QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Sunday, March 1, 2015

Việc thi hành hiệp định Genève – Trần Gia Phụng

 

Vic thi hành hip đnh Genève Trn Gia Phng


1Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Cộng Sản Việt Nam (CSVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?


Hiệp định Genève
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève)gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam Viêt Nam. Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương.

 Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).


Ai vi phạm hiệp định Genève
Hiệp định này ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.

Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.

Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:

Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị (Chu Ân Lai và hội nghị Genève) Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).

Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)

Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định đã ký kết.


Cộng sản đòi hỏi điều không có

Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Thế mà ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.

Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.

Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.

 Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)

Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.

Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.

Cộng sản bịa đặt lý do để tấn công QGVN

Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.

Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.

Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. 

Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.

Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.

Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn bịa đặt. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như Lê Duẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô” (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)

Kết luận

Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định. Trong khi VNDCCH liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genéve xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.

Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.

Trần Gia Phụng
 


Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975 – Trn Gia Phng


1.   NGUYÊN NHÂN BIỂU KIẾN


Theo lời nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), nguyên nhân chính mà VNDCCH đưa quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) từ năm 1960 là vì VNCH không tôn trọng và không thi hành hiệp địnhGenève ngày 20-7-1954 về việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.  Bên cạnh đó, cũng theo quan điểm của nhà nước VNDCCH, người Hoa Kỳ càng ngày có mặt càng nhiều ở VNCH nên dân Việt Nam phải “chống Mỹ cứu nước”.

Quả thật, sau hiệp định Genève đúng một năm, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng, gởi thư ngày 19-7-1955 lần đầu tiên cho thủ tướng Quốc Gia Việt Nam (QGVN) là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955 như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.

Ngày 10-8-1955, Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì  không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.

Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955.  Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế.  Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.

Để hiểu rõ vấn đề nầy, tốt nhất nên trở lại với hiệp định Genève ngày 20-7-1954.  Danh xưng chính thức của hiệp định Genève là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là hiệp định Genève chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự, không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.

Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp và ngày 21-7-1954 thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.

Bản tuyên bố gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7.  Điều nầy ghi rằng: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.  Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự.  Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (1)

Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”. (2) Không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.  Điều đó chứng tỏ rằng những nước tham dự hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, nên không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố để cam kết hay để giữ lời cam kết.
Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành.  Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam.  Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.

Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954.  Hai phái đoàn Hoa Kỳ và QGVN đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình.  Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo thỏa thuận quốc tế.

Ngoài ra, lúc đó, Hoa Kỳ càng ngày càng tăng viện cho VNCH.  Nhà nước VNDCCH quan ngại rằng nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH (với nền kinh tế tự do) sẽ vượt xa VNDCCH (với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản).  Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.

Sự hiện diện của người Hoa Kỳ ở VNCH chẳng những khiến cho VNDCCH rất quan ngại, mà cả Trung Quốc cũng không yên tâm.  Trước đây, Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH), chống lại đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH).  Năm 1949, đảng CSTH thành công.  Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) ngày 1-10-1949. Chính phủ QDĐTH chạy ra Đài Loan.  Tuy nhiên Trung Quốc vẫn quan ngại Hoa Kỳ yểm trợ cho QDĐTH trở lui lục địa Trung Quốc.

Trung Quốc mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ.  Nay Hoa Kỳ lại có mặt ở miền Nam Việt Nam, gần sát với Trung Quốc nên Trung Quốc rất quan ngại.  Vì vậy, VNDCCH đưa ra thêm chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng Bắc Việt chống lại VNCH, vừa để thi hành chủ trương chống Mỹ của Trung Quốc và Liên Xô, ngõ hầu kêu gọi viện trợ của khối CSQT.

Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh, trong khi lý do thật sự được nhà nước VNDCCH che đậy chính là tham vọng lớn lao của đảng LĐ muốn đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã được đảng LĐ chuẩn bị từ trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954.

Ghi chú:
1. Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Trình Bày: Sài Gòn 1973, tr. 53.  Vì các văn bản ký kết tại Genève được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.
2. Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.
 


HoChiMinh
--------o0o--------
Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc
Posted on 03.02.2014 by saohomsaomai

Lời thú tội gây ra cuộc chiến nồi da xáo thịt cho dân tộc, đưa giống nòi, tổ quốc vào con đường nô lệ. Thì bây giờ ai là ngụy, ai là việt gian bán nước?
vietlist.us

Hoàng Thanh Trúc (Chinhluan) - Những ngày tháng cuối năm, theo phong tục tập quán Việt Nam, trong mọi người chúng ta, vì đạo lý tri ân (nhớ ơn) hay dành một phần tâm linh hướng về người thân đã khuất và cho những người vị quốc vong thân.

Mới đây, chắc củng trong chiều hướng ấy, hướng về người vị quốc vong thân nên ngày 18 tháng 1 năm 1974 ông CT/Nước Trương Tấn Sang đã đến xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh cắt băng khánh thành một cái đền thờ xây dựng trị giá tới 5 tỷ đồng cho một nhân vật quá cố có tên Lê Duẩn cựu TBT/đảng CSVN (*) mà nói theo người xưa “trâu chết để da, người ta chết để tiếng” ông ta đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tiếng nói bất hủ của ông là: “Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”

Từ câu nói như quân lệnh chỉ đường ấy mà hàng triệu thanh niên hai miền Nam Bắc Việt Nam đã nằm xuống, một nửa chết vì chống lại và một nữa chết vì muốn nhuộm đỏ miền Nam theo lệnh của đảng CSVN và quốc tế CS, Liên xô và Trung Quốc.
vietlist.us

Đền thờ trị giá 5 tỷ cho kẻ tuyên bố: “Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”.

Hình như nhờ xương máu Việt Nam như trải đường đó mà Liên Xô từ CS/XHCN mới tiến lên được dân chủ đa nguyên, đa đảng, như phương Tây hiện nay. Còn Trung Quốc củng nhờ đó mà nới rộng lãnh thổ về phương Nam, đưa Ải Nam Quan vào viện bảo tàng và nhất là nhờ xương máu Việt Nam quét Mỹ đi nên Trung Quốc có điều kiện rảnh tay một mình một cõi “giải phóng” luôn Hoàng Sa và Biển Đông của Việt Nam!

Và chính ông ta (Lê Duẩn) củng có một sáng kiến rất thực dụng, ngoài phân xanh, phân chuồng, phân bắc, thì ông vận dụng sáng tạo thêm một thứ phân nửa là phân “người chết” để sau 30 tháng 4/1975 kết thúc chiến tranh đích thân ông ký giấy chỉ đạo lùa gần nữa triệu sĩ quan công chức chính phủ miền Nam vào rừng sâu núi thẳm “cải tạo” 1/3 số tù nhân đó thành “phân người” vùi xuống đất bón trực tiếp cho xanh cây lá.

Người dân Việt Nam muốn hỏi ngài CT/Nước Trương Tấn Sang rằng: Đó có phải là công lao to lớn “vì tổ quốc Việt Nam” hay không? Mà cái đền thờ của ông Lê Duẩn toàn là gỗ quí hảo hạng, tượng của ông ta đúc bằng đồng nặng tới hàng tấn?

Ngược lại – cũng trong ngày này (18 và 19 tháng 1) tại thủ đô Hà Nội, nhân dân thương tiếc tưởng nhớ 74 đồng bào anh em chiến sĩ miền Nam, đã anh dũng hy sinh vì chống lại quân TQ xâm lược trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974. Nhưng suốt 40 năm “nhà nước, đảng ta” không có lấy một bát hương tưởng niệm thì lại bị CA/AN chìm nổi đàn áp, phá đám, hành hung và khủng bố mà họ không giải thích là tại sao?.

vietlist.us
CA/AN phá đám, ngăn cấm đồng bào tưởng niệm Liệt Sĩ Hoàng Sa.

Chắc chắn trong 180 quốc gia thuộc LHQ không có quốc gia nào (trừ duy nhất CSVN) cấm đoán công dân mình tôn vinh liệt sĩ hy sinh vì chống xâm lược.

Thưa ông CT/Nước Trương Tấn Sang! Chẳng lẽ bắn giết đày đọa đồng bào anh em mình theo lệnh CS Nga và CS Tàu, tạo điều kiện cho Tàu xâm lược là có công với Tổ Quốc. Còn nằm xuống xả thân hy sinh vì biển đảo cương thổ của cha ông lại là những tội đồ?




Chỉ vô tri vô giác như loài tôm, loài sò, thì cứt mới lộn ngược lên đầu như vậy! Thưa ngài CT/Nước.
Hoàng Thanh Trúc
-------oo0oo-------
lacomau
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước,
đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.



  Công Ơn cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

          Những ai đã sống dưới thời đệ  I  Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955 đến năm 1963 ,  cần khách quan mà nhận thấy đó là thời kỳ miền Nam Việt Nam hưng thịnh nhất, đã bỏ xa các nước Thái Lan, Mã Lai..v..v.. Sân bay Tân Sơn Nhất Saigòn thời đó đã là phi cảng rộn rịp  nhất miền đông nam Á và Saigòn đã được mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông.

          Tưởng nhớ lại : năm 1954 Thủ Tướng Diệm đã chấp chánh trong một tình thế rối ren và khó khăn nhất ,  nhưng đã lấy lại được  nền độc lập  từ tay người Pháp mà không  phải đổ máu, đã đòan kết và thống nhất  được các lực lượng  vũ trang  địa phương, đánh tan được lọan quân Bình Xuyên và trở nên vị Tổng Thống đầu  tiên của nền đệ I Cộng Hòa Việt Nam, sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955.

         - Người đã ổn định đời sống ấm no cho gần 1 triệu dân di cư năm 1954-1955, mà họ đã trở nên
         phồn thịnh sau này,  tại các vùng Bà rịa , Vũng Tàu ,  Long Thành ,  Cù Mi,  Cái Sắn , Rạch Gía, Biên Hòa, Hố Nai, Long Khánh, Đà Lạt..v..v..

        - Người đã sáng lập ra chính sách dinh điền năm 1958 ,  thành lập  10  tỉnh mới  như Bình Tuy, Long Khánh, Quảng Đức, Phước Thành, Phước Long, Bình Long…vv.. giúp cho gần 1 triệu dân nghèo từ các tỉnh miền Trung  đi lập  nghiệp,  có  nhà cữa ruộng vườn phì nhiêu, cụ thể như các dinh điền Võ Đắt, Võ Xu, Chính Tâm  vùng Tánh Linh Bình Tuy.

        - Mỗi dinh điền cũng như trại định cư : khởi đầu do  một  tóan nông cơ có khỏang 5 chiếc xe ủi , mất độ chừng  2-3 tháng để ủi rừng gom cây ,  cho mỗi gia đình có khỏang 1 mẫu tây đất trồng . Sau đó xe ủi sẽ làm đường ngang, đường dọc .

Trắc lượng viên sẽ cắm cọc phân lô vườn  ở  cho mỗi  gia đình, ấn định  vị trí  các nhà công sở, để các nhà thầu tới xây cất văn phòng hành chánh , trường học  6 phòng, trạm y tế , nhà hộ sinh ,  cư xá  đủ cho 4 cán bộ dinh điền , 1 y tá , 1 nữ hộ sinh , 5 giáo viên, ( mỗi người 1 căn ), một nhà kho lớn để chứa gạo  phát  cho  dân hàng tháng . Các giếng nước  được đào theo vị trí ấn định. 

        Tất cả những công trình nói trên được làm theo bản đồ đã được vẽ  sẵn do  chuyênviên của Phủ
        Tổng Ủy Dinh Điền đã nghiên cứu cẩn thận , và thi hành do một Ban Dinh Điền gồm có 1 Đỉa Điểm Trưởng, 1 Phụ tá, 1 Thư Ký‎‎ và 1 Quản Kho.

        Sau khi các tiện nghi nói trên đã sẵn sàng, Ban Dinh Điền báo về Phủ Tổng Ủy tại Saigòn để gửi
        tới một số nhà lều vài và ván gỗ làm giường tạm, để tiếp nhận đồng bào di dân tới tạm trú, trước
        khi làm xong nhà ở .  Rồi Phủ TUD Điền cho chở  một số di dân tới ,  từng đợt một tùy theo khả năng dung chứa của nhà lều vải, mà đợt cuối cùng là cho vừa đủ số dân đã dự trù cho  mỗi dinh điền , tùy nơi  :  từ 2000  người cho tới 5000 người. 

Sau khi tới dinh điền, mọi người  được  săn sóc y tế ngay,  sẵn sàng thuốc men, giếng nước, được cấp dao, rựa, cuốc, xèng..v..v..mùng, mền, chăn, chiếu.  Riêng gạo, bột mì và tiền  thì được cấp phát ít nhất là 1 năm hoặc hơn, tùy theo hoa lợi thu hoặch, có nơi là 1 năm rưỡi, mà có nơi chỉ một năm là dư giả như dinh điền Võ Đắt vùng Tánh Linh Bình Tuy.

        Đồng bào  di dân  chia thành từng  nhóm nhỏ để giúp nhau cất nhà bằng cây cắt ở rừng, mái lợp bằng lá kè do nhà thầu cung cấp .  Mỗi căn nhà được TỦ. Dinh Diền cấp một số tiền .  Nhà làm xong sẽ được đồng bào bắt thăm . Sau khi  ổn định nơi ăn chốn ở, đồng bào được cấp một diện tích đất trồng cũng theo cách bắt thăm.       

        Ngày nay những nơi đó là những vùng giàu có với cà phê, cao su , hạt điều,  hoặc gạo lúa, như
        miền Banmêthuật, vùng Đức Lập ở tỉnh Quảng Đức, Võ Đắt  ở  Bình Tuy , dinh điền Cà Mau, Rạch Gía ..v.v..

       - Lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới chưa hề có vị lãnh tụ  nào  đã  làm  nên những việc
        thần kỳ vĩ đại cho dân nghèo như vậy chỉ trong 9 năm cầm quyền.

       - Ngòai ra, Tổng Thống Diệm đã đem  lại  thái  bình  thịnh vượng cho đồng bào miền Nam VN.  
        vể mọi mặt, ưu tiên nhất là xây dựng hạ tầng cơ sở  nông thôn, dân nghèo được chăm lo trước hết. Năm 1960 tờ Paris Match của Pháp trang bìa đã in hình Ngô đình Diệm với chú thích : ’’
         ''Ngo dinh Diem l’âme de 1960 ‘’  Đặc biệt  năm 1961 là năm đầu  tiên và có thể là năm  duy
        nhất VN. có thặng dư mậu dịch .
       
         - Cũng xin nói thêm :  
        * Thời kỳ đó, học sinh   sinh viên  từ Tiểu Học  đến  đại học không hề phải đóng học phí.  
           Bệnh nhân vào bệnh viện cũng không hề phải đóng tiền.
       * Một số đồng bào gốc Tàu  Chợ Lớn tự nguyện  đi dinh điền Xóm Cạn (X), thuộc  tỉnh  Phước
          Thành, một số người Việt  ở Gia Định cũng xin  đi dinh điền ở  Võ Đắt  tỉnh  BÌnh Tuy :  Nghĩa là thời  đệ I  VNCH  một số dân thành phố dãn  ra vùng  nông thôn, thay vì ngày nay, dân  nông thôn phải thóat vào thành phố để mưu  sinh một cách khổ cực. Vì thế, Saigòn thời đó rất thanh thóang, êm đềm, sạch sẽ,  không ồn ào đông đúc náo nhiệt như ngày nay..

        (X) :  Dinh điền Xóm Cạn gồm hơn  3000 dân ,  gồm  có người Tiều ,  người  Quảng Đông , người Hẹ, đều là gốc Tàu Chợ Lớn và một số người Thái Bắc Việt. Các Dinh diền Xóm Cạn, Xóm Sình, Bàu Cá Trê, nằm phía sau đồn điền cao su Nguyễn đình Quát, khỏang giữa dường từ Tân Uyên Biên Hòa đi Phú Giáo, quẹo phải vào độ 4km.
  
       - Phải nói rằng :  Tuyệt đại đa số dân miền Nam thương tiếc Tổng Thống Ngô đình Diệm, chỉ có rất thiểu số cá nhân vì bất mãn, ganh tỵ, đảng phái, đòi quyền lợi chức vị hoặc bị mua chuộc, mà hãm hại hoặc đặt đều bịa chuyện nói xấu ông Diệm.

      - Những thành quả của Tổng Thống Diệm nói trên là những chứng tích cụ thể rõ ràng vĩ đại, tòan dân tòan quốc ai ai cũng có thể kiểm nghiệm hoặc thấy được, còn những điều bịa đặt của mấy tên vong ân bội nghĩa thì y như thằng mù rờ đít voi, chỉ hùa nhau nói theo mà vô chứng cớ và chính họ cũng không hề biết đích xác. ( Cụ thể như tên Võ văn Sáu, chẳng hạn ). Một kẻ bịa đặt, mười người trích theo, rồi nói đó là chứng cớ, tòan là chứng cớ cuội.
   
     - Cá nhân người viết, nguyên là  Địa diểm trưởng dinh điền 9 nơi, hồi đó chỉ có 2 vợ chồng và 2 con là 4 người , mà bây giờ cả đại gia đình đã có 36 nhân khẩu, tức là đã gấp lên 9 lần, vậy thì 2  triệu dân di cư và dinh điền hồi đó , nay cũng  có thể  nhân lên 9 lần, thành ra 18 triệu. Số người này không những thương tiếc TT. Diệm mà còn mang ơn sâu sắc đời đời TT. Ngô đình Diệm.

     - Cá nhân kẻ hèn này còn nhớ thêm một ơn sâu sắc của cụ Diệm nữa là: Nhờ cócụ Diệm làm Thủ Tướng miền Nam năm 1954 thì kẻ hèn này mới dám di cư vào Nam năm 1955 để hưởng cuộc đời sung sướng 20 năm tròn, với con cái học hành tử tế, lại có nơi dung thân để sau năm 1975 có thể bay qua sống nơi miền đất hứa mà nay coi đất nước tự do này như thiên đàng hạ giới. 

Tóm lại : Nếu không có cụ Diệm, đại gia đình tôi không được có mặt nơi miền hạnh phúc này. ( Từ thủa còn bé 1942, tôi đã thuộc lòng câu : Đày vua không Khả, Đào mả không Bài, Hại dân không Diệm, nên đã dám tin vào cụ Diệm mà di cư từ Nghệ Tĩnh vào miền Nam ).

      Mà có thể nói được rằng, nếu không có  20  năm  VNCH  thì  đại  đa số người Việt hải ngọai đã không có cơ hội bỏ cọng sản ra đi ,  mà chúng ta đã bị nhốt  trong  nhà  tù  lớn CSVN, chỉ hai năm sau hiệp Định Genève 1954 rồi. 
                  
                                Toronto, 10-6-2014     Nhân Chí


Di Cư 54 - Di Tản 30.04 & Vượt Biên sau ngày 30.04.75

Phỏng vấn Lê Đức Thọ về hiệp định Paris

Phỏng vấn chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (16/03/1981)

Lời Tuyên bố đầu hàng - Tư liệu lịch sử quý

Đại thắng mùa Xuân năm 1975, phần 1

[Film][Tài liệu] Mùa xuân toàn thắng - Tập 4 - Toàn thắng

FRONTLINE VIETNAM: The Battle of Khe Sanh (720p)

Chiến trường Việt Nam - P1: Điện Biên Phủ - Sự kế thừa

BBC - Cựu Đại Sứ Bùi Diễm - Hiệp Định Paris

BBC - Dương Trung Quốc - Hiệp Định Paris

40 Năm Ngày Ký Hiệp Định Paris 27/1/1973 - 27/1/2013 - Phần 1

Những Vấn Đề Việt Nam: 40 Năm Hiệp Định Paris - (27/1/1973 - 27/1/2013) Phần 2

Mạn Đảm Lịch Sử với ĐT Cao Văn Viên 1

30 Tháng 4 và Bài Đọc của Dương Văn Minh

Battle of Khe Sanh Vietnam War Siege at Khe Sanh Full Documantary

MĐLS 1/10: Cao Văn Viên - Lâm Lễ Trinh



image





Preview by Yahoo





On Friday, February 27, 2015 9:09 PM, "Tran Ho ]" > wrote:


 




Nhân Chứng Sống Kể Lại Cuộc Thảm Sát Tết Mậu Thân 1968 Tại Huế


Nhân Chứng Sống Kể Lại Cuộc Thảm Sát Tết Mậu Thân 1968 Tại Huế


Những Video Về Thảm Sát Tết Mậu Thân 1968

1. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - Ai Đã Giết Người Dân Huế?
http://www.youtube.com/watch?v=1CaSTPIRP0o

2. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước
http://www.youtube.com/watch?v=8swic2ihQpY

3. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - Huế 1968: Khăn Tang và Nước Mắt đường lên Ba Đồn
http://www.youtube.com/watch?v=7fOFIdz7c5I

4. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968: 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành
http://www.youtube.com/watch?v=9J3d-rK6nK0

5. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - "Giải Khăn Sô Cho Huế"
http://www.youtube.com/watch?v=Zm9g5DRZsME

6. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - Các tranh luận trong nội bộ đảng CSVN Về 1968
http://www.youtube.com/watch?v=eAdCO3LN3vk

7. Cuộc Chiến Mậu Thân 1968 - Những nhạc phẩm ra đời trong bối cảnh Mậu Thân
http://www.youtube.com/watch?v=V2tHngnioBU
©2015 YouTube, LLC 901 Cherry Ave, San Bruno, CA 94066

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List