triệu cô gái Việt Nam sang các xứ lân bang làm vợ mọi người. ..v..v... Thấy được tận mắt những điều mà đám đàn em của ổng thực hiện chính sách trăm năm trồng người mà ổng đẻ ra từ hơn nửa thế kỷ trước, chắc “bác” Các Anh mừng lắm.

Bây giờ Các Anh theo tôi để biết lãnh đạo Các Anh hô hào chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản “khép lại quá khứ mà đoàn kết với họ” như thế nào?

Năm 2003.

Ông Nguyễn Đình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao, dẫn một phái đoàn sang Hoa Kỳ  tiếp xúc với người Mỹ gốc Việt tại Washington DC, vào ngày 13/6/2003 tại Ngân Hàng Thế Giới thào luận về kinh tế, và ngày 14/6/2003 tại trường đại học Johns Hopkins thảo luận về chính trị. Số người Việt tham dự tại mỗi nơi là 12 người, nhưng không phải cộng lại thành 24 vì có một số vịi tham dự cả hai buổi. Ông Nguyễn Đình Bin, mở đầu buổi tiếp xúc mà giáo sư Nguyễn Quốc Khải nói là “đối thoại”:

“Đoàn đại biểu sang Hoa Kỳ với hai nhiệm vụ: Thứ nhất. Tiếp tục làm việc với chánh quyền Hoa Kỳ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Thứ hai. Tiếp xúc với các người Mỹ gốc Việt, hoặc là người Việt đang làm ăn sinh sống ở Hoa Kỳ. Theo con số thống kê sơ bộ thì có khoảng 2 triệu 7 hay 2 triệu 800 ngàn, đang làm ăn sinh sống tại 90 quốc gia có nền kinh tế khoa học công nghệ tiên tiến .... . Lần đầu tiên, hội nghị trung ương lần 7 ra nghị quyết về đại đoàn kết dân tộc. Những người Việt đang sinh sống và làm việc tại hải ngoại, được đất nước vẫn coi là một phần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy về đầu tư kinh tế trong nước của người Việt hải ngoại chưa bao nhiêu, nhưng điều quan trọng  hơn cả là chất xám và trí tuệ, và những hiểu biết những kinh nghiệm của các chuyên viên ở nước ngoài,  hiện nay phải nói là cực kỳ quí....”

Các Anh thấy chưa, sau những năm sống trong ảo tưởng “cộng sản sắp thống trị thế giới”, bỗng chợt tỉnh khi cộng sản Liên Sô - thànhtrì vững chắc của chủ nghĩa xã hội sụp đổ- lãnh đạo Các Anh buộc phải nhìn nhận sự thật về sức sống của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại về kinh tế tài chánh, trình độ giáo dục, khoa học kỹ thuật, và vận động chính trị. Bộ Chính Trị cộng sản đành phải cúi mặt khi ra nghị quyết kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản đoàn kết với cộng sản. Lãnh đạo Các Anh “muốn nói chuyện” với người tự do chúng tôi, mà vẫn cứ như đang nói với “những thần dân” xã hội chủ nghĩa vậy

Năm 2004.

Nghị Quyết 36. Ngày 26/3/2994, lãnh đạo CSVN phổ biến Nghị Quyết số 36, qui định một chính sách toàn diện đối với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Tại Hải Ngoại, mà họ gọi là “những người Việt Nam ở nước ngoài”.

Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời,là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc....”.

Trong số Các Anh, tôi tin là có những anh có cơ hội ra hải ngoại nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, đều biết Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản, chỉ trang bị một tư tưởng dân chủ tự do, một kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến, một hệ thống truyền thông toàn cầu, và một tinh thần trách nhiệm với quê hương Việt Nam cội nguồn, chớ không trang bị bất cứ loại vũ khí giết người nào cả. Vậy mà lãnh đạo Các Anh lại tập trung toàn bộ hệ thống chính trị và toàn quân toàn dân, chỉ vì điểm căn bản đầu tiên của Nghị Quyết nhận ra “Người Việt Nam ở nước ngoài ....là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Họ nói họ cần khối trí thức hải ngoại, nhưng trong bản chất của cộng sản thì người trí thức không có giá trị gì cả, và trong thực tế từ Nga Cộng, Trung Cộng, Cu Ba Cộng, đến Việt Cộng, đâu có sử dụng người trí thức chân chánh. Họ dùng dối trá để che đậy điều họ cần là khối tài chánh cho riêng họ, và khối trí thức phải dưới quyền khống chế của họ.  

Năm 2005.

Ký giả Thạch Anh phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CSVN. Đây là cuộc phỏng vấn giữa người cộng sản với nhau, để ông Kiệt có cơ hội nói lên những ưu tư mà ông ta gọi là “bức xúc” trước thời cuộc. Ký giả Thạch Anh mở đầu với nhóm chữ: “Nhân dịp 30 năm, ngày đất nước liền một dãi từ Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cáy,…” 

Các Anh hiểu rồi chớ? Anh ký giả này không dùng nhóm chữ “nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” như ghi chép trong sử sách Việt Nam, mà anh ta dùng nhóm chữ “từ Cà Mau đến Móng Cáy”, vì  lãnh đạo của anh ký giả này đã cắt Ải Nam Quan dâng cho lãnh đạo Trung Cộng từ lâu rồi,  còn đâu nữa mà nói!

Và anh ta hỏi ông Kiệt: “Thưa ông, thấm thoát đã 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại , ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?”

Ông Kiệt: “Suy nghĩ của tôi là chiến tranh đã qua cách đây đã mấy chục năm, chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong cho chiến tranh thật sự phải thuộc về quá khứ, một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại....”.

Tôi có thư ngỏ gởi cho ông ta để hòi một câu: “Ai có trách nhiệm khép lại cái quá khứ đó? Chẳng lẽ Cộng Đồng hải ngoại chúng tôi?  Chính các ông, phải có trách nhiệm khép lại, bằng cách làm ngược lại những gì mà các ông đã làm từ sau ngày 30/4/1975 đối với tất cả người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ....”.

Cũng trong năm 2005, ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng CSVN công du Hoa Kỳ một tuần kể từ 19/6/2005. Trước khi rời Việt Nam, trong bản tin đài BBC và đài RFI ngày 19 và 20/6/2005, trong phần trả lời của ông Khải, có câu: “... tôi sẳn lòng khép lại quá khứ để nhìn về tương lai …”. Tôi cũng có thư ngỏ gởi ông Khải và cũng nêu câu hỏi như tôi đã hòi ông Kiệt. ..

Năm 2007.

Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước đến Hoa Kỳ ngày 18/6/2007. Tôi gởi ông hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Có đoạn: “.... Thứ nhất. Trên báo Đàn Chim Việt Online ngày 15/6/2007, có bài phỏng vấn của Vietnamnet dành cho ông Chủ Tịch. Trong những câu trả lời của ổng, có câu: “… Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn coi trọng Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, là máu của máu Việt Nam…” Trong một đoạn sau đó, ông nói: “Cộng Đồng người Việt ở nước ngoài là khúc ruột ly hương ngàn dặm….” 

Lúc ấy tôi gởi ông Nguyễn Minh Triết hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Trong thư có đoạn: “... Tôi không hiểu tại sao đến nay là 32 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, ông và “đồng chí” của ông trong Bộ Chính Trị, cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, hãy quên cái quá khứ kinh hoàng của mình để đoàn kết giúp các ông có uy tín với thế giới mà ông nói là xây dựng đất nước? Về phần tôi, tôi không hận thù các ông dù tôi bị đày trong các trại tập trung hơn 12 năm, nhưng tôi không bao giờ quên cái quá khứ mà ông và các “đồng chí” của ông đã xén phần đất “trên đầu tổ quốc” và xén “một bên tai” của quê hương dâng cho Trung Cộng, biến “mảng da đầu” của đất nước trở nên lởm chởm chưa từng có trong lịch ngàn năm chống vua quan phong kiến Trung Hoa. Chưa hết, các ông đã đối xử quá dã man tàn bạo với người dân Việt từ thể xác đến tinh thần! Cũng các ông, suốt 20 năm từ năm 1975, đã sử dụng hệ thống truyền thông để sỉ nhục và miệt thị Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản, sao bây giờ ông ra cái điều như là người cộng sản tử tế khi gọi chúng tôi là khúc ruột ly hương ngàn dặm? Khi là đảng viên cộng sản thì các ông đã vứt bỏ tên tuổi mà chấp tên của đảng đặt cho, vứt bỏ mẹ cha mà chấp nhận chỉ có “bác” với đảng, vứt bỏ tinh thần dân tộc mà chấp nhận tinh thần cộng sản quốc tế đặt trên ảo tưởng thống trị thế giới”. Như vậy, làm quái gì có người cộng sản tử tế trên quê hương cội nguồn của dân tộc Việt Nam ......” . Thật rõ ràng, người cộng sản là cộng sản, người tử tế là tử tế, không có sự pha trộn hay trở thành nào giữa hai người ấy.            

Năm 2008.

Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng CSVN cùng phái đoàn gần 100 người  đến Hoa Kỳ. Buổi họp trong khách sạn Hilton tại Houston ngày 26/6/2008, với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, ông Thủ Tướng Dũng cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn....”

Các Anh thấy không, sau khi ban hành Nghị Quyết 36 thì hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác sang Hoa Kỳ, vừa du lịch miễn phí trên đất nước giãy chết từ mấy chục năm trước nhưng lại phát triển vượt bực, vừa cầu cạnh Hoa Kỳ để có đầu tư ngoại quốc với kỹ thuật tân tiến, vừa chiêu dụ Cộng Đồng gồm những người mà họ đã liên tục chửi rủa hằng chục năm trước. Với lãnh đạo cộng sản, khi không cần thì mạt sát miệt thị, khi cần  thì họ vừa nâng vừa bợ trong mục đích khống chế Cộng Đồng tị nạn cộng sản. “Liệu có phải mục đích của họ là để hưởng “những khúc ruột già của Cộng Đồng ly hương ngàn dặm chăng?”   

“Đồng chí X của ông Chủ Tịch nước” vẫn còn trong ảo tưởng như mấy chục năm qua khi kêu gọi chúng tôi “đừng mặc cảm quá khứ”. Không biết đến bao giờ ông ta mới tỉnh lại để nhìn thấy Cộng Đồng chúng tôi chẳng những không bao giờ mặc cảm, mà trái lại, chúng tôi rất hãnh diện là một Cộng Đồng không bao giờ quên quê hương cội nguồn của mình, chỉ vì không thể sống dưới chế độ độc tài nghiệt ngã nên phải vượt lên sự chết để tìm đất sống tự do. Dù xa quê hương nhưng luôn gắn bó tình cảm gia đình trong nếp sống đạo nghĩa Việt Nam, mà Cộng Đồng chúng tôi gởi tiền về giúp thân nhân từ năm 1991 với số tiền 31 triệu mỹ kim, dần dần gia tăng và năm 2012 là 10 tỷ mỹ kim. Cộng chung từ 1991 đến 2012, tổng số tiền gởi về trong nước là 70 tỷ 115 triệu mỹ kim (tài liệu của ngân hàng thế giới, ngân hàng Việt Nam, và đài RFA 1/5/2011), chưa kể số tiền những người về thăm thân nhân mang theo. Các Anh phải biết là số tiền này góp phần quan trọng vào tổng sản lượng quốc gia (GDP) hằng năm gia tăng đó.           

Hòa giải và hòa hợp?

Bây giờ là quan điểm của tôi về lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, mà họ phải họp cấp trung ương rồi ban hành Nghị Quyết 36, trong mục đìch huy động toàn bộ tổ chức của quốc gia và bằng mọi phương cách chiêu dụ chúng tôi hãy quên quá khứ, hãy khép lại quá khứ, để chấp nhận sự khống chế của họ. Là một thành viên nhỏ bé li ti trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản, tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện nói đến tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ tháng 4/1975 đến nay (2013), mới có hy vọng Cộng Đồng tị nạn suy nghĩ việc khép lại quá khứ. Việc mà họ làm sai thì không sao kể hết, nhưng theo cách nhìn của tôi thì 5 vấn đề dưới đây mà lãnh đạo Các Anh phải sửa sai đối với Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và vấn đề thứ 6 là lãnh đạo Các Anh phải sửa sai với 90 triệu đồng bào trong nước:

Thứ nhất. Vào những ngày trước và sau ngày 30/4/1975, hằng chục ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang điều trị trong Tổng Y Viện và cả hệ thống Quân Y Viện, lãnh đạo Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi ra lệnh cho Các Anh quẳng anh em thương phế binh chúng tôi ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi họ muốn chúng tôi “hãy quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh  phải bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ đồng thời Bộ Chính Trị phải chánh thức nói lời xin lỗi Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi, do họ sử dụng nhiều nhóm chữ khác nhau để che đậy sự gian trá lọc lừa. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh cướp đoạt, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại cho chủ nhân, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy thích ứng theo thời gian. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua bất cứ cơ quan luật pháp nào khi bắt giam hơn 500.000 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, và những người trong giới kinh doanh thương mãi, dịch vụ, đẩy vào hơn 200 trại tập trung từ nam ra bắc, trong mục đích đày đọa chúng tôi chết dần chết mòn mà họ gọi là “cải tạo”. Nhưng thế giới cộng sản ngày càng suy sụp kinh tế, buộc họ phải thả chúng tôi thì họ mới được thế giới tự do giúp đỡ mà tồn tại. Và hơn trăm người cuối cùng phải 17 năm sau mới ra khỏi trại,  rồi họ muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!  

Thứ tư. Lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nỗi sự kềm kẹp chính trị, nên đành phải vượt lên sự chết để tìm sự sống tự do với cái giá phải trả thật là khủng khiếp! Lúc ấy, họ gọi chúng tôi là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh rác rưởi của xã hội, ..v..v... Thôi thì họ dùng những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng để sỉ vã nhục mạ chúng tôi, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường vật chất lẫn tinh thần cho hằng trăm ngàn gia đình của những người đã chết trên đường vượt biên vượt biển, phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, và rút lại những lời mà họ đã sỉ nhục chúng tôi. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ! 

Thứ năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất quê hương, nhưng với bản chất dã man của lãnh đạo Các Anh đã đào xới mồ mả đ vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh nguyên trạng như trước lúc bị tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!    

Và thứ sáu. Nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau. Như vậy, từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng lãnh đạo Các Anh chỉ dùng chữ “hòa hợp“ mà thực chất chỉ là chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận công bằng và minh bạch. Nhưng tại sao họ dốc toàn lực của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để bám theo chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà lãnh đạo Các Anh không hòa giải và hòa hợp với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ. Quan điểm của tôi như sau:

(1) Cưỡng chế đất. Năm 2010. Theo tài liệu Bộ Tài Nguyên & Môi Trường ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ..”, đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức về đất đai bị cưỡng bách thu hồi. Năm 2011. Bản tin AFP 25/11/2011, một báo cáo v ề tham nhũng trong đất đai do Ngân Hàng Thế Giới, tòa đại sứ Thụy Điển và Đan Mạch tại Hà Nội, thì “Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai mà đền bù thấp, đã dẫn đến những vụ xung đột tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người”. Năm 2012. Sau vụ Tiên Lãng với tiếng súng hoa cải và bom tự chế nổ từ phía người dân bị cưỡng bách thu hồi vào ngày 5/1/2012, rồi tiếng súng lại nổ nhưng không phải từ phía người dân mà từ phía lực lượng cưỡng bách thu hồi đất của 1.244 gia điình nông dân tại Văn Giảng ngày 24/4/2012. Hai nhà báo của truyền thông đảng là Nguyễn Văn Năm và Hàn Phi Long, cũng bị lực lượng cưỡng chế hành hung mang thương tích.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với đồng bào oan ức về đất đai, bằng cách: “(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng & nhà nước. (b) Trả lại quyền tư hữu cho toàn dân như khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa. (c) Bồi thường cho sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã sử dụng suốt thời gian tịch thu trái phép. (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm”.

(2) Đàn áp người yêu nước. Với những cuộc biểu tình của đồng bào yêu nước -nhất là tuổi trẻ- chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo, trong khi lãnh đạo đảng lặng thinh cứ như không nghe không thấy không biết gì hết, nhưng lại thẳng tay trấn áp bằng những hành động loại lưu manh côn đồ, quản chế và bắt bỏ tù. Ngày 17/06/2013, ngày đối thoại nhân quyền Việt Nam-Australia. Dân biểu Chris Hayes, đã lên án tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam với công dân của họ, chỉ trong một năm mà 38 nhà hoạt động ôn hòa cho dân chủ đã bị bắt vào tù.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải và hòa hợp với thành phần dũng cảm đáng trân trọng này, bằng cách: “(a) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà họ bị ghép vào tội hình sự, bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần nhập cho họ trong suốt thời gian bị giam giữ, và chánh thức xin lỗi họ. (b) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (c) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy xua đuổi thậm chí là tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (d) Hủy bỏ Điều 4, cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến quyên dân sự và quyền chính trị của người dân theo Công Ước quốc tế mà họ đã ký thi hành”.

(3) Chia cắt các tôn giáo. Tại sao lãnh đạo Các Anh sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi tổ chức thành “tôn giáo quốc doanh” trong khi họ luôn miệng nói đến đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị như thực dân Pháp sao?  

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với các tôn giáo, bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả. (d) Hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

Nếu lãnh đạo Các Anh hành động được như vậy, tôi tin rằng đồng bào trong nước và Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản sẽ vui lòng suy nghĩ lại cái quá khứ kinh hoàng đó, để tiến đến hòa giải và hòa hợp. Chớ họ nói theo cái ngôn ngữ mà ông Hà Sĩ Phu gọi là thứ “ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội xã hội chủ nghĩa” ngày nay, làm sao người dân trong nước và ngoài nước tin được, nói gì đến cái việc quên quá khứ! Nếu lãnh đạo Các Anh không làm được những điều đó, thì đừng bao giờ kêu gọi trong nước và hải ngoại “quên quá khứ mà đoàn kết với họ”. Rất có thế vào một ngày đẹp trời nào đó, đồng bào trong nước sẽ vùng lên lật đổ họ như người dân các quốc gia Bắc Phi đã vùng lên thành công, và đang vùng lên sắp đạt thành công. Quan điểm của tôi rất rõ ràng, không chứa đựng những gì mà lãnh đạo Các Anh có thể xem là tôi mang lòng thù hận. Và tôi nhấn mạnh rằng, tôi đòi lại, chớ không phải tôi xin họ đâu.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25  năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay,  có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Tại sao 10 năm sau năm 1975, lãnh đạo Các Anh luôn miệng ngạo mạn khi chửi Hoa Kỳ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết ngay tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, cùng lúc chửi rủa miệt thị hằng triệu người vượt biển vượt biển tìm đất sống tự do, mà bây giờ họ lại cúi đầu cầu cạnh Hoa Kỳ cứu giúp, và họ cũng hạ giọng gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản là khúc ruột ly hương ngàn dặm, lại muốn Cộng Đồng này hãy quên quá khứ để đoàn kết với họ?  Và tại sao 30 năm sau năm 1975, người dân luôn tuân phục đảng, nhưng gần 10 năm nay người dân lại chống đảng dữ dội?”   

Trong thực tế, những hành động tội ác của lãnh đạo Các Anh, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, sẽ mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà các nhà viết sử của cộng sản không thể nào bóp méo được. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Và Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?  Tôi mong Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người  Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.  

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

Texas, đầu tháng 7 năm 2013

Phạm Bá Hoa

 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List