Sunday, April 28, 2013

Nước bại theo một cái chết của ông "Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM


 

Vài chuyện mắt thấy tai nghe:
PHE CỘNG SẢN NGHĨ SAO
VỀ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Tôn Thất Thiện
trích trong:


Ghi Ơn

Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM


Ghi Nhớ 50 Năm Ngày Ban Hành Hiếp Pháp Đặt Ne^`n Tảng Cho Nên Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam – 26/10/1956-2006
Trong những năm qua, tôi đã có nói cho an hem biết một số nhận định của các lãnh tụ cộng sản khi được tin Tổng Thống Ngô đình Diệm bị đảo chánh và sát hại. Các lãnh tụ Việt Cộng Miền Nam như Nguyễn Hữu Thọ, hoặc Miền Bắc, như Võ Nguyên Giáp, và cả ông Hồ Chí Minh, đều có nhận định về biến cố nầy. Hôm nay tôi nhắc lại những nhận xét đó, và thêm vào đó, tôi xin kể thêm vài chuyện mà chính tai tôi đã nghe được, đặc biệt là nhận định của Hồ Chí Minh, từ miệng một người đã được nghe chính ông Hồ nói. Có biết những chuyện nầy mới mới có chất liệu trả lời cho những người lập luận rằng :giết Ông Diệm là một điều cần để trừ hậu vận”. Nhưng nay thì rõ rang rằng đó là lỗi lầm tầy trời của một số nhân vật, quân sự, dân sự, đối với dân tộc Việt Nam, không những đối với hai triệu người đã phải bỏ quê huong đi tìm nơi an thân, mà ngay cả mấy chục triệu người Miền Nam đang phải sống trong ô nhục, đàn áp, đói rách, mà chế độ cộng sản đã áp đặt lên họ.
Tôi kể lại sau đây những tường thuật của báo chí và học giả, mà tôi đã có dịp nhắc đến trong bài điểm sách “The Year of the Hare” của Giáo sư Francis Xavier Winters năm 1999 cho tạp chí Ấn Độ “World Affairs”: “Một quan điểm mới về vụ đảo chánh tháng 11, 1963: Ngô Đình Diệm không phải là kẻ tác quái mà là một nạn nhân của thực dân” (Bài nầy đã được dịch ra tiếng Việt, in ra và phát cho những người dự Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống năm 1999). Tôi xin trích lại mấy đoạn sau đây:
“Khi được tin Ông Diệm bị lật đổ, Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: “Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế”
“Khi Tướng Võ Nguyên Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông MacNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, họ nói rằng: “Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ Ông Diệm năm 1963 là sự kết túc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên”
“Và đài phát thanh Hà Nội nói: “Do sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em Ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở chính trị mà họ đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng”
“Về phía các lãnh tụ Mặt Trân Giải phong Miền Nam thì họ không ngờ là họ lại may mắn như thế. Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: “Sự lật dổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi”
Và phó chủ tịch Trân Nam Trung nói: “Tụi Mỹ quyết định đổi ngựa giữa dòng. Chúng sẽ không khi nào tìm được một người hữu hiệu hơn Diệm”
Trên đây là chuyện báo chí và học giả ngoại quốc kể lại. Bây giờ tôi xin kể ba chuyện mà chính tôi đã tai nghe mắt thấy từ những người trong cuộc. Những chuyện nầy vừa có một giá trị nhân chứng, vừa có giá trị lớn về lịch sử, và đối cới chúng ta, những người kính mên Tổng Thống, nó làm cho ta hãnh diện là “Diemiste” (Năm 1995, ở quảng trường Trocadéro, Paris, một người Pháp mắng tôi là “piéce de Diemiste”, khi vượt xe tôi, vì ông ta cho ra(`ng tôi đã cản đường xe ông, và tôi rất lấy làm hãnh diện bị mắng như vậy …)
1/ Trong những năm trước 1963, trong số ký giả Mỹ ở Sài Gòn có ông Keyes Beech, đặc phái viên của báo Chicago tribune, một nhà báo rất được kính nể. Năm 1963 ông nầy không hùa với đám ký giả chống Tổng Thống. Sau 1963, ông vẫn được ở Sài Gòn, và ông vẫn thân thiện với tôi. Thỉnh thoảng mời tôi đến nhà ông ấy ở gần Bộ Ngoại Giao ăn cơm. Một hôm, trong những chuyện ông kể tôi nghe có chuyện sau đây.
Ông nói: “You know, on the afternoon of the day President Diem was overthrown, I was in a bar in Pnom-Penth. Sitting next to me was Wilfrid Burchett. We were not friends. But on hearing the news about President Diem’s death, he turn to me and said; “It’s unbelievable! They have killed the only man with the ideas and the organization that can stop us”. (“Thật là không thể tin được: chúng nó đã giết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận chúng tôi”). Burchett không nói rõ “chúng nó” và “chúng tôi” là ai, nhưng ta cũng có thể thấy rõ là “chúng nó” là phe chống cộng, và “chung tôi” là phe cộng sản.
2/ Lúc trẻ, trước 1945, ở Huế, tôi quen bà Hồ Thị Mộng Chi. Bà nầy là con cụ Thượng Thơ Hồ Đắc Khải, cháu gọi Bác sĩ Tôn Thất Tùng là cậu, và vợ Bác sĩ Đặng Văn Hồ. Bác sĩ Tùng là bà con và hang xóm,ở cách tôi hai nhà, và Bà Chi ở sít nhà Bác sĩ Tùng. Bà lại là bạn thân của Ông Tạ Quang Bửu, thầy tôi. Nên chúng tôi qua lại thường, và tôi coi bà ấy như là chị, và bà ấy cũng đối xử tôi như em mình.
Sau 1945, bà Chi đem con đi du học Pháp, ở Paris cho chúng du học. Lúc đó tôi du học ở London. Mùa hè nào cũng có về Paris chơi và ở nhà bà ấy, có khi ở cả tháng. Nhưng sau 1954, bà tỏ ra thân với phía Bắc Việt, có lẽ vì Bác sĩ Tùng và ông Bửu ở phía đó, cũng có thể vì Bác sĩ Hồ, lúc đó là Thiếu tá Quân y trong quân dội Việt Nam, mà lại thêm có vợ bé. Tôi thì cộng tác với Tổng Thống Diệm. Vì vậy tôi không đi lại với gia đình Bà Chi nữa. Sau 1960, và na(m 1961 là 1968, thì “chiến tuyến” lại càng rõ rang hơn nữa, và bà Chi làm bí thơ cho Bà Nguyễn Thị Bình. Hai người con bà ấy cũng “ant-Saigon” rất nặng, và khi “phe ta” thắng trận năm 1975 thì mẹ con đều dắt nhau về Việt Nam thăm viếng ngay.
Qua bạn bè, đặc biệt là anh Bửu Kỉnh (nay đã mất), một người bạn thân của gia đình Bà Chi, mà cũng thân tôi, tôi được biết như trên, nên sau 1975, tôi vẫn giữ thái độ “kính nhi viễn chi”. Nhưng một hôm, váo khoảng năm 1978, nhân dịp ghé Paris, gặp anh Bửu Kỉnh, anh ấy bảo: “Sao toa không đến thăm Chị Chi?” Tôi trả lời: “Sức mấy! Chắc chi Chị Chi ấy tiếp tui mà đến!”. Anh Kỉnh lại nói “Đến đi! Chị hỏi thăm toa đó!”. Tôi ngạc nhiện. Anh Kỉnh lại nói thêm: “Nay, thay đổi rồi. Tôi nghĩ : “à, như rứa!”. Và một hai hôm sau, tôi điện thoại đến bà Chi. Bà trả lời rất vui vẽ, xem ra như chẳng có gì xảy ra giữa chị ấy và tôi từ năm 1954 cả, và bảo tôi đến chơi. Chị lại nói thêm là chị sẽ làm “purée de pomme de terre” cho tôi ăn. Xin nói đó là món ăn mà trước 1954 bà ấy thường làm cho tôi ăn. Bà làm rất ngon, và tôi rất thích.
Trong buổi tái ngộ, nói chuyện lông bông luôn mấy giờ đồng hộ. Tôi ngồi nghe nhiều hơn nói, và nghe ba mẹ con đua nhau đả kích Việt Cộng kịch liệt! Tôi sửng sót. Tôi không dám hỏi tại sao, nhưng chỉ đoán, nhờ bà chị nói “tụi nó tệ lắm”, và nhờ anh Bửu Kỉnh cho biết trước đó là trong chuyến về Việt Nam bà không được Việt Cộng tiếp đón niềm nở, ví nó thắng rồi nên không cần đến bà nữa. Bà thì lại tưởng rằng vì bà là người có công, nhất là đã giúp cộng sản trong việc tuyên truyền (con đại thần Triều Nguyễn mà lại đứng về phe cách mạng, bí thơ Bà Nguyễn Thị Bình, ở ngay Paris, trong cuộc đàm phán hệ trọng) Người con thì thổ lộ là “tụi nó dốt quá” (nó nói rằng Mã Lai không phải là quốc gia độc lập, còn Lê Đức Thọ, được anh ta dẫn đi coi thành tựu kinh tế kỷ nghệ Pháp lúc viếng thăm Paris thì cho rằng “chẳng có gì đáng để ý”)!!
Nhưng điều đáng ghi nhất là gia^y phút chót của cuộc tái ngộ. Lúc đó cũng gần 12 giờ khuya. Bà Chi đưa tôi ra cửa, và cùng tôi đi mấy bước ra giữa phố, lúc đó vắng. Tôi không hề đề cập gì đến Ông Diệm trong cuộc gặp gở, nhưng trước khi chia tay bà ta nói: “Nghĩ kỷ lại, chỉ có Ông Diệm là hơn hết!”
3/ Chuyện thứ ba là chuyện về kiên nhẫn, hay có thể nói là lỳ lợm. Từ năm 1963 tôi không nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh phải có chia sẻ với những người trong đảng một nhận định gì về cuộc đảo chánh. Nhưng sưu tầm tài liệu hết từ năm nầy qua na(m khác, không thấy có một nhận định nào của ông Hồ. Tất nhiên, điều đáng làm nhất là hỏi những người gần gũi ông Hồ. Nhưng họ là người “phía bên kia”, và họ lại ở Hà Nội. Làm được việc nầy hầu như là vô vọng. Nhưng, may thay, tôi đã làm được.
Trong thời gian gần đây tôi may mắn gặp một người từ Hà Nội, mà tôi quen thân trước 1954. Và cũng rất may, người nầy là một người hiếm có đã được chính tai mình nghe Ông Hồ nhận định về vụ đảo chánh 1963. Người nầy tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên trong khi còn sống, vì đây là “bí mật thâm cung”, nên tôi gọi là “Cán Bộ X”, Cán Bộ X đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau:
Y là một người có mặt tại Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội ngày xảy ra đỏa chánh ở Sài Gòn. Y thuộc nhóm được Ông Hồ cho gặp chiều ngày 2/11/63. Khi vào Phủ Chủ Tịch thì ông Hồ đang bận tiếp một phái đoàn gì đó. Y phải đợi ngoài hành lang. Đang đợi thì thấy có người mang một bao thơ vào cho Ông Hồ. Nhìn vào, thấy Ông mở ra đọc, xong, không nói gì, bỏ thơ vào túi, rồi tiếp tục tiếp khách.
Một lúc sau, khách đi rồi, Ông Hồ gọi nhóm của Cán Bộ X vào, và nói: “Lúc nãy người ta báo cho Bác biết là Ông Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhứt của Bác. Nay Ông đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn về ta rồi”
Lịch sử Miền Nam Việt Nam từ 1963 đến 1975 có thể thâu gọn trong câu nói đó, và những người tự nhân là Đệ Nhứt Cộng Hòa nên nhắc nhủ những cá nhân, hay đoàn thể, đã nhúng tay vào việc lật đổ và hạ sát Tổng Thống Ngộ Đình Diệm nên suy nghĩ về câu nói đó và trách nhiệm của mình về những gì đã xảy ra từ 1963 đến nay.
Ottawa,
Tôn Thất Thiện
Nhân Lễ Tưởng Niệm
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Năm 2006
***

Cần Thẩm Đinh Lại
GIÁ TRỊ CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM &
NỀN ĐỆ NHỨT CỘNG HÒA
Tôn Thất Thiện
Ông Diệm do chính phủ Pháp đưa lên cầm quyền và được Pháp ủng hộ?
Thuyết Nhân Vị phủ nhận cá nhân, cốt lỏi của dân chủ?
Tôn Thất Thiện
Sau cộc đảo chánh ngày 1-11-1963, số sách báo nói về Ông Ngô Đình Diệm, gia đình Họ Ngô và Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa I nhiều có thể đếm không hết.
Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, số sách báo nói về Ông Ngô Đình Diệm, gia đình Họ Ngô và Chế Độ Cộng Hòa Việt Nam I nhiều có thể đếm không hết. Các sách báo nầy đua nhau chỉ trích, tố cáo, kết tội Ông Diệm, an hem Ông và những người hăng hái phục vụ Việt Nam Cộng Hòa I. Nhiều tác giả sách báo đó dùng những lời hung hăng, đưa ra những lời chỉ trích, phỉ bang, tố cáo, buộc tội nặng nề, dưa trên những đồn đãi vu vơ, phóng đại, bịa đặt, không kiểm tra cân nhắc. Trong khi đó, về phía bị cáo, không có người lên tiếng, vì những bị cáo chính – các Ông Ngộ Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẫn – đã bị giết, và những người có quan hệ với Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa I bị những giới tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm – Chính quyền “Quân nhân cách mạng” và những phần tử từng chống Ông Diệm – uy hiếp, đe dọa, tố giác, phải im hơi lặng tiếng.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tình hình càng ngày càng rối loạn và suy sụp, cơ cấu dân sự cũng như quân sự của Miền Nam tan rã, tạo điều kiện cho Cộng sản tung hoành. Chỉ hai năm sau, 1965, quân Cộng sản đến Đồng Xoài, sát Sài Gòn, khiến Tổng Thống Jhonson phải đưa quân Mỹ ào ạt can thiệp vào Việt Nam Sự can thiệp trực tiếp nầy làm cho Miền Nam hoàn toàn mất chính nghĩa, và bảo đảm sự thắng trận của Cộng sản năm 1975, buộc hang triệu người Miên Nam phải bỏ xứ chạy ra ngoại quốc tị nạn.
Giới tị nạn gồm cả những người đã ủng hộ chế độ Cộng Hòa I lẫn những người đã tham gia và hoan hộ đảo chánh tháng 11,1963. Một số người đảo chánh không chối cải được trong vụ giúp Cộng sản xâm chiếm Miền Nam đã viết hồi ký để biện minh cho mình, bằng cách tự tân bốc mình, bôi xấu, hạ bệ và đổ lỗi cho người khác, đặc biệt là những đồng chí của họ trong cuộc đảo chánh đưa đến sự bại vong của đất nước. Tất nhiên, trong sự tố cáo, buộc tội nầy họ không quên Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chế độ Việt Nam Cộng Hòa I, mà họ đa một thời hăng hái, khúm núm phục vụ, được nâng đỡ cất nhắc, và hưởng nhiều đặc ân, lợi lộc.
Những người thuộc Việt Cộng Hòa I thì được đặt vào một vị trí khác: vị trí của những người có lý do chính đáng để tố cáo những kẻ đã tổ chức và lật đồ chế độ Ngô đình Diệm, vì sự thực quá rõ rang, không thể nào làm ngơ và chối cãi được. Nhưng trong những năm đầu họ phải lo làm lại cuộc đời vì họ phải bỏ xứ chạy ra ngoại quốc với hai bàn tay trắng, nên không lên tiếng được. Phần khác, ngững người biện hộ thực sự cho Ông Ngô Đình Diệm, gia đình Ông và chế độ Việt Nam Cộng Hòa I không phải là những ngưởi thực thân cận với Ông và gia đình Ông, trong khi chỉ có tiếng nói của những người như vậy mới có uy lực, vì, là những nhân chứng trực tiếp và thân cận, họ mới biết rõ và hiểu rõ được những gì đã xảy ra.
Tấ nhiên, rất ít những người hội đủ những điều kiện trên đây. Sau 1975, cũng có một số sách báo biện hộ cho Ông Diệm, chế độ và gia đình Ông, nhưng những sách báo nầy không có tác dụng thực sự thuyết phục được độc giả, vì tác giả không phải là nhân chứng trực tiếp và là những người có đủ uy thế để làm cho người đọc tin rằng tiếng nói của họ có thể nói là tiếng nói của anh em Ông Diệm. Còn một điều kiện nưa, cũng không kém phần quan trọng, là tiếng nói của họ phải được tin là trung thực, không bịa đặt, không thêu dệt, không thổi phồng, không xuyên tạc, vì tình cảm hay ân oán cá nhân. Riêng về những tác phẩm của một số người tự nhân là sử gia thì thiếu điều kiện căn bản của sử học: sưu khảo thấu đáo, đầy đủ, và trình bày một cách đứng đắn, khách quan, chính xác, vô tư, cân nhắc, cân bằng và công bằng, theo đúng những tiêu chuẩn của khoa học lịch sử.
Trong những năm gần đây mới có một số tác phẩm đáp ứng những điều kiện trên đây. Trong số đó có 3 tác phẩm sau đây đáng được để ý:
Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ.
Dòng Họ Ngô Dình, Ước Mơ Chưa Đạt,
của ông Nguyễn Văn Minh.
Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, Một cuộc cách mạng, của Tiến sĩ Phạm Văn Lưu, và Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn.
Những tác phẩm trên đây là những tác phẩm có thể tin được về phương diện chính xác, đứng đắn, vì các tác giả của các tác phẩm đó hội đủ những điều kiện trên, đặc biệt là họ không có quan hệ gia đình gì với Họ Ngô, mà cũng không được hưởng ân huệ gì của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Nh77ng4 tác phẩm nầy ra đời đúng lúc: những năm gần đây vấn đề xét lại lịch sử Việt Nam được đặt ra và càng ngày càng được hưởng ứng. Giai đoạn 1945-1963, giai đoạn Ngô Đình Diệm cầm quyền, là một giai đoạn rất sôi động nhưng lại chưa khảo xét đầy đủ và đúng đắn, và nay cần được chú ý nhiều hơn. Cho nên những tác phẩm trên đây có tác dụng góp phần quan trọng vào sự soi sáng lịch sử giai đoạn nầy, và rất đáng hoan nghênh.
Những tác phẩm của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ và ông Nguyễn Văn Minh đã được bàn đến ở nơi khác. Bài nầy chỉ bàn vế tác phẩm của Tiến sĩ Phạm Văn Lưu và Tiến sĩ Phạm Ngọc Tấn.
Tác phẩm của hai Tiến si Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn không thuộc về loại hồi ký/hồi ức như các tác phẩm của hai ông Duệ và Minh. Nó là một công trình sử học, đúng nghĩa của nó, nghĩa là thỏa mản những tiêu chuẩn về khoa học của những trường đại học lớn của thế giới: khảo sát tường tận, hoàn toàn khách quan, dữ kiện được cân nhắc kiểm tra kỹ lưởng, trình bày một cách bình tĩnh, vô tư, ngôn ngữ đứng đắn. Nó thỏa mản những điều kiện trên vì nó trích từ những luận án tiến sĩ của hai tác giả.
Hai tác giả trên đây tốt nghiệp từ Đại Học Monash University ở Melbuorne, Úc, và đã từng là giáo sư của đại học đó. Họ đã chon Việt Nam và giai đoạn Ngô Đình Diệm là đề tài luận án tiến sĩ, và những bài họ viết được trích từ luận án của họ. năm nay họ đều 62 tuổi, nghĩa là trong thời gian 1954-1963 họ còn là học sinh nên không có liên hệ gì với chế độ Cộng Hòa I. Họ cũng không có những quan hệ gia đình gì với Họ Ngô. Sau khi đến Úc, họ theo học các đại học nói trên, và họ đã bỏ rất nhiều công đi sưu khảo tại rất nhiều nơi có chứa tài liệu dồi dào liên quan đến Việt Nam: Bảo Tàng Viện Chiến Tranh Úc; East-West Center, Đại Học Hawaii; Archives of Indochina, Đại Học Berkely, CA; Thư Viện của Austin University, Texas; Đại Học Harvard; Đại Học Cornel, Ithaca, NY; Thư Viện Eisenhower, Thư Viện Kennedy, Thư Viện Johnson, và Library of Congress, Washington DC. Cuối cùng, sau khi tốt nghiệp, họ đã giảng dạy ở những đại học Úc, và vị thế nầy bắt buộc họ phải phải vô tư để giữ uy tín đứng đắn của mình và … khỏi mất việc. Như thế ta có thể chắc về tính chất khả tín của những gì họ viết; chính xác, vô tư, và đứng đắn.
Quyển Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam 1954-1963: Một Cuộc Cách Mạng (ĐNCHVN I) trang 229, có 5 chương. Hai chương 4 và 5 không quan hệ lắm vì nó chỉ chứa một số hình ảnh về các cuộc viếng thăm các quốc gia bạn, hay đăng lại một số diễn văn của Tổng Thống Diệm. Ba chương còn lại là những chương đáng chú ý. Chương 1 và Chương 3, của Tiến sĩ Phạm Văn Lưu soạn, nói về “Những thách thức nghiệt ngã khi về nước chấp chánh” và “Thành quả 9 năm cầm quyền”; Chương 2, do Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn soạn, nói về “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con đường mới, Con đường tiến bộ”.
Như đã nói ở trên, trong 50 năm qua, sách báo Việt Nam rất nhiều, nhưng phần lớn trong loại “khảo cứu” xuất phát từ các giới Tây Phương, đặc biệt là Hoa Kỳ hay xuyên tạc sự thực bôi xấu Việt Nam, và đặc biệt là Ông Diệm. Đó là vì, như David Horrowitz, lãnh tụ phát động phong trào phản chiến “sit in” của Đại Học Berkeley, CA, trong thập niên 1960 thú nhận sau khi đã bỏ và chống lại phong trào nầy trong thập niên 1980, những giới đại học và truyền thông Hoa Kỳ đã bị các tổ chức phản chiến và Cộng sản mang danh “cách mạng” xâm nhập, chi phối và áp đặt quan điểm “politically correct” (đúng về khía cạnh chính trị) của họ. Ông Diệm bị công kích bôi xấu đặc biệt vì Ông chống thực dân cả Pháp lẫn Mỹ đã gắt gao mà chống Cộng sản càng gắt gao hơn nữa. Phần khác, trên những kệ sách của các thư viện vắng bóng những tác phẩm loại “khảo cứu” của người Việt có đủ tầm thuyết phục phản bác lại các tác phẩm của những giới phản chiến và “cách mạng” trên đây. Có nhiều tác giả lại vô tình a dua người Tây Phương lặp lại những luận điệu bôi xấu Việt Nam và lãnh tụ Việt Nam, nhất là lãnh tụ chống Cộng hữu hiệu như Ông Diệm.
Vì lý do trên đây, không ít người Việt phe “quốc gia” thường có mặc cảm xấu hổ hay nghi hoặc về xứ sở, dân tộc, và các lãnh đạo của Việt Nam khi nghĩ hay bàn về thời sự. Riêng về Ông Ngô Đình Diệm, thì họ lại càng chê bai, kết tội hơn nữa, và những gì tốt về Ông thì không nói đến.
Khuyến điểm trên đây cũng dễ hiểu.Muốn xuất bản một tác phẩm, đặc biệt là một luận án đại học cấp tiến sĩ, về lãnh vực chính trị có khả năng thuyết phục quyết định vì nó đưa ra những dữ kiện mới, những lối lập luận mới có tính cách quyết định không phản bác được, góp phần đáng kể vào sự soi sáng vấn đề nghiên cứu, cần phải sưu khảo tường tận, viếng nhiều thư viện khắp nơi trên thế giới để thu thập tài liệu. Đây là một công việc tốn nhiều thì giờ, nhiều công, nhiều của. Điều nầy phản ảnh rõ ràng trong những chương kể trên của tác phẩm của hai ông Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn.
Chương 1, của Phạm Văn Lưu, nói về thách thức mà Ông Diệm gặp phải trong hai năm 1954-1955 sẽ được bàn đến một cách khá chi tiết, vì nó chứa đựng nhiều điều mới mà người Việt Nam cần biết. Chương 2 của Nguyễn Ngọc Tấn, nói về thuyết Nhân Vị cũng vậy vì đây là lần đầu mà thuyết nầy được trình bày một cách tường tận, đầy đủ, và nhất là trung thực khách quan. Chương 3, của Tiến Sĩ Lưu, nói về thành tích 9 năm cai trị của Ông Diệm cũng là một cái gì mới. Trong quá khứ, sách báo nói về Ông Diệm và chế độ Ông thường chú tâm vào khía cạnh chính trị - nhưng không đề cập đến những thành quả lớn mà Chính Phủ Ông đạt được trong 9 năm lãnh đạo, kiện toàn độc lập – lấy lại chủ quyền quốc gia trong tất cả các lãnh vực: chính trị, ngoại giao lẫn quân sự và kinh tế tài chánh – cải thiện đời sống của dân chúng bằng cách phát triễn tất cả các lãnh vực hoạt động - kỷ nghệ, nông thôn, ngư nghiệp, chuyên chở, giáo dục … Chương nấy rất phong phú về thống kê, cho độc giả một ý niệm rõ ràng về những thành tích lớn lao mà Việt Nam đã đạt được dưới chế dộ Việt Nam Cộng Hòa I.
Trong chương 1 TS Lưu đã dùng những từ ngữ “thách thức” và “nghiệt ngả” để nói về những trở ngại mà Ông Diệm gặp phải khi về nước chấp chánh và trong 2 năm đầu để giữ chính quyền. Hai từ ngữ nầy rất đúng. Ông Diệm đã gặp vô vàn trở ngại. Nhưng những trở ngại lớn nhất là chính phủ Pháp ở Paris hoặc Hoa Ky o+? Washington, những viên chức Pháp và những tài phiệt Pháp ở Việt Nam gây ra trong việc tìm cách lật đổ Ông, một đằng bằng cách xúi dục những người Việt chống đối Ông dùng đủ mọi cách, kể cả quân sự, để gây bất ổn, một đằng bằng cách thuyế phục lôi kéo đại diện Chính Phủ Hoa Kỳ ở Paris, ở Sài Gòn, và ngay cả Ngoại Trưởng và Tổng Thống Hoa Kỳ ở Washington đừng ủng hộ Ông ấy nữa.
Tuyên truyền Cộng sản và các giới phản chiến “politically correct” Tây Phương đã không ngớt quả quyết rằng Ông Diệm là người của Mỹ, được Mỹ lựa chọn và đưa lên làm thủ tướng và yểm trợ hết mình. Phần khác, gần đây lại có tác giả quả quyết rằng: Ngô Đình Diệm do chính phủ Pháp đưa lên cầm quyền và được Pháp hổ trợ”.
Cả hai luận cứ nêu trên đều là những quả quyết vu vơ, và đã bị TS Phạm Văn Lưu phản bác với những dữ kiện rất vũng chắc không thể phủ nhận được, vì rút ra từ các điện văn mật trao đổi giữa những tòa đại sứ Mỹ ở Paris, Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Mỹ và Tòa Bạch Ốc, và với chính phủ Pháp. Các điện văn đó được bạch hóa và phổ biến trong những năm gần đây đã cho ta biết được sự thực đích xác về những gì đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm 1954-1956, thời gian mà Ông Diệm chấp chánh và ổn định tình hình.
Ông Lưu đã cho ta thấy rằng ngay từ ngày được Cựu Hoàng bổ nhiệm làm Thủ Tướng ngày 16-6-1954, và ngay cả trước đó nữa, cho đến năm 1956 Ông đã bị nhân viên dân sự cũng như quân sự Pháp ở Sài Gòn và chính phủ Pháp, dù là thiên tả như Mendès France – hay thiên hữu - như Edgar Faure - ở Paris nói xấu và tìm mọi cách lật đổ . Và trong cố gắng thực hiện ý đồ nầy, họ đã hết mình thuyết phục các đại diện Mỹ ở Sài Gòn, Paris, Bộ Trưởng Ngoại Giao J.F Dulles, và ngay cả Tổng Thống Eisenhowere chấp nhận giải pháp loại bỏ Ông Diệm, và đã suýt thành công trong sự vận động nầy.
Ngày 13 -6-1954, 3 ngày trước khi Ông Diệm được chính thức bổ nhiệm làm Thủ Tướng, ông Dejean, Phó Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn, nói với ông McClintock, đại diện Mỹ tại Sài Gòn, rằng Ông Diệm “không có cơ may để lập một chính phủ hữu hiệu cho Việt Nam”. Ngày 15-6-1954, một tuần trước khi Ông Diệm bước chân xuống Sài Gòn và 3 tuần trước khi Ông Diệm trình diện Chính Phủ của Ông, Tướng Ely, Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn cũng nói với ông McClintock rằng Ông Diệm không đủ khả năng lãnh đạo. Ngày 20-6-1954 tại Paris, 3 ngày trước khi Ông Diệm đáp máy bay đi Sài Gòn, hơn 2 tuần trước khi Ông Diệm trình diện chính phủ của Ông (7-7-1954), Thủ Tướng Pháp Mendès France nói với Đại Sứ Mỹ Dillon rằng Ông Diệm là một người cuồng tín và nhờ Hoa Kỳ ngăn cản không cho Ông làm hỏng Hội Nghị Genève, Ông Mendès France không đặt vấn đề không cho Ông Diệm là Thủ Tướng vì bận tâm của ông ta (Mendès ) lúc đó là phải ký cho được Hiệp Định nội trong ngày 20-7, nếu không ông ta phải từ chức, vì khi nhận chức Thủ Tướng ông ta cam kết với Quốc Hội Pháp như vậy! Trong những cuộc tiếp xúc khác với đại diện Mỹ, lúc Ông Diệm dùng binh đương đầu với thách thức quân sự của Bình Xuyên, Tướng Ely nói Ông Diệm là người “mắc chứng hoang tưởng tự đại” (mégalomane), hoặc “điên khùng”. Trong cuộc hội nghị với các ngoại trưởng Mỹ, Anh, ở Paris, Thủ Tướng Pháp E.Fraure đã kích Ông Diệm nặng nề, gọi Ông là “điên khùng”.
Trong những buổi họp với đại diện Hoa Kỳ để bàn về Việt Nam, luận đề được đại diện Pháp luôn luôn đưa ra là “gải pháp” Ngô Đình Diệm chỉ là một cuộc thí nghiệm, “thời gian thí nghiệm đã qua”, Ông Ngô Đình Diệm đã tỏ ra “không có khả năng tập hợp các lực lượng chính trị”, không được quân đội yểm trợ, không ổn định được tình hình, gây hận thù đối với Pháp, cho nên phải thay thế Ông bằng một người hay nhóm người, có khả năng hơn. Người, hay nhóm người “có khả năng hơn” nầy tất nhiên lấy trong những nhân vật mà Pháp chi phối.
Những đại diện Mỹ ở Sài Gòn – các cố vấn McClintock và Kidder, Đại Sứ Heath, Đặc Sứ Collins – cũng ngã xiêu theo quan chức Pháp, nhất là những quan chức nầy có uy tín như Phó Cao Ủy Dejean, và Tướng Ely, và nhiều lần đề nghị với chính phủ Hoa Kỳ nên thay thế Ông Diệm. Ngay cả ngoại trưởng Dulles và Tổng Thống Esenhower cũng chấp nhận nguyên tắc nầy sau khi nghe phúc trình của Đặc sứ Collins về vụ Ông Diệm ra lệnh cho quân đội quốc gia dẹp Bình Xuyên, và ngày 27-4-1955 đã điện cho tòa đại sứ Sài Gòn chỉ thị về quyết định nầy. Họ bực bội với Ông Diệm vì Ông từ chối những giải pháp mà họ cho là có khả năng ổn định tình hình.
Lý do thật sự của thái dộ nầy là sự bực bội của họ trước thái độ cứng rắn, không nhân nhượng của Ông Diệm. Nói cho đúng, quan chức Pháp cũng như quan chức Mỹ ở Sài Gòn hồi đó bực bội với Ông Diệm vì Ông tỏ ra một người không dễ bảo. Nói trắng ra, Ông Diệm không chịu làm bù nhìn, dù là của Pháp hay của Mỹ, nhất là khi những đề nghị của họ vi phạm độc lập, danh dự, và tương lai của Việt Nam.
Ví dụ như: sau những xáo động ở Thủ Đô do Bình Xuyên và Tướng Hinh gây ra trong mùa Thu 1954, Đại sứ Heath đề nghị Ông Diệm lưu Tướng Hinh lại trong quân dội, nhưng Ông Diệm không chấp nhận. Đại sứ bèn quyết định là Ông Diệm phải ra đi, và ông tường trình về Washington như sau: “Chúng ta phải tranh thủ thời gian để chuẩn bị điều mà Mendès France gọi là “một cơ cấu chính quyền khác” … Tất cả mọi người ở tòa Đại Sứ tin chắc rằng Ông Diệm không thể tổ chức và điều hành một chính quyền vững mạnh”. Đặc sứ Collins đã nhiều lần, đặc biệt là ngày 13-12-1954 và ngày 31-3-1955, điện cho Tòa Bạch Ốc đề nghị thay Ông Diệm vì Ông Diệm “quá cứng rắn”. Các đề nghị của ông không được chấp nhận. Nhưng hạ tuần tháng 4-1955, sau vụ chạm súng giữa Bình Xuyên và quân đội quốc gia, một buổi họp quan trọng được tổ chức tại Tòa Bạch Ốc để nghe phúc trình, một giải pháp do ông đề nghị được chấp nhận: loại Ông Diệm khỏi chức vụ thủ tướng, đưa ông Trần Văn Đỗ thay thế Ông, và Bác sĩ Phan Huy Quát làm Phó Thủ Tướng. Trong những người chấp thuận có cả Ngoại trưởng Dulles và Tổng Thống Eisenhower. Lập trường nầy được thông báo cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn ngày 27-4-1955.
Sự chấp nhận trên đây của Ngoại Trưởng Dulles cũng khá lạ, vì ông là người ủng hộ giải pháp Diệm mạnh nhất. Nhưng thật ra, ông cũng đã phòng xa. Trong một văn thư gởi Đặc sứ Collins ngày 20-4-1955, trước khi ông nầy dời Sài Gòn đi Washington, ông nêu ra 2 điều kiện để quyết định sự ở lại hay ra đi của Ông Diệm:
1/ Ông Diệm có can đảm và quyết tâm để hành động và
2/ Ông ta có sự trung thành của quân đội không?
Nếu Ông Diệm thất bại một trong hai điều kiện nầy thì Ông phải ra đi.
Nhưng ngày 28-4-1955, quân Bình Xuyên lại tấn công quân đội quốc gia. Ngày 29-4-1955, bất chấp sự khuyến cáo của Tướng Ely, Ông Diệm ra lệnh cho quân đội đánh trả, và quân đội quốc gia đã thắng. Chính phủ Mỹ hiểu rằng những dự đoán của Tướng Ely về Ông Diệm không có khả năng địch lại quân Bình Xuyên là sai lầm, và làm cho Đặc sứ Collins cùng Chính phủ Mỹ quyết định sai lầm. Từ nay họ không còn tin vào nhận định của Pháp nữa. Ngày 1-5-1955 nhận lệnh Tổng Thống Eisenhower, Ngoại Trưởng Dulles gởi điện đến Paris và Sài gòn hủy bỏ điện tín ngày 27-4-1955. Ngày 8-5-1955, tại hội nghị Anh-Mỹ-Pháp ở Paris Ngoại Trưởng Dulles tuyên bố rằng về Việt Nam, từ nay sẽ không còn thỏa hiệp chung Mỹ-Pháp nữa.
Ông Diệm thắng.
Cái thắng của Ông Diệm là sự thắng của can đảm, và cương quyết bảo vệ chính nghĩa quốc gia Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, nó là một cái thắng của chính Ông, dù Ông bị Pháp cản trở và không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ.
Sự thắng nầy đưa đến những quyết định căn bản mang lại độc lập thật sự cho Việt Nam trong vòng chỉ 1 năm: về mặt chính trị Việt Nam ra khỏi Liên Hiệp Pháp tự chọn quy chế cho mình – chế độ Cộng Hòa – thâu hồi chủ quyền về ngoại giao: bang giao giữa Việt Nam và Pháp qua Bộ Ngoại Giao Pháp thay vì Bộ Các Quốc Gia Liên Kết nữa và Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn và Cao Ủy Việt Nam tại Paris thành Tòa Đại Sứ, chấm dứt lệ thuộc Việt Nam vào Pháp; thâu hồi chủ quyền về quân sự: ngày 26-4-1956 quân đội Pháp rút hết khỏi Việt Nam, quân đội Việt Nam không còn lệ thuộc vào Pháp nữa, viện trợ Hoa Kỳ cấp trực tiếp cho Việt Nam; chủ quyền kinh tế tài chính: cuối tháng 12 năm 1955, Việt Nam ra khỏi khu Phật lăng; giáo dục: Việt Nam tự do nhận giáo sự, chuyên viên từ bất cứ nơi nào, và giới sinh viên ra bất cứ nơi ngoại quốc nào.
Như TS Lưu nhấn mạnh: những chuyển biến trên “mang theo ý nghĩa chính thức chấm dứt 72 năm chế độ Pháp bảo hộ Việt Nam (1884-1956). Người thực hiện được điều nầy cho Việt Nam là Ông Ngô Đình Diệm. Với tác phẩm Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam 1954-1963 TS Lưu đã giúp ta thấy rõ điều nầy
Cũng như với TS P.V. Lưu, những sưu khảo của TS Nguyễn Ngọc Tấn đóng góp một phần quan trọng vào việc soi sáng giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian Ông Diệm cầm quyền. Những sưu khảo nầy nhằm vào chủ thuyết Nhân Vị. Theo Tiến Sĩ Tấn, trong 40 năm qua, “chưa có cuốn sách nào viết về chủ nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh hàn lâm [khoa học] cũng như đánh giá về tầm quan trọng của nó như một chủ thuyết chính trị” dù rằng chủ thuyết nầy là chủ thuyết khai sinh ra nền Cộng Hòa đầu tiên tại Việt Nam. Đây là “một vấn đề lịch sử còn tồn đọng” trong thế kỷ qua. Bài của ông tìm hiểu vấn đề nầy, đặc biệt tìm giải đáp cho những “nghi vấn lịch sử” sau đây:
1/ chủ nghĩa Nhân Vị là gì?
2/ Quan niệm Nhân Vị về các lý tưởng của cuộc cách mạng quốc gia ra sao và thể hiện qua các đường lối chính sách như thế nào?
3/Về nguồn gốc triết học Nhân Vị là thuyết ngoại lai hay mang bản chất chính trị văn hóa của Việt Nam?
Ông Tấn nói: những nghi vấn trên đây sẽ được bàn luận “một cách tỉ mỉ” và “những câu trả lời sẽ đặt nền móng cho công việc thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp lịch sử của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền …”
Bài khảo luận của TS Tấn “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ” chứa rất nhiều dữ kiện, suy diễn, và phân tích rất tỉ mỉ, buộc độc giả phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, không thể kể chi tiết ở đây. Bài nầy chỉ đề cập đến một số khía cạnh cần được độc giả đặc biệt chú tâm.
Về Nhân Vị là gì, TS Tấn đã dựa trên những lời của chính Ông Diệm để giải thích: Nhân Vị là hai học thuyết Nho Giáo. Nhân do chữ Nhân và chữ Nhị hợp thành có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị do chữ Nhân và chữ Lập hợp thành có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ nầy hợp lại để diễn tả ý tưởng: vị trí và phẩm giá con người trong cộng đồng nhân loại và vũ trụ. Ông viết:
“Tóm lại, chủ thuyết Nhân Vị là một triết lý nhằm đề cao giá trị con người trong tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Lý thuyết Nhân Vị chủ trương rằng: con người có một giá trị tối thượng nên mọi sinh hoạt trên đời nầy đếu phải hướng về việc phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy CON NGƯỜI biết tu thân (vừa tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẩn trong sinh hoạt con người”.
Về nguồn gốc TS Tấn nhận xét rằng suốt 40 năm qua không mấy ai chú ý tìm hiểu Lý Thuyết Nhân Vị vì cho rằng lý thuyết đó là ngoại lai, cho rằng “Nhân Vị của Ông Diệm-Ông Nhu là của Mounier, là của Công Giáo”. Những lời phê bình nầy hoặc
a) mang một chủ đích chính trị nào đó,
b) thiếu hiểu biết về Chủ Nghĩa Nhân Vị. Trong số những người loại (a) có những người như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm Is South VietNam Viable?, ông nói rằng Ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh Personnalisme của Emmanuel Mounier, và “mối lien hệ của nó với xã hội mà Ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và cái thuyết Nhân Vị “Personnalisme” cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có Emmanuel Mounier và Jacques Maritain đã hết mình cổ võ cho nó …” Trong số những người loại (b) thì có thể kể ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán Ông Ngô Đình Diệm ông viết:
“Nếu dựa trên những gì Ông Nhu đã viết [sic!] về Chủ Nghĩa Nhân Vị thì có thể nói là chính Ông đã hiểu lơ mơ [sic!] Có lẽ [sic!] Ông đã du nhập chủ nghĩa Nhân Vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên Chúa Giáo cho hòa bình Công Giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khi tư tưởng chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hang, bởi vì nó phủ nhận cá nhân [sic!], cốt lõi của dân chủ”
TS Lưu đã bác bỏ dễ dàng những nhận định sai lầm nặng nề và những phê phán hời hợt trên đây. Ông đã trích dẫn những tuyên bố, phát biểu của các Ông Nhu Diệm, và những khảo luận của những nhà học giả Việt Nam có uy tín để chứng minh rằng “Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt”, và “với biện chứng mạch lạc rõ rệt của Trie^'t Gia Kim Định, GS Lê Xuân Hồng, và học giả Đinh Văn Khang, Chủ Nghĩa Nhân Vị, Tâm Linh Đông Phương của Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu bắt nguồn từ nền tảng văn hóa của Việt Nam, không thể nào lầm lẫn với Personnalisme của Mounier (Duy Tâm Tây Phương) được”. Ông nói: “Mọi việc đã được sáng tỏ và cuộc điều tra lịch sử nầy chấm dứt với kết luận: Chủ Thuyết Nhân Vị của hai Ông Diệm-Nhu mang một bản chất văn hóa và chính trị hoàn toàn Việt Nam” (in đậm của chính TS Tấn)
Tiến sĩ Tấn đã minh chứng thêm xác quyết của ông với những trích dẫn trực tiếp từ một số tuyên bố của Ông Diệm và Ông Nhu:
Ông Ngô Đình Diệm:
“Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang” (nói với ký giả Marguerite Higgins)
Ông Ngô Đình Nhu:
“Chủ Thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. quan niệm nầy … ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam” (Đại Hội Văn Hóa Quốc Gia, 11-1-1957)
“Tôi phải nói ngay rằng: “Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Việt Nam … Hiện nay cái học thuyết Nhân Vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của Ông Già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẳn”
Phỏng vấn với báo Toronto Globe and Mail, trong Nguyệt san Gió Nam, 5-5-1963)
TS Tấn kết luận:
“Giải pháp Nhân Vị mà Ông Diệm và Ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước là mô hình “Xã Hội Dân Chủ Nhân Vị” đã được thí nghiệm ở Mie^`n Nam từ 1954 đến 1963: kinh tế thị trường với sự mền dẽo của một chính phủ phúc lợi, thực hiện công bằng xã hội và dân chủ thật sự ở hạ tầng cơ sở với định hướng dân chủ trên thượng tầng kiến trúc … Chũ Nghĩa Nhân Vị chỉ được thử nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam, nhưng trong lãnh vực lý thuyết hàn lâm, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan tọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay”

“Ông Diệm đã hạ quyết tâm, “chọn con đường hy sinh để bênh vực phẩm giá con người: người ta có thể hủy diệt Ông Diệm, nhưng không thể cướp đi những giá trị thuộc về Ông ấy. Do đó, trên căn bản đạo đức nghề nghiệp, các sử gia có bổn phận đem trả lại cho Ông Diệm những gì thuộc về Ông ấy và nền Cộng Hòa. Hãy trả lại cho lịch sử những gì thuộc lịch sử”


From: lytran lenguyen <lytranlenguyen75@yahoo.fr>
To: "ChinhNghiaViet@yahoogroups.com" <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; "Daploisongnui@yahoogroups.com" <Daploisongnui@yahoogroups.com>; "DienDanPhuVan@yahoogroups.com" <DienDanPhuVan@yahoogroups.com>; "DienDanThoVan@yahoogroups.com" <DienDanThoVan@yahoogroups.com>; "GoiDan@yahoogroups.com" <GoiDan@yahoogroups.com>; "Little-Saigon@yahoogroups.com" <Little-Saigon@yahoogroups.com>; "PhoNang@yahoogroups.com" <PhoNang@yahoogroups.com>; "Thaoluan@yahoogroups.com" <Thaoluan@yahoogroups.com>; "thaoluan9@yahoogroups.com" <thaoluan9@yahoogroups.com>; "ThoVan@yahoogroups.com" <ThoVan@yahoogroups.com>; "VN-News@yahoogroups.com" <VN-News@yahoogroups.com>; "VN-Politics@yahoogroups.com" <VN-Politics@yahoogroups.com>; "VN-Time@yahoogroups.com" <VN-Time@yahoogroups.com>
Sent: Saturday, April 27, 2013 7:17 PM
Subject: " Ngô Đình Diệm : Nước bại theo một người " trích từ LTHTvGTcMTGPMN của Tiền-bối Hồ Sỹ Khuê

Ngô Đình Diệm: Nước bại theo một người     
Tác giả :Hồ Sỹ Khuê
Trích từ

“Lịch trình Hình thành và Giải thể của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”
 (Văn Nghệ, USA, 1992)
Cựu Hoàng Bảo ĐạiNgô Đình Diệm hôn tay quy phục sứ thần Vatican

LGT- Tác giả Hồ Sỹ Khuê là một trong những “mưu sĩ” của hai ông Diệm Nhu không nằm trong Nhóm “Tinh Thần” (Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Lê Quang Luật, …). và đã từng đóng góp một phần vào chánh sách trị nước của ông Diệm trong giai đoạn thành hình của Đệ Nhất Cọng hòa.

 Sau 1954, Ông trình bày với hai ông Diệm Nhu một quốc sách dựa vào sức mạnh của lòng dân “Nam kỳ” để xây dựng chiến lược đối phó với phương Bắc. Hai ông Diệm Nhu không nghe, lại dùng “kiêu dân Công giáo” di cư làm chủ lực, gây phân hóa cho miền Nam trên cả ba tuyến Địa phương, Tôn giáo, và Chính trị. Sau đó, tuy được mời tham chánh, ông từ chối và trở về dạy học tại trường Jean Jacques Rousseau (Lê Quý Đôn sau nầy) và trở thành người “quan sát thời cuộc”.
Năm 1992, tại Pháp, với tư cách là chứng nhân và tác nhân thời cuộc, ông viết cuốn “Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh - Lịch trình Hình thành và Giải thể của Mặt trận Giải phóng Miền Nam” (Văn Nghệ xuất bản, USA, 1992) để trình bày luận điểm lịch sử của ông và thất bại của chế độ Diệm trong giai đoạn lịch sử nầy.
Dưới đây là một trích đoạn ...
MỘT CHẾ ĐỘ TOÀN QUYỀN
Người viết nắm giữ được một số tài liệu liên hệ đến thời điểm khai sinh chính quyền Ngô Đình Diệm, rơi rãi sau ngày lễ Các Thánh 1963. Theo các tài liệu này, có thể nêu lên một số sự kiện ý nghĩa.
Trước tháng 7 năm 1954, khi Bảo Đại chịu áp lực phải đưa Ngô Đình Diệm ra cầm quyền ở miền Nam, và theo yêu cầu của ông Diệm, một người miền Trung am hiểu “Nam kỳ” đã soạn cho ông Diệm một tường trình tình hình chính trị Sài Gòn, thực trạng và sức nặng chính trị của các giáo phái vùng Đồng Nai, Cửu Long. Kết luận bản tường trình này là đừng nhận thức các giáo phái theo quan điểm tôn giáo, mà phải nhìn ảnh hưởng chính trị của họ trong lòng quần chúng “Nam kỳ”. Phải nương theo ảnh hưởng ấy mà đi vào lòng quần chúng “Nam kỳ”, nhất thiết không nên để các giáo phái trở thành đối nghịch. Càng không nên tìm cách chia rẽ giáo phái và quần chúng ấy, để không gây kẽ hở tạo cơ hội cho Cộng Sản chen vào.
Tháng 12 năm 1954, khi Chính phủ Sài Gòn thu hồi dinh Độc Lập người Pháp vừa giao lại, Ngô Đình Nhu có mời một số người trước đây có thiện cảm với ông Diệm, nhưng vì lí do này khác, đứng ngoài vòng không muốn cộng tác với chế độ Diệm. Có người đã nói đến chuyện “tội tổ tông” của chế độ mới và đặt vấn đề hóa giải, nếu muốn miền Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Tóm tắt đề nghị ấy là: khi người “Nam kỳ” không giữ quyền lãnh đạo chính trị, phải chia quyền lãnh đạo ấy với họ, đưa họ vào các trung tâm quyết định của nhà nước, của quốc gia, đặt họ trước trách nhiệm cứu nước. Ông Diệm chỉ nên giữ vai trò đảm bảo cho các chính quyền miền Nam dân chủ và tự do, không Cộng Sản.
Nhưng con người khó thoát khỏi bản chất cố hữu của mình. Ngô Đình Diệm không lột được xác quan lại cũ để vươn lên hàng một chính khách đúng mức đáp ứng các vấn đề Việt Nam lúc bấy giờ. Lại càng không đóng nổi vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh phức tạp, tế nhị bên trong cũng như bên ngoài đất nước. Cho nên Ông không xây dựng một chế độ chính trị mà chỉ thiết lập một chế độ cai trị, hành chánh. Một chế độ “toàn quyền” miền Nam, hệt như chế độ Toàn quyền Đông Dương cũ của người Pháp. Nhà nước Sài Gòn chỉ là một tổ chức quyền lực ghép lên dân chúng trong cõi, như ván ghép ghép vào gỗ.
Hành chánh để cai trị dân thì có. Dùng luật pháp để bảo vệ trật tự trên cơ sở một tổ chức công an cảnh sát giàu phương tiện và bất chấp nhân tình. Các ông huyện Tây học cũ của triều đình Huế được tận dụng, người thì đi các tỉnh lo việc củng cố thế lực còn mong manh của lãnh tụ, người thì ở thủ đô, rập theo khuôn sáo miền Bắc Cộng Sản, tổ chức liên gia, tố cộng, hòng kiểm soát dân chúng.
Nhưng chính trị thì không! Vì coi nhẹ việc dung hợp nhân dân, ngờ vực dân Đồng Nai Bến Nghé. Cho nên ông Diệm chỉ chọn lọc kỹ lớp khuyển mã người Nam gọi dạ bảo vâng, rồi tự mãn là dành nhiều địa vị cho người “Nam kỳ” đúng theo sự đòi hỏi của tình thế.
Quan trọng hơn cả là việc đối xử với thành phần cựu kháng chiến chống Pháp quay về thành. Năm 1949, nhóm Tinh Thần gồm một số trí thức Sài Gòn ủng hộ Ngô Đình Diệm, đã cưỡng ông Diệm chấp nhận một số tuyên cáo cam kết với anh em kháng chiến sẽ dành cho họ một địa vị, một phần trách nhiệm đúng mức, khi họ trở về với chính thể quốc gia độc lập về sau. Năm năm sau, quả ông Diệm lên cầm quyền, và anh em kháng chiến trở về thành đã chịu nhiều điêu đứng trong cái chế độ cảnh sát trị của ông. (Đồng bào đang ở Pháp có thể tìm gặp Trần Văn Đỗ, một thành viên của nhóm Tinh Thần, để xác minh sự kiện).
Những hy vọng ban đầu của người miền Nam dần dà tan biến. Chính từ đó người trong nước mới bắt đầu ý thức về cái “tội tổ tông” của chế độ Sài Gòn, một chế độ “toàn quyền” có tính cách thống trị mà họ không thể nhìn nhận được.
Một chế độ họ không muốn chấp nhận, sống trong đó họ chịu nhiều tai ương, nên dễ mang tâm lý ly khai. Đây là thời kỳ đảng Cộng Sản tích cực ly gián nhân dân và chính quyền. Tuy vậy, người miền Nam cho là mình ở vào cảnh “trên đe dưới búa”, tới dở lui cũng dở, mà thôi, Cộng Sản chưa lôi cuốn được. Có nhận ra tâm lý ấy mới hiểu sức mạnh của phong trào Phật giáo vào các năm 60, lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Sức mạnh của một quần chúng muốn thoát khỏi cảnh trên đe dưới búa, cảnh phải chọn lựa giữa Cộng Sản và Ngô Đình Diệm. Quần chúng ấy đã hội tụ trong phong trào Phật giáo.
Tuy thế, đã có ly cách giữa chính quyền và quần chúng Nam bộ, là có chỗ cho Cộng Sản khuấy động, làm ầm ĩ chuyện Phú lợi, chuyện Ấp Bắc, chuyện Đồng Khởi, một nói thành mười, thành trăm, rồi nhân đó mà cho Mặt Trận xuất hiện công khai năm 1960. Chứ thật tình thời cuộc lúc này chẳng có chi mà sôi động bất thường, và cũng không hề có một phong trào đi bưng ào ạt để thành hàng ngũ cho Mặt Trận. Sức mạnh duy nhất lúc bấy giờ là Phật giáo, không phải là Cộng Sản nép sau Mặt Trận. Bằng cớ là trong tình hình chế độ Sài Gòn sụp đổ đang chông chênh, đảng Cộng Sản không thừa cơ hội mà thao túng nổi.
…….
TÌNH HÌNH MIỀN NAM NĂM 1960
Để thi hành hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc phân định và được các cường quốc chính thức đảm bảo. Kế đến, việc trưng cầu dân ý để thống nhất năm 1956 bị hủy bỏ. Chế độ hai miền đối nghịch nhau nhưng đều có căn bản pháp lý vững vàng. Công cuộc tập kết hai bên đã thực hiện khá tốt, mỗi bên đều bận bịu nhiều, trước hết, vào việc tổ chức cơ cấu nhà nước, xây dựng chế độ riêng, tuyên truyền cho đường lối của mình, kết hợp quần chúng hòng thiết lập quốc gia, giải quyết các nhu cầu cấp thiết của mỗi miền.
Trong hoàn cảnh ấy, và khi hiệp định đã chấm dứt chiến tranh, súng đạn đã im tiếng, thì các hậu ý bên này hay bên kia về một cuộc tranh chấp bằng vũ lực tạm thời phải dẹp sang một bên dành ưu tiên cho việc củng cố nền tảng của chế độ.
Cho nên, hòa bình đã tái lập cứ thế mà kéo dài. Và có thể nói là suốt chín năm chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, miền Nam đã sống thanh bình, quần chúng miền Nam dành công sức để xây dựng lại đời sống của mình, trong không khí thanh bình ấy, ở các đô thị cũng như ở thôn quê.
QUẦN CHÚNG MIỀN NAM
Nói đến quần chúng miền Nam lúc bấy giờ, là nói đến một hỗn hợp phức tạp.
Thành phần đông đảo hơn cả là người “Nam kỳ”. Những người đang sống trên chính đất gốc của mình, đất “Nam kỳ”, từ nay trở thành nền tảng lãnh thổ quốc gia: 65% dân số.
Tương lai của quốc gia từ vĩ tuyến 17 đổ xuống tất nhiên tùy thuộc vào đất “Nam kỳ” và vào người “Nam kỳ”. Đất phì nhiêu đủ nuôi ăn cả nước. Người có mức độ văn hóa, chuyên nghiệp cao hơn nơi khác. Gồm sẵn một số cơ sở thương nghiệp, kỹ nghệ có thể làm bước đầu cho việc phát triển kinh tế lúc bấy giờ là một ưu tiên.
30% dân số khác của miền Nam gồm người đất “Trung kỳ” bên dưới vĩ tuyến 17. Chật vật nhiều xưa nay, nhưng vẫn không khỏi phải nhờ đến lúa gạo “Nam kỳ” để có thể giáp mùa hàng năm. Thành phần còn lại, 5%, là đồng bào Bắc Việt di cư. Và một số vài ngàn người, từ Bắc từ Trung, theo nhân vật lãnh đạo vào Nam thiết lập chế độ mới. Gồm quan lại, công chức cũ, cùng tập đoàn tay chân, sớm có muộn có, đã quây quần dưới trướng ông Ngô Đình Diệm. Lấy thành phần di cư làm căn bản quần chúng, lấy tay chân làm nòng cốt cho chế độ Cộng Hòa.
TƯƠNG QUAN GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ QUẦN CHÚNG
Ngô Đình Diệm thiết lập chế độ của mình trên những thành phần nhân dân phức tạp như vậy mà nhất đán không gặp một khó khăn nào từ quần chúng. Những khó khăn buổi đầu ông đã vấp phải đều do nguồn gốc tương tranh quyền lợi giữa ông và các thế lực đối đầu với ông (như Bình Xuyên, như Nguyễn Văn Hinh), quần chúng miền Nam nói chung không can dự vào.
Điều đáng nêu lên trước hết, là tinh thần “Nam kỳ quốc”, trước kia thường được nhắc đến để dè bỉu người Nam, xem như là một trở ngại lớn cho tinh thần thống nhất dân tộc, nay không thấy phát hiện. Tuy điều kiện để nó phát hiện đã có đủ, nhất là khi quyền binh nằm trong tay một người không phải gốc “Nam kỳ”.
Người “Nam kỳ” không đố kị chút nào với chế độ mới, trong đó họ không được dành một phân quyền lực xứng đáng với tầm quan trọng của họ. Không đố kỵ chút nào với nhân vật cầm đầu chế độ, họ chưa hề nghe nói đến tên tuổi, mà nay làm chủ phần đất gốc gác của họ.
Người ta có thể thấy rõ thái độ cởi mở ấy trong cách đồng bào miền Nam tiếp đón đồng bào miền Bắc di cư. Sốt sắng, thân tình. Các khu định cư người Bắc ở Cái Sắn, ở Biên Hòa, được bà con địa phương nâng đỡ, chẳng bao lâu đã trở thành những vùng an sinh phồn thịnh.
Thái độ tích cực ấy bắt nguồn từ bản chất, từ tính tình của người Nam kỳ. Đời sống thường dễ dãi, không hề phải lo đói, nên họ có một tâm hồn thật cởi mở, thương người. Tính tình phóng khoáng ấy khiến họ hầu như không có tham vọng quyền bính. Lòng yêu nước thành truyền thống từ thuở Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân cần vương, khiến họ giữ được tinh thần dân tộc dù trải 80 năm thuộc địa bị tách rời khỏi phần kia của đất nước2. Không hề có đầu óc phân ly.
Người “Nam kỳ” không có đầu óc phân ly như người Trung, người Bắc thường lo sợ.
Nhưng điều oái oăm là, với chế độ Ngô Đình Diệm, tinh thần phân ly được phát động mạnh mẽ và ngược chiều.
Thay vì người “Nam kỳ” phân ly với chế độ cưỡng chế họ dưới quyền một người không cùng gốc, thì chế độ này lại tự phân ly với người “Nam kỳ” bằng chính sách Bắc trị trên đất Nam kỳ.
Tính phân ly ngược chiều ấy nằm trong bản chất của chế độ và bản chất của nhân vật cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm.
Nằm trong bản chất của người cầm quyền chính, vì ông Diệm xem mình như đương nhiên mang một thiên mệnh cứu dân, cứu nước. Tính khổ tu và óc tôn giáo của ông đã khiến ông nhìn đâu cũng chỉ thấy có tội lỗi. Càng thấy tội lỗi rõ hơn ở những ai không đứng cùng một phía với ông. Người khác đạo, người khác gốc, người ngoài vòng gia đình, ngoài vòng thân thuộc của ông, người nghĩ khác, nói khác ông, đều có thể là những người tội lỗi. Quan niệm thiện ác được ông mang áp dụng trọn vẹn và cứng ngắc ở phạm vi quyền chính ông cầm trong tay. Nhưng thiện hay ác do ông định nghĩa lấy. Thành ra ngờ vực là căn bản sinh hoạt chính trị của ông. Coi thường người khác là căn bản trong thái độ đối xử của ông. Cho rằng ai cũng phải thần phục mình, trung thành với mình, tôn thờ mình là căn bản suy tưởng của ông.
Từ bản chất ấy, từ thái độ ngờ vực người khác ấy, từ quan niệm thiên mệnh ông mang, ông đã tập họp rồi dung túng quanh ông một lớp tay chân và một lớp khuyển mã, đau đáu giữ gìn thế nào cho khỏi thất sủng, hơn là làm được việc cho ông.
Thành ra một thứ triều đình, tách rời chế độ và người cầm đầu chế độ xa lìa quần chúng trong nước. Mà thành phần chủ yếu của quần chúng này, như nói ở trên, là người “Nam kỳ”.
Phần khác, ưu tư tôn giáo, nhu cầu củng cố thế lực, khiến ông Diệm xem thành phần Bắc Việt di cư là căn bản chủ yếu của chế độ. Dùng họ làm lực lượng hậu cần của chế độ, ông Diệm ly khai hẳn với thành phần đa số là người Nam kỳ. Từ tâm lý ly khai ngược chiều ấy, ông đi đến tâm lý kỳ thị người Nam, xem họ không xứng đáng trong cái nhìn “yêu nước” của ông.
MỘT CHẾ ĐỘ BẮC TRỊ, GIA ĐÌNH TRỊ, VÀ CẢNH SÁT TRỊ
Chế độ được thiết lập cũng mang bản chất phân ly. Nhất thiết không có một người “Nam kỳ” nào tham dự vào trung tâm quyết định nhà nước, từ trung ương đến địa phương. ở thượng tầng, của đáng tội, người Nam, người Trung hay người Bắc đều bị kỳ thị hết. Chẳng có ai chen vào trung tâm quyết định việc nước dành riêng cho các anh em ông Diệm (người trong nước gọi chung là gia đình trị). Nhưng ở các địa phương, hàng tỉnh trưởng gồm toàn tay chân, thân tín người Bắc, người Trung, không có lấy một người Nam nào (người trong nước gọi là Bắc trị).
Nhưng tai hại hơn cả là tính phân ly của một thứ chế độ mà bản chất không phải là chính trị mà là cai trị. Vấn đề chính của ông Diệm nằm trong quan niệm phải củng cố rồi nắm vững quyền bính cá nhân của mình để chống Cộng. Chứ không phải xây dựng một miền Nam không Cộng Sản, hưng vượng, phát triển tự do, để làm nổi bật những giá trị văn hóa, xã hội, nhân sự, khiến ai cũng thấy rõ một miền Nam đáng cho người chuộng tự do, chuộng nhân phẩm chọn làm đất sống. Thành ra chế độ không đặt nặng vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mà đặt nặng vấn đề an ninh. Vấn đề chính của ông Diệm là cai trị, không phải là chính trị. Từ bản chất ấy, nền móng của chế độ là tổ chức công an, mật vụ. Chi chít đến nỗi các anh em của ông mỗi người đều có riêng một tổ chức mật vụ hoạt động cho chủ mình, bất chấp luật pháp (người trong nước gọi là cảnh sát trị).
Ghép lên tính phân ly của chế độ, của người lãnh đạo, dần dà thái độ phân ly của các bộ hạ tay chân. Nhất là ở các địa phương. Từ đó nạn cường hào ác bá trở nên một tệ nạn cuối cùng tách hẳn quần chúng “Nam kỳ” khỏi chính quyền. Ưu tư của nhân dân và ưu tư của chính quyền từ đó trở nên trái ngược với nhau, vấn đề của nhân dân không phải là vấn đề của nhà nước, và ngược lại. Lợi cho chế độ là hại cho dân, hại cho chế độ là lợi cho dân. Sau cùng, đó là tâm lý thấy được của người “Nam kỳ” trong các biến cố khuynh đảo chế độ Ngô Đình Diệm các năm 1960 đến 1963. Cảnh hoan lạc của nhân dân miền Nam ngày lễ Các Thánh năm 1963 biểu hiện rõ rệt sự phân cách hoàn toàn giữa chế độ ông Diệm và quần chúng “Nam kỳ”. Cái chết của ông Diệm, ông Nhu là nỗi vui chung của cả nước, vui đúng, vui sai lại là chuyện khác.
Tình trạng phân ly giữa chính quyền và nhân dân ấy đã tạo thời điểm cho phe Cộng Sản đưa Mặt trận ra ánh sáng năm 1960.
…..
NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐÁNH MẤT DÂN MIỀN NAM.
PHÂN CÁCH GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM (trước 1975)
Hiệp định Genève, mang chữ ký các cường quốc, đảm bảo cơ sở quốc tế công pháp của Sài Gòn, đối diện với Hà Nội.
Chính quyền còn phải được thiết lập, trên căn bản nhân vật lãnh đạo là người mới muốn dứt khoát với thực trạng cũ mình không dự phần. Nhằm mở một kỷ nguyên khác theo nguyện vọng chung trong nước. Mọi việc phải bắt đầu lại trong một bầu không khí vừa phấn khởi, vừa thiếu ổn định, của một xã hội từ chiến tranh đi vào hòa bình. Tình huống nhân dân còn lẫn lộn, phức tạp, tâm trạng mọi người chưa lắng đọng kịp.
Mục tiêu dài hạn: xây dựng miền Nam không Cộng Sản thành một quốc gia phát triển vững mạnh, tự do, dân chủ, có đủ giá trị hấp dẫn, chờ ngày thống nhất.
Ngô Đình Diệm, sau gần năm năm sống ở ngoài, về nước cầm quyền tháng 7-1954 trong hoàn cảnh nói trên. Với nhiều lẽ thuận, nhiều lẽ nghịch, chủ quan có, khách quan có. Phải nhận ra trước, để hiểu các sự việc về sau làm sụp đổ miền Nam.
 1-Lẽ thuận: Hậu thuẫn quốc tế và quần chúng trong nước.
A. Quốc tế:
- Sức ủng hộ của Hoa Kỳ, dựa trên thế lực Công giáo ở Mỹ, và của thế giới tự do. Nhiều hứa hẹn viện trợ kinh tế, để phát triển (chương trình Colombo, cơ quan USAID), việc trợ kỹ thuật, viện trợ quân sự, để phòng thủ (tổ chức Liên phòng Đông Nam Á SEATO).
- Pháp từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam. Quân đội Pháp trú đóng chỉ giữ nhiệm vụ trật tự thi hành hiệp định, sớm muộn phải rút. Ba Lê mong giải kết duyên nợ thuộc địa một cách thuận lợi, hòng mưu cầu lợi ích kinh tế lâu dài sau đó.
- Các nước Đông Nam Á, nhất là Cao Mên và Lào, đang lo ngại đà tiến của Cộng Sản, xem miền Nam như một tiền đồn, sẵn sàng ủng hộ một cách kín đáo.
- Chiến tranh nguội chia thế giới thành hai khối: Cộng Sản và dân chủ tự do. Khối các nước tự do chờ những kết quả sơ khởi của Sài Gòn để ủng hộ và giúp đỡ cụ thể.
B. Nội Bộ:
- Ngô Đình Diệm là người mới, không dính líu trong chế độ Quốc trưởng. Lại được tiếng là yêu nước, đạo đức, liêm khiết, các đức tính thời thượng lúc bấy giờ.
- Trong địa vị Thủ tướng, được toàn quyền hành động, không chịu chỉ thị, không có kiểm soát của Bảo Đại. Một năm sau làm Tổng thống.
- Đất nước đi vào Hòa bình, nhân dân náo nức, lạc quan. Ông Diệm không phải là người có công mang lại hòa bình, nhưng được hưởng cái lợi tâm lý do hoàn cảnh ấy tạo nên.
- Cuộc di tản vĩ đại của một triệu đồng bào miền Bắc, bỏ mồ mả quê hương, vào Nam tránh nạn Cộng Sản, chọn lựa miền Nam quốc gia theo ông.
2. Lẽ Nghịch: Một thế giới thiên vị và mù quáng.
A. Quốc tế:
- Miền Nam là đối tượng bành trướng của quốc tế Cộng Sản, sau Trung Quốc (1949) và sau miền Bắc Việt Nam (1954).
Chiến lược và mưu đồ xích hóa thế giới nhằm việc thôn tính miền Nam đến cùng. Nhiệm vụ tiền phương thuộc phần Hà Nội. Một nhiệm vụ quốc tế, hoàn toàn không phải là một nhiệm vụ dân tộc. Song song, Bắc Kinh giữ nhiệm vụ hậu cần. Đầu não là Mạc Tư Khoa.
Thành ra, giữa Mỹ và Sài Gòn, quan hệ chỉ có tính cách viện trợ phương tiện, ủng hộ tinh thần, để bảo vệ tự do cho một quốc gia nhỏ, trong mức độ tán đồng của dư luận nội bộ Hoa Kỳ. Mà dư luận một nước dân chủ thì lại dễ giao động đến có thể xoay ngược chiều. Việc ủng hộ và viện trợ không thể vô giới hạn, cũng không thể kéo dài mãi được, nếu không đạt kết quả sớm. Hiệp định Ba Lê 1973 là một minh chứng. Chính dư luận Mỹ đã buộc Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi Sài Gòn.
Trái ngược hẳn lại, giữa Liên Xô và Hà Nội, quan hệ là chuyện phân chia công tác và nhiệm vụ nhắm một cứu cánh chung: xích hóa thế giới. Hà Nội đứng ở tuyến đầu. Bắc Kinh tuyến hậu. Mạc Tư Khoa là trung tâm chỉ đạo và lãnh đạo. Cho nên không phải là chuyện viện trợ và ủng hộ. Mà là chuyện bành trướng của khối Cộng Sản thế giới.
Nhiệm vụ này trường kỳ. Thế giới từng bước một phải rơi vào tay Mạc Tư Khoa, nhân danh cách mạng vô sản. Không giới hạn phương tiện về công sức, về của cải. Không giới hạn về nhân mạng, về tai ương của chiến tranh. Cho nên không có chuyện Mạc Tư Khoa bỏ rơi Hà Nội vì lẽ này hay lẽ khác, như Hoa Thịnh Đốn đã bỏ rơi Sài Gòn vì quân đội Mỹ thiệt hại nhiều.
Nói cho cùng: Sài Gòn khác. Hoa Thịnh Đốn khác. Nhất đán vì quyền lợi chung có thể đi với nhau, nhưng vẫn là hai. Mạc Tư Khoa và Hà Nội lại chỉ là một. Trong vấn đề Nam Việt Nam.
Như thế, Sài Gòn không phải chỉ đương đầu với Hà Nội, mà thực sự phải đương đầu với toàn khối Cộng Sản, không những với Mạc Tư Khoa mà còn cả với Trung Hoa, với Đông Âu.
- Trong khối các nước dân chủ Tây phương, khái niệm cách mạng thế giới chống tư bản chủ nghĩa đang hồi thời thượng. Giới trí thức, nhất là tả phái, bị mê hoặc theo những giá trị họ ngưỡng mộ là cách mạng, sẽ thay đổi được thế giới, thay đổi được con người, tranh nhau tán dương Cộng Sản, tâng bốc Liên Xô là thiên đường hạ giới. Jean Paul Sartre đã không ngần ngại tuyên bố: “Chỉ có là chó mới chống Cộng”. Vì thế, trong vấn đề Việt Nam, họ luôn luôn về hùa với Hà Nội. Solzhenitsyne chưa sang Tây Âu, ảnh hưởng của họ có tính cách thời thượng, làm thiệt hại nhiều cho miền Nam khi muốn vận động dư luận quốc tế, vận động ngoại giao, để bênh vực cái thế của mình.
Đến cả tướng De Gaulle, trong tuyên ngôn ở Nam Vang của ông, trên đường công du thuộc địa Nouvelle Calédonie, lên án Mỹ can thiệp vào Việt Nam, cũng đã có một ảnh hưởng thật tai hại cho Sài Gòn. Tuyên ngôn của ông đã được xem là một trong các yếu tố đưa đến thất bại của Hoa Kỳ ở miền Nam.
- Các nước Đông Nam Á chưa đạt đến mức phát triển khả quan, nên tổ chức ASEAN chưa hình thành được như hiện nay để có một tiếng nói chung bênh vực Sài Gòn, mà thế giới không thể không chú ý đến được.
- Các nước trong thế giới đệ tam, tuy gọi là trung lập nhưng lại thiên Hà Nội vì muốn gần Liên Xô.
- Ông Diệm thù người Pháp nên không biết lợi dụng việc họ có mặt và ảnh hưởng ở miền Nam, như quân đội Nhật đã làm từ 1941 đến 1945, như ông Hồ Chí Minh đã làm từ 1945 đến 1946.
B. Nội Bộ:
- Tội tổ tông của chế độ Ngô Đình Diệm: Miền Nam chỉ là đất Nam kỳ mở rộng, ông Diệm không phải gốc Nam kỳ và người Nam kỳ không biết ông Diệm mà chỉ nghe đồn về ông mà thôi.
- Mặt tiêu cực trong con người ông Diệm.
1. Thiếu tầm vóc:
Không có đủ tầm vóc một lãnh tụ quốc gia, một chính khách quốc tế. Vì học thức giới hạn, kiến thức thiếu sót, nên không am hiểu đến nơi các biến chuyển lớn trong thế giới, sau thế chiến thứ hai; không nhìn rõ được các vấn đề đất nước, trong thời điểm thiếu ổn định về mọi mặt sinh hoạt xã hội lúc bấy giờ, khi hòa bình trở về và đất nước qua phân. Thành ra không phân biệt được vấn đề chính, vấn đề phụ, và định sai thứ tự ưu tiên các công việc phải làm.
2. Nhân sinh quan hẹp hòi:
Ông Diệm trọng đạo đức, thuần thành về tín ngưỡng. Đau đáu lo giữ mình đến nỗi quên người, nên sợ kẻ khác làm hỏng việc mình. Thành ra không giám tin ai và thường ngờ vực tất cả, hóa ra người lãnh đạo mà rất quả giao. Lẫn lộn tốt, xấu, theo đạo đức bình thường, với điều hay, dở, trong hành động nhà nước. Cuối cùng đi đến độc tôn, độc đoán, mình cho là phải mình cho là trái đều là phải, là trái, không ai cãi được. Nên không chịu nổi ai nói khác mình, không chấp nhận đối lập.
3. Không dám tin người:
Thung dung được với người thân tín sẵn, mà lúng túng với người chưa quen. Thành ra chỉ biết có anh em, thân quyến trong gia đình, chỉ gần tay chân bộ hạ. Khi lên cầm quyền, trong vấn đề dùng người, chỉ chọn kẻ chịu làm tay sai, không chọn người cộng tác ngang hàng.
4. Quan liêu gia đình:
Gia đình và thủ túc nhiều tham vọng quyền lực, quyền lợi. Từ Trung, từ Bắc vào, làm thêm nặng cái tội tổ tông của chính quyền Diệm.
5. Xung khắc về bản chất giữa ông Diệm và dân Nam kỳ:
Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa trực trị có luật pháp rõ ràng, nên được đảm bảo ít nhiều tự do. Nay kháng chiến thành công, dân tại chỗ đòi dân chủ, không sẵn sàng chấp nhận một nhà nước câu thúc quá đáng. Ông Diệm, xuất thân là đại thần triều đình Huế cũ, cá tính con người ông không để cho ông sử dụng quyền bính cách khác hơn là quan liêu, lệnh từ trên ban xuống, không có đối thoại, trao đổi với ai.
Người Nam kỳ tính phóng khoáng, cởi mở, cả tin, không có tham vọng quyền bính, không bận tâm chính trị mấy. Vì thế, mà sau kinh nghiệm kháng chiến, họ không thích Cộng Sản, nhưng đã từng tranh đấu với nhau, họ không chống Cộng. Ông Diệm và tả hữu tay chân lấy việc chống Cộng làm quốc sách, chê người Nam kỳ là ấu trĩ.
6. Không biết sử dụng thành quả kháng chiến Dân Tộc:
Thành quả kháng chiến là niềm tự hào của dân Nam kỳ. Nhưng lại là vết hằn trong tâm thức ông Diệm. Quần chúng Nam kỳ kháng chiến theo truyền thống Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân v.v... để giải phóng đất nước. Không phải để theo Mác, theo Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân Pháp.
7. Ông Diệm không tham dự kháng chiến.
Đứng ngoài vòng một thời, và một thời gian sau đó xuất ngoại sang sống ở Hoa Kỳ. Sự kiện lịch sử này có thể giải thích. Kháng chiến do người Cộng Sản lãnh đạo. Quần chúng nhằm mục đích ngắn hạn tranh thủ độc lập, không cần nhìn xa hơn để ngờ vực, Cộng Sản mưu đồ cách mạng vô sản thế giới, không cần chú ý đến mục đích dài hạn của đảng Cộng Sản. Ông Diệm chống Cộng, kẻ thù chính của dân tộc, trong con mắt ông, là Cộng Sản. Ông không thể tham dự kháng chiến, không thể tranh đấu dành độc lập chung với Cộng Sản. Một phần vì ông không chấp nhận lãnh đạo Cộng Sản trong kháng chiến. Phần khác, ông muốn tranh đấu giành độc lập theo một đường lối khác. Thái độ ông khả kính. Đường lối ông có giá trị. Nehru ở Ấn Độ, Soekarno ở Nam Dương chứng minh nhận xét này. Và có lẽ họ đã mở đường cho ông Diệm. Cho nên, nhất thời, ông không thể để cho phong trào quần chúng trong nước lôi cuốn vào cuộc kháng chiến mà ông biết về sau tất nhiên bị Cộng Sản lợi dụng. Lịch sử sẽ ghi nhận định của ông là đúng.
Kháng chiến thành công. Pháp phải từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam và ông Diệm được đưa lên cầm quyền trên nửa phần phía Nam đất nước. Trên đó Nam kỳ là địa cư chính và trọng yếu nhất. Đây là cớ sự tạo một mặc cảm thật tế nhị, thật phức tạp, trong tâm thức con người Ngô Đình Diệm.
Nam kỳ kháng chiến đã phần nào ngược với chủ trương chống Cộng của ông. Nên ông mặc cảm như phong trào này cũng chống ông. Nay kháng chiến thành công trên mảnh đất Nam kỳ ông trực tiếp tiếp thu kết quả. Trong tiềm thức ông, ông thấy có chi đó bất ổn. Tâm lý tự xem mình là người phi thường khiến ông hóa giải điều bất ổn này một cách sai lạc. Đến chỗ đố kỵ người Nam kỳ.
8. Mặc cảm đố kỵ người Nam kỳ.
Những người từ nay bị đặt dưới quyền ông, ông Diệm muốn thoát ngoài tình trạng này bằng cách đặt mình lên trên lẽ thường của mọi người. Cách xử sự này hợp với bản tính tự cao tự đại của con người ông. Đưa ông đến việc cho mình là người mang một sứ mệnh thần thánh cứu dân, cứu nước, không cần phải theo sát tâm lý, nguyện vọng “thiển cận” của nhân dân. Nhất là nhân dân Nam kỳ, đương nhiên thuộc trách nhiệm lãnh đạo của ông.
Tâm lý tự tôn để tự ổn này được gia đình ông, tay chân bộ hạ ông cổ súy, phụ họa vào. Cớ sự này đã tạo nên cho ông, cho tả hữu quanh ông, một tâm trạng kẻ cả mà người miền Nam từng biết rõ, và đã tạo ảnh hưởng nặng nề cho tư thế lãnh đạo của ông.
Tâm trạng kẻ cả của ông Diệm, của gia đình và tả hữu ông, đối với dân Nam kỳ, có thể tóm tắt trên vài điểm chính:
- Người Nam kỳ thiếu ý thức chính trị (hàm nghĩa: ồ ạt chạy theo Cộng Sản để kháng chiến).
- Người Nam kỳ ấu trĩ về văn hóa. Vụ tờ báo “Tự Do” của Phạm Việt Tuyền nêu nhận định là “Nam kỳ không có văn chương” đã một thời khiến dân Nam kỳ phẫn nộ.
- Người Nam kỳ đạo đức thấp. Ông Diệm và thân quyến đã võ đoán như vậy khi thấy xã hội Nam kỳ, dù muốn dù không, cũng chịu ảnh hưởng sinh hoạt của người Tây phương nhiều hơn đồng bào các nơi khác.
- Người Nam kỳ phản quốc. Hàm ý họ hết theo Pháp thì theo Cộng. Ngô Đình Nhu đã nói lên lời: “les Cochinchinois sont des traitres” (dân Nam kỳ là phường phản bội) với người viết, ngay tại sảnh đường dinh Độc Lập. Và cũng chính Nhu đã muốn dựng lên Vụ án Tôn Thọ Tường, giao cho một Hội Đồng Nhân Sĩ tay chân tổ chức. Một người hiểu chuyện, đã bảo Nhu: “Người Nam kỳ từng cùng Phan Văn Trị lên án Tôn Thọ Tường. Tường làm việc cho thực dân 60 năm trước Ngô Đình Diệm là phản quốc, vậy Diệm làm việc cho thực dân 60 năm sau Tường, lại không phải là phản quốc hay sao?” Việc làm lố bịch này phải dẹp sớm, nên ít người biết.
NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Chế độ miền Nam do ông Diệm thiết lập, phải đương đầu với các lẽ thuận, lẽ nghịch, được nêu ở phần trên. Và tùy thuộc vào các ưu điểm, khuyểt điểm của con người Ngô Đình Diệm.
Những công trình nhân sinh cỡ lớn không thể nhất thiết đòi hỏi đủ điều kiện thuận lợi để tiến hành. Ông Diệm đi vào sự nghiệp ông từng mong mỏi thực hiện, trong những điều kiện nói chung khá tốt. Tương lai thành hay bại tùy thuộc ông có biết khai triển đúng mức hay không các lẽ thuận, giải tỏa các lẽ nghịch. Tùy thuộc ông biết lợi dụng các ưu điểm của mình, biết khắc phục các khuyết điểm của mình đến một mức hiệu quả.
Ngô Đình Diệm có đủ lẽ để thành công. Tiếc là ông đã thất bại. Đưa đến thất bại chung của miền Nam. Rồi của cả dân tộc.
Ông Diệm đứng ra thành lập chế độ miền Nam với các lẽ thuận, nghịch gắn liền vào đó, như đã phân tích trong bài trước. Việc thành hay bại tùy vào tâm mức lãnh đạo của ông, biết hay không biết khai thác lẽ thuận, khắc phục lẽ nghịch, tiên quyết không nhất định là thế nào được.
Thời thế có thể tạo anh hùng. Nhưng người lãnh đạo giỏi đạp lên thời thế mà tiến thành anh hùng. Kinh nghiệm đã qua cho thấy ông Diệm không thuộc hạng lãnh đạo ấy. Không phải là một “homme d’Etat”.
Từ bài này, người viết sử dụng tài liệu một người bạn thân, vượt biển, gửi lại vì không mang theo được. Tài liệu ghi nhận những cuộc thảo luận giữa anh ta và anh em ông Diệm, từ sau 1945 cho đến cuối năm 1954, khi họ bàn về đường lối nên theo, và chính sách phải có, khi ông Diệm nắm được quyền hành.
Người viết giữ việc trình bày cho được mạch lạc, không can thiệp vào nội dung tài liệu. Để bạn đọc có thể thấy có người đã đề nghị với ông Diệm một đường lối lãnh đạo, một chính sách cầm quyền khác những gì anh em ông đã làm, nhưng lại đúng theo những gì ông Diệm đã tiên tri và tiên liệu sẽ làm.
…..
BA ĐIỀU BẤT HẠNH CHO ĐẠI CUỘC VIỆT NAM
1. Bất hạnh trong việc giải phóng đất nước khỏi bàn tay ngoại bang.
Ông Diệm ở hải ngoại năm năm. Kéo dài đến bốn năm trên đất Mỹ, sau đó mới sang Âu Châu, ở Pháp và ở Bỉ. Ngoài ra, ông không đặt chân lên một nước nào khác. Nhất là một nước Á Châu.
Ở Hoa Kỳ, ông quanh quẩn trong bóng tối thanh tú của các nhà dòng Công giáo. Sang Pháp, sang Bỉ cũng thế. Ông không dấn thân hoạt động đánh vào dư luận các nơi, không liên lạc, giao thiệp với các chính khách quốc tế, không gần gũi vận động kiều bào. Ông dành công việc chính ông phải làm lấy cho các bào đệ Nhu, Luyện của ông. Họa hoằn, nhờ có nhà dòng móc nối, ông giao thiệp với một hai nhân vật Mỹ rất hiếm hoi, cỡ Hồng Y Spellman, cỡ Thượng nghị sĩ Mansfield.
Tên tuổi ông, báo chí quốc tế không thấy nhắc đến. Tiếng tăm ông chẳng vang dội một nơi nào. Ông không hề xuất hiện trước dư luận thế giới. Như Gandhi, Nehru, Sukarno đã từng làm, khi họ còn phải tranh đấu cho độc lập của xứ sở họ.
Thành ra khi người Mỹ dùng áp lực đưa ông lên cầm quyền, thế giới không biết ông là ai, không thấy ông có tầm vóc nào đáng kể, nên xem ông chỉ là một lá bài của Hoa Kỳ. Người trong nước, nhất là dân Nam kỳ, trừ những người hiếm hoi biết ông trước kia là một vị Thượng thư trẻ tuổi của triều đình Huế, chống Pháp mà từ chức, đa số không biết ông là ai, chưa hề nghe nói đến ông. Chỉ thấy có người Mỹ đưa ông lên.
Không trách được người trong nước, người nước ngoài, xem ông là “một con cờ của Mỹ”. Điều ông không hề muốn, nhưng lại là lỗi của ông. Đúng hơn, điều biểu thị sự bất tài của ông.
Và nhất là điều bất hạnh cho đại cuộc miền Nam. Đại cuộc lúc này là việc giải phóng đất nước khỏi tay ngoại bang. Nhất đán xuất hiện là một “lá bài Mỹ”, đè nặng lên tương lai của chế độ. Tuy vậy, điều bất hạnh này chưa có ảnh hưởng ngay. Bởi lẽ, khi đã chia cắt, miền Nam thấy cần có một cường quốc giúp đỡ, nhất là Hoa Kỳ, để quân bình với miền Bắc, có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau. Miền Nam không thể tồn tại được, nếu đứng lẻ. Thành ra, dù sao, ông Diệm cũng biểu hiện cho một hi vọng. Thêm vào đó, ông không có tai tiếng chi, nhờ đứng ngoài thời cuộc từ trước. Dư luận miền Nam mặc nhiên chấp nhận ông. Chỉ mong ông đừng để miền Nam trở thành phụ dung của Mỹ, mà chỉ là thân Mỹ.
2. Bất hạnh thiếu tài lương đống
Ông Diệm biết mình có thể lên cầm quyền, ba tháng trước. Ông lên cầm quyền ngày 7-7-54. Ngày 21-7-54 Hội nghị Genève kết thúc, chia hai Việt Nam , và giao cho ông miền Nam.
Trong thời gian 4 tháng thật quyết định ấy, ông vẫn ù lì như suốt 4 năm ở Mỹ trước kia. Ông không đích thân hoạt động. Mọi việc giao cho hai ông em, Nhu và Luyện, làm thay. Trong tinh thần chung của gia đình này, họ chỉ liên lạc ngầm, hoạt động trong bóng tối. Nên chỉ tiếp xúc với một số người thật hạn hẹp.
Không thấy tấn công vào dư luận thế giới, vào các cơ quan truyền thông quốc tế, buộc họ phải nói đến ông, đến giải pháp ông đề ra, và sẽ thực hiện. Không thấy công khai nêu lên một đường lối, một chính sách nào. Để cho thế giới, thông qua báo chí, biết đến một giải pháp Ngô Đình Diệm. Cũng không thấy vận động kiều bào. Để làm sáng tỏ tư cách một lãnh tụ quốc gia có hậu thuẫn, có lập trường, có đường lối, có khả năng, hòng tranh thủ cảm tình kiều bào đang bị Cộng Sản ve vãn. Hình như Việt kiều phải tự mình nhận ra “sứ mệnh cứu nước của Cụ”. Bằng không, họ chỉ là những người thân Cộng, không cần mở mắt cho họ làm gì. Cho nên, quanh quẩn chỉ tập họp một số kiều bào Công giáo, một số ít “học trò cũ của Đức Cha”4 để chọn sẵn một mớ tay chân về sau.
Ngay chính trong nước cũng thế. Phong trào “Đoàn Kết” Ngô Đình Nhu dựng lên, quanh quẩn ở Sài Gòn, tập họp tay chân đã có rồi, với một số thân hữu cũ trong nhóm “Tinh Thần”, hờm sẵn như chờ chia một món gia tài. Còn quần chúng trong nước, ở Đồng Nai, Bến Nghé, Cửu Long hay ở Thăng Long, ở Thuận Hóa, phong trào không thấy “đoàn kết” với ai khác, và cũng không mấy người nghe nói đến.
Hoạt động của ba anh em ông Diệm, ba tháng trước ngày cầm quyền, là cố gắng tìm mọi cách gây tín nhiệm với Bảo Đại, để ông này chịu ký Dụ trao quyền chính cho. Kể cả việc tuyên thệ trung thành này nọ với Bảo Đại. Kể cả sai Ngô Đình Luyện đi Cannes biếu Bảo Đại một chiếc ô-tô sang trọng. Trong lúc Pháp cầu Hoa Kỳ, Mỹ muốn là trời muốn. Bảo Đại không muốn cũng không xong.
Khi lịch sử chận đứng kim đồng hồ
Rồi ngay cả thời gian lên cầm quyền ngày 7 tháng 7, cho đến lúc Hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7, ông Diệm nhất thiết không hề đích thân xuất hiện ở hội trường Genève, không muốn tham dự thảo luận, không thấy phải cầm đầu đoàn Việt Nam quốc gia. Mà gởi đến đó ông Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ về phía Việt Nam.
Ba mươi ngày cuối cùng của Hội nghị, đủ cho cả thế giới và riêng nước Pháp thấy thế nào là một “homme d’Etat”5. Trái lại, lịch sử cận đại đã ghi thật đậm nét cho Mendès France.
Ông Mendès France đã dọa bỏ cuộc, nếu không kết thúc được hội nghị vào đúng 24 giờ ngày 21-7-54. Nhưng một giờ trước khi các lãnh tụ thế giới tham dự hội nghị ký tên vào Hiệp định, cho kịp hạn định ông Mendès France đưa ra. Phái đoàn Cambốt đã nhân hạn định ấy mà đưa ra một đòi hỏi mới, bênh vực cho quyền lợi nước mình. Để tránh việc Thủ tướng Pháp bỏ cuộc, Molotov và Eden đồng Chủ tịch Hội nghị, không những vận động các phái đoàn thỏa mãn yêu sách bắt chẹt của Cambốt, mà còn phải kéo lui kim đồng hồ cho đừng đổ vội 12 tiếng khuya 21-7, hòng có đủ thì giờ chữa lại bản thảo hiệp định kẻo Mendès France rút lui.
Từ ông Diệm lên cầm quyền đến Hội nghị chấm dứt có hơn 3 tuần lễ. Ông không thấy (hay ông ngại) cơ hội để ông chen vai với các lãnh tụ quốc tế khác. Cơ hội để ông đích thân tham dự đến ngay hội trường mở một cuộc tấn công ngoại giao, bênh vực quyền lợi đất nước, trình bày lập trường quốc gia. Cho mọi người thấy được tầm vóc quốc tế của ông, nếu quả ông có, ngang với Mendès France, một Chu Ân Lai, một Eden, một Molotov, một Foster Dulles. Như Phạm Văn Đồng. Để các cường quốc biết đến ông là một sức mạnh khả tín. Mà ủng hộ miền Nam, nếu họ muốn. Nếu họ thù nghịch, họ biết là sẽ phải đối đầu với một sức mạnh.
Ông không chịu tham dự hội nghị. Đây là bất hạnh thứ hai của đại cuộc miền Nam. Vì ở hội nghị, người ta nhìn về phía Việt Nam, chỉ thấy có Phạm Văn Đồng. Chỉ biết có phe Cộng Sản. Chỉ biết có Hà Nội. Sài Gòn là một bóng mờ, Ngô Đình Diệm là ai, người ta có nghe nói tên, nhưng không ai nhắc đến, trong đám các lãnh tụ tham dự hội nghị... Vì thế, dư luận các nơi cho rằng miền Nam chỉ là một bóng ma làm cớ để chấm dứt chiến tranh, không thể đứng vững được. Nhiều lắm là hai năm, thời hạn định sẵn để trưng cầu dân ý mà thống nhất về tay Hà Nội.
3. Bất hạnh coi thường dân miền Nam, và thành phần kháng chiến dân tộc.
Ông Diệm lên cầm quyền trong hoàn cảnh đúng như ông tiên tri từ 1948: Ông lãnh đạo miền Nam, mà đất Nam kỳ là trọng tâm. Mỹ ủng hộ ông, hứa viện trợ Sài Gòn, tức phải dính líu với miền Nam.
Nói cách khác, các điều kiện ông tiên liệu, ông muốn có, để tranh thủ với Cộng Sản, nay ông hội đủ. Và con đường ông phải theo có thể phác họa như sau:
1. Lấy đất Nam kỳ làm gốc cho chế độ. Như Nguyễn Ánh đã làm hồi thế kỷ XVIII, để tranh thủ với Tây Sơn.
2. Dùng nhân dân Nam kỳ làm nguyên tố củng cố, xây dựng miền Nam. Dựa trên quần chúng Nam kỳ làm thế ỷ dốc, để bảo vệ miền Nam, giữ cho Cộng Sản miền Bắc không huy động được dễ dàng các thành phần nằm vùng mà tuyên truyền và quấy phá. Đồng thời, để phát triển kinh tế, xã hội, với nhân lực, tài lực Nam kỳ.
3. Vinh danh thành tích kháng chiến yêu nước. Vạch rõ mưu đồ Cộng Sản lợi dụng nhu cầu giải phóng của đồng bào, để thực hiện cách mạng vô sản.
Đề cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền miền Nam là thành quả kháng chiến. Đúng theo tinh thần Tuyên ngôn 1951 nói trên.
Kết hợp các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến vì hiểu thấu mưu đồ Cộng Sản, hoặc vì một lý do khác, để tổ chức quyền chính miền Nam.
Đó là con đường kết hợp nhân dân, kết hợp kháng chiến vào chính quyền. Để thu hút vào chế độ các thành phần quần chúng nông thôn, đã từng là cơ sở trung kiên, suốt chín năm qua, của tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp này có thực sự và chặt chẽ, sẽ đảm bảo cho tương lai miền Nam.
Tất nhiên phải tùy thuộc vào một chính sách thể hiện trung thành những gì ông Diệm đã tiên tri từ 1948, thực hiện lời ông đã hứa trong Tuyên ngôn năm 1951:
Dùng hai “Vú sữa”: quần chúng Nam kỳ và thành phần kháng chiến quốc gia mà nuôi dưỡng chế độ Sài Gòn.
Chính sách ấy, ngoài chuyện mình trung thành với chính mình, còn là một chọn lựa sáng suốt, vì nông dân Nam kỳ không chấp nhận, thì chế độ tồn tại với ai và thế nào được. Trừ phi bắt chước Cộng Sản, dùng các biện pháp độc tài và đàn áp. Sáng suốt vì có nhìn nhận chủ quyền thu hồi ở miền Nam là sự nghiệp kháng chiến quốc gia, mới không để Hà Nội độc chiếm thành quả ấy về phần Cộng Sản trên cả nước.
Can đảm vì đây là một chọn lựa nguy hiểm. Nguy cơ tiềm tàng trong một chính sách như vậy thật lớn, đòi hỏi một khả năng lãnh đạo cao, một lòng tự tin lớn. Đòi hỏi một “homme d’Etat”.
Ông Diệm không có đủ khả năng chính trị và tự tin, thành ra chọn lựa mà ông đã tiên liệu và cho là thiết yếu từ 1948, từ 1951, thì nay, lên cầm quyền, ông sợ là không thiết thực. Nên đứng trên đất Nam kỳ để đối đầu với miền Bắc, ông khoét mất ngay hai cái “Vú sữa” của miền Nam!
Hồ Sỹ Khuê
Nguồn : Chuyển Luân

__._,_.___

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết