Date: Sun, 26 May 2013 10:20:28 -0700
From: dyb
Subject: ĐÊM SAIGON NGỌC NGÀ DĨ VÃNG
To:
From: dyb
Subject: ĐÊM SAIGON NGỌC NGÀ DĨ VÃNG
To:
ĐÊM
SAIGON NGỌC NGÀ DĨ VÃNG
Một thời để nhớ
Hồi
xửa hồi xưa… có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là
đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi cà phê là
Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy
thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai
cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh
người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt. . .
.TRỞ
VỀ THẬP KỶ 50 : CÀ PHÊ VỚI Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn
chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh
doanh… có khói này là do các xếnh xáng A Hoành. A Coón. chú Xường, chú Cảo… chủ
các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi
sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng
giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
Hồi
đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu ? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A
Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp
với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít
tất, hay vớ đều được). Vì chiếc vợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để
mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui.
Chiếc vớ chứa cà phê này
sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy
nắp siêu lại rồi… kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách.
Chính cái “quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà
phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến
chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc. Có mấy khu vực có những con
đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu.
Ở Chợ Cũ có đường MacMahon (đọc là
đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho
từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên
náo suốt ngày. Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ)
có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm..
Còn
nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể
ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận sáng hôm sau. .
Trang trí chung của các tiệm cà phê hủ tíu tàu
Sách
phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị
nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A Koón…. thì đều chọn các
nơi này làm chỗ kinh doanh.
Tuy Sàigòn, Chợ lớn, Gia Định. Phú Nhuận, Đa Kao
hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô-típ –
made in China” khá giống nhau tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe
nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được
trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị,
Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán
hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay
phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên
bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà !”
Uống cà phê phải biết cách Như đã nói ớ trên, hồi đó
không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong
cách riêng. Cà phê được mang ra dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân dưới chân
trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía
dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê
nguội.
Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài
ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách này, tức uống
bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và
húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải “, ông Sáu
“trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh
ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá :
“Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng
cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, 73 gần trường đua
có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê.
Cứ cho mấy thằng phổ-ky
mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ
chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miếng giấy phía dưới cái bánh bao ra và
khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là
chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong
bụng rồi”. Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất
chìu khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà
con hô lên “xà lẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì
đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu lại không uống bằng ly mà đi húp cà phê
bằng đĩa, ông Sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệư”
chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi vậy mới là. . . sành điệu !
CÀ PHÊ PHIN Dòng cà phê… với cà phê kho lững lờ
trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà
uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân
chơi sành điệu.
Một
người tên ông Chín “cù lủ” một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ
bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi
nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh
bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.
Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới … “sang” cũng đến lúc phải lụi
tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre”
bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.
Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú
đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ
trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện.văn chương và. . . rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim
Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ
quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố
của dân Paris (Pháp).
Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư
giản hoàn toàn vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê đặc sánh vừa ngắm quang cảnh
sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng
me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi
tản mạn như hoa “com-phét-ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và
thơ… Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát
để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn
cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.
Thời
điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những
quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard,
Givral, Continental là nơi gặp gỡ giao lưu cửa giới thượng lưu Sàigòn.
CÀ PHÊ TÂY Cà phê La Pagode khách không ngồi
ghế sắt ghê gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con
đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La
Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cùng mở một không gian cà phê sang
trọng ,đúng phong cách “Phăng-se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral
nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi
những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời
khoáng đãng.
Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi
tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ. Còn một quán cà phê với một phong
cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con
đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode,
không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thế thả hồn êm ả
bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.
Có thể nói từ giai đoạn này người
Việt Nam ở Sàigòn “thức tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã
bỏ bê và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác. Khi qua
tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu,
hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao ... nữa mà nó thuần túy chi có cà phê
nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã
hơn, thu hút hơn…
CAFÉTÉRIA CA NHẠC Để gần gũi hơn, thu hút khách hơn
và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca
nhạc theo dạng Cafétéria. Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode,
Brodard, Givral, Continental… nơi đây không phải chỗ để trầm tư, bàn luận
chuyện đời mà hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí. Trên đường Bùi Viện đầu những
năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng
có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca
sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao
Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như
những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm
sáng lên rực rỡ ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui. Một Cafétéria khác
theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường
Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh.
Ca
sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria này. Đức Quỳnh
với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh
Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa
giải khát vừa giải trí một cách tao nhã. Rồi tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel,
trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi)
thi nhau mọc lên đầy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa
uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng
trình bày.
Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai
nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách
thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài
hát “Ánh đèn màu”. Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico” , ca sĩ
Ánh Tuyết mỗi lần trình diễn “Ánh đèn màu” là bà hát với những dòng nước mắt.
Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người mua
vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn…
Có
lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi
chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những
người thân quen bắt buộc phải đáp ứng còn thì Ánh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUI Những quán
cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chỗ tụ họp của
các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới. Vòng quanh Hồ con Rùa, xuống
đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có hàng mấy chục “túp lều” cà
phê như thế mọc lên san sát bên nhau. Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm
lịch sử có một không hai đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp
mà hầu như đường nào cũng có.
Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phà
bên ly cà phê vớ nhưng để phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn
– se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thu sẵn một bọc trong túi xách để sẵn sàng
bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo
nhả khói. Cà phê quán cóc (nhảy nay chỗ nay mai chỗ khác như cóc nhảy ấy mà)
thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà
phê cóc Sàigòn.
Ban
ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những
con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình
được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA Sàigòn một
thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay,
lại mang một cái tên khác lạ, chẳng đẹp đẽ chi, nếu không muốn nói là vô nghĩa.
Bởi thế nên người ta vẫn gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi
vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang
sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới.. Người Sàigòn không
nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp
lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân
Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một
ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một
phần của thân xác, linh hồn mình.
Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu,
tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn. Tóm lại, Sàigòn là của tất
cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền
mẫu, giang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân
biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa. Một người Pháp sinh ra ở
Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân
ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn
bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như
vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một
nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi : “Sàigòn ơi ! Ta hứa rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng
cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình
thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một
hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy
cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950
từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ
Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau,
lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las
Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con
đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun
vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn
pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris. Đường Richaud Phan
Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café
tuyệt sắc giai nhân.
Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây
thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm,
tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình
Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh
tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte
Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát
hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn
Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán
Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm
Sàigòn có một chút Paris.
Sàigòn
by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở
nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối
thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau
này.
Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say
bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên
giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau
đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro
nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là
ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm
kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết.
vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng
sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau
vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.
Quán café trà thất
đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới
đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm
thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
. Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn
lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng
trà thì vẫn được trình diễn tự do. Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một
thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì… bị
một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát
vài năm.
Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo
và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác. Đêm Sàigòn
bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa
trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu.
Trong
khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một
tháng. Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở
đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông
Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc
ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê
đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng. Đêm Sàigòn ngọc
ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo
dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau
này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú
chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn
trai.
Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng. Thuở ấy,
người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp
với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ
để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày
Tết. Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn
đổi tên và Sàigòn ngọc nát châu chìm. Những cột đèn tuy không biết đi, nhưng đã
chắp cánh bay xa, thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại.
Và
dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ
lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái
tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta,
Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự
Do…
Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm
thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời
nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne,
cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như
Sàigòn mai sau, khi hết Cộng sản. Bây giờ tuy chưa có Sàigòn mai sau, nhưng ta
tạm có Little Sài gon Bolsa tại Nam Cali, Thủ đô tỵ nạn của người Việt hải
ngoại – chỉ tại Little Sàigòn mới giống Sàigòn năm xưa được. Sàigòn Bolsa mùa
xuân pháo nổ tưng bừng qua phố phường Westminster, Bolsa, Brookhurst, Euclid…
trong khi ấy nay Sàigòn ở Việt Nam làm sao có pháo ?
Thế
nên người có tiền ở Sàigòn bây giờ, Tết đến lại thích đi du lịch sang Mỹ để đón
xuân thực sự như Sàigòn thuở xưa, và tìm lại Sàigòn đích thực. Sàigòn đã ra đi
và Sàigòn tung cánh chim viễn xứ, quy tụ quây quần tại Mỹ, Canada, Úc, Pháp.
Đức v v . Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu trái tim nồng nàn vẫn yêu
thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn Hòn Ngọc Viễn Đông nay thắp sáng ở xứ
người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu Về
Hiệp phố. Sàigòn khi ấy sẽ rực sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.
Tâm Triều
Tâm Triều
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết