Gần
đây người ta vừa có được câu trả lời chính xác nhất : 172.008 người, trong đó
sau này có 123.266 người (nghĩa là 71,66%) được chính thức xác nhận là oan.
Đợt cải cách ruộng đất
đẫm máu trong các năm 1955-1956 do chính quyền cộng sản phát động đã có bao
nhiêu nạn nhân ?
Câu hỏi nhức nhối này đã được đặt ra từ hơn nửa thế kỷ nay và
chỉ có những giả thuyết rất khác nhau từ những chức sắc cộng sản.
Có người đưa con số 20.000, có người 50.000, có người
nói chỉ có vài ngàn và cũng có người nói số nạn nhân có thể lên đến hơn nửa triệụ
Gần đây người ta vừa có được câu trả lời chính xác nhất : 172.008 người, trong
đó sau này có 123.266 người (nghĩa là 71,66%) được chính thức xác nhận là oan.
Con số này được ghi
trong một tài liệu được biên soạn rất công phu, in ấn rất thẫm mỹ nhưng có lẽ
ít ai đọc : Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất
bản.
Có lẽ vì rất ít người đọc nên con số rất quan trọng này chưa được ai nhắc
lạị .
Trước hết là một câu hỏi
: con số 172.008 này là những người bị giết hay là những người bị đem xét xử ?
Tài liệu không nói rõ, nhưng giả thuyết đúng nhất vẫn là những người bị giết vì
ít nhất ba lý do :
1. Tài liệu nói rằng đợt
cải cách được thực hiện tại 3.563 xã với mười triệu dân và tỷ lệ được quy định
trước là 5,68% (trang 85, tập II), một con số tùy tiện nhưng lại có dáng dấp
như kết quả của một tính toán rất chính xác.
Tỷ lệ này được các cai đội cải
cách ruộng đất thi hành một cách máy móc, vì tài liệu nói các xã cố “truy bức
để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một qui định bắt buộc” (trang 86, Tập II). Nếu
như vậy, tổng số người bị xét xử phải trên 500.000 người chứ không phải 172.008
người .
2. Không có, hay chỉ có
rất ít, người bị xử án tù, vì ngay sau năm 1956 đợt cải cách ruộng đất đã bị
coi là một sai lầm. Cũng không thấy tài liệu nào nói đến trường hợp những người
bị đem xét xử được trắng án hay bị xử tử cả. Như vậy, phải hiểu rằng đã có
khoảng 586.000 người bị xét xử, trong đó 172.008 người bị giết, những người
khác đã bị hành hạ và sau đó được tha trong chính sách sửa sai .
3. Có một mâu thuẫn lớn
giữa bản thống kê và báo cáo của bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng
10-1956 về số đảng viên bị xét xử. Theo bảng thống kê thì tổng số nạn nhân
“thuộc thành phần kháng chiến” là 586 người (trong đó có 290 người sau đó được
coi là oan), trong khi theo báo cáo của bộ chính trị thì tổng số đảng viên bị
“xử trí” lên tới 84.000 ngườị Đây là một sai biệt quá lớn.
Như vậy phải hiểu
rằng nạn nhân của bảng thống kê là những người đã bị giết. Bản báo cáo cũng ghi
nhận : “hàng vạn đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục
hình rất tàn khốc dã man”. Như vậy rõ ràng con số 586 người “thuộc thành phần
kháng chiến” bị giết chứ không phải bị “xử trí” hay bắt giam, con số 172.008
nạn nhân ghi trong bảng thống kê là những người bị giết.
Về thành phần của con số
172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau : Địa chủ cường hào gian ác :
26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường : 82.777
người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến : 586 người,
trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông : 62.192 người, trong đó 51.003 người bị
oan (82%). Tổng cộng : 172.008 nạn nhân, trong đó 123.266 người bị oan :
71,66%.
Cũng cần lưu ý rằng đây
chỉ là những nạn nhân thuộc thành phần nông dân. Ngoài ra còn có một đợt cải
tạo “tư sản mại bản” cũng đẫm máu không kém nhưng số nạn nhân ít hơn vì giới
buôn bán chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Đợt cải cách ruộng đất
này là một cuộc thảm sát hàng loạt và một tội ác đối với loài người theo công
ước quốc tế, vì một trong những tội ác đối với loài người được qui định rõ ràng
là hành hạ, ngược đãi hoặc giết một số người vì thành phần xã hội, tín ngưỡng
hoặc quan điểm của ho..
Sau tội ác kinh
khủng và được chính đảng cộng sản nhìn nhận này, các thủ phạm đã bị xử lý ra
sao ?
Trường Chinh từ chức
tổng bí thư đảng nhưng vẫn ở lại bộ chính trị, làm chủ tịch quốc hội, sau đó
làm chủ tịch nước và tổng bí thư đảng, lúc chết được quốc táng. Lê Văn Lương,
mất chức trong bộ chính trị và ban bí thư đảng, nhưng sau đó được vào trở lại bộ
chính trị kiêm bí thư thành ủy Hà Nội. Hồ Viết Thắng từ chức khỏi ban chấp hành
trung ương đảng.
Hoàng Quốc Việt, một cấp lãnh đạo chủ chốt của đợt cải cách
ruộng đất, được chuyển qua làm chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Tố Hữu, trưởng ban
tuyên truyền trung ương và là một cổ động viên điên cuồng cho tội ác này, từng
viết những câu thơ ghê rợn như :
“Giết, giết nữa bàn tay
không chút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong”
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong”
Mặc dù vậy Tố Hữu tiếp
tục được lên chức. Sau này, khi đã về già, Tố Hữu viết trong hồi ký (xuất bản
năm 2000) như sau : “Không thể kể hết những cảnh tượng bi thảm mà những người
bị quy oan là địa chủ, ác bá phải chịu đựng ở những nơi được phát động”, nhưng
không nói gì đến những người “không bị quy oan”.
Các cán bộ tôm tép của các đội
cải cách ruộng đất dĩ nhiên là không hề gì.
Tập Lịch sử kinh tế Việt
Nam 1945-2000 này dự trù gồm ba tập. Tập I (662 trang) viết về giai đoạn
1945-1954, tập II (1.177 trang) nói về giai đoạn 1955-1975 và tập III, chưa
hoàn tất về giai đoạn 1975-2000.
Tất cả mọi người Việt Nam muốn thực sự hiểu
biết về sự chuyển động của xã hội Việt Nam trong một nửa thế kỷ vừa qua bắt
buộc phải đọc tài liệu nàỵ Người ta có thể tìm thấy hầu như tất cả những gì
mình muốn tìm hiểu về cả các diễn biến chính trị lẫn những nhân vật lãnh đạo
cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cải cách ruộng đất. Đúng là một kho tài liệu
vô giá.
Các tác giả là những trí
thức có tầm cỡ lớn tại Việt Nam hiện naỵ Có những nhận định mà một số đông
người không thể chia sẻ (thí dụ như cho rằng những người trách nhiệm trong đợt
cải cách ruộng đất đã bị chế tài đích đáng) nhưng trong các sự kiện họ đã tỏ ra
rất trung thực.
Một lý do nữa để cần phải mua, và mua ngay, tập tài liệu này vì
nó đã chỉ được phép in ấn và phát hành nhờ sự lơ đãng của các cấp lãnh đạo cộng
sản. Tài liệu này rất có thể sẽ bị tịch thu, nhất là sau bài viết nàỵ
(Theo Võ Xuân Minh)
source:__http://vn.myblog.yahoo.com/rendyck_phuonghue/article?mid=77
"CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT" - Tội ác Hồ Chí Minh
http://vietnamsaigon75.blogspot.com.au/2012/10/cai-cach-ruong-at-toi-ac-ho-chi-minh.html
172,008 và 500.000 thân nhân đã bị hồ chí minh
và đồng đảng giết hại, cướp đoạt tài sản trong
"CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT" miền Bắc 1946 -
1955.
CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Xã hội Việt Nam, cho
đến nay, vẫn là một xã hội dựa trên căn bản nông nhiệp. Bất cứ nhà cầm quyền
nào tại nước ta đều phải giải quyết những vấn đề do nền nông nghiệp lạc hậu của
chúng ta đặt ra, hầu tìm kiếm những giải pháp thích hợp để thăng tiến đời sống
của nông dân, một thành phần chiếm khoảng 70% dân số hoạt động.. Cộng sản Việt
Nam lại càng chú trọng đến vấn đề nầy hơn nữa, vì lý thuyết Mác xít dùng yếu tố
kinh tế để giải thích những vận động của lịch sử.Căn bản của yếu tố nầy là quan
hệ sản xuất giữa chủ và thợ, mà ứng dụng vào xã hội nông nghiệp là quan hệ giữa
chủ đất (điền chủ hay địa chủ) và dân cày (nông dân hay tá điền)-Hơn nữa, do
ảnh hưởng chủ thuyết của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, nên
khi nắm quyền tới đâu, cộng sản Việt Nam tổ chức cải cách ruộng đất (CCRĐ) tới
đó, để tập họp sức mạnh nông dân và cô lập giới phú hào.
Ngay từ năm 1949, Việt
Minh (VM) cộng sản đã phát động CCRĐ, nhưng việc nầy chỉ tiến hành mạnh mẽ từ
năm 1950 trở đi. Vào năm nầy, Hồ Chí Minh qua Liên Xô xin viện trợ. Stalin thúc
bách Hồ Chí Minh thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng cộng sản
và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối cộng sản.
Sau cuộc gặp nầy trở
về, Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng Sản Đông Dương tại chiến khu
rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng
Lao Động (LĐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm
tổng bí thư. Về việc CCRĐ, Hồ Chí Minh và VM cộng sản thực hiện dần dần qua năm
đợt liên tiếp, và chỉ chấm dứt năm 1956 để chuẩn bị chiến tranh tấn công Việt
Nam Cộng Hòa.
Cuộc CCRĐ của VM cộng
sản chia làm năm giai đoạn, bắt dầu từ năm 1949 đến 1956.Trong những giai đoạn
đầu trước năm 1954, cuộc CCRĐ chưa lên đến cao điểm ở miền Nam và miền Trung
nước ta, nên nông dân ở miền Nam vĩ tuyến 17 ít có kinh nghiệm về việc nầy.Chỉ
có vài nơi VM gọi là vùng "tự do", do họ kiểm soát ở Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định diễn ra cảnh đấu tố (đấu tranh và tố cáo)-Lúc đó, VM bắt đầu
cuộc thương thuyết ở Genève, rồi đất nước bị chia hai, VM rút ra Bắc, nên cảnh
đấu tố ở các tỉnh miền nam vĩ tuyến 17 chưa dữ dội lắm. Trong khi đó, tại Bắc
Việt, khi mới bắt đầu, cuộc CCRĐ khá ôn hòa, nhưng trở nên mạnh mẽ từ sau khi
Hồ Chí Minh nhận lệnh của Stalin năm 1950, và càng ngày càng ác liệt, nhất là
giai đoạn 5 từ 1955 đến 1956 là giai đoạn sắt máu giết hại nhiều người nhất.
GIAI ĐOẠN SƠ KHỞI: Vào giữa năm 1949, khi sửa soạn chuyển qua
giai đoạn phản công quân sự, VM đã vững mạnh ở vùng nông thôn và nhất là rừng
núi Việt bắc. Lúc đầu, VM thực hiện cuộc CCRĐ một cách nhẹ nhàng, chỉ kiếm cách
tăng gia sản lượng nông nghiệp nhắm cung ứng nhu cầu đội quân càng ngày càng
gia tăng.Để khuyến khích nông dân ra sức cầy bừa, chính phủ VM đã ra sắc lệnh
số 78/ SL ngày 14-7-1949 thành lập "Hội đồng giảm tô", ấn định các
chủ đất (điền chủ, hay như VM gọi là địa chủ) phải giảm thiểu đồng bộ tiền thuê
đất (địa tô) cho tá điền (nông dân) là 25%, có nơi có thể giảm tối đa 35% trong
trường hợp tá điền quá nghèo khổ.(1) Sau đó, thông tư liên bộ số 33/ NVI ngày
21-8-1949 đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời cho nông
dân ruộng đất tịch thu của các điền chủ người Pháp và những điền chủ "Việt
gian", tức là những người bị VM kết tội thân Pháp, hoặc không cộng tác với
VM.(2)
GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ: Trong năm 1950, một loạt sắc lệnh nông nghiệp
ra đời có tính cách mỵ dân, nhắm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ công cuộc kháng
chiến của VM, bắt đầu bằng sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950 ra lệnh tổng động
viên toàn bộ "nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài
lực [tiền bạc] cho tổ quốc".
Sau đó, ngày
22-5-1950, xuất hiện cùng một lúc hai sắc lệnh.Sắc lệnh số 89/FL quyết định xóa
bỏ tất cả những hợp đồng vay nợ giữa tá điền với điền chủ ký kết trước năm
1945, và xóa bỏ cả những hợp đồng ký kết sau năm 1945 nếu con nợ đã trả đủ 100%
số tiền đã vay, hoặc con nợ đã từ trần vì sự nghiệp của VM thì gia đình khỏi
trả nợ.
Sắc lệnh thứ nhì do
chính phủ VM ban hành cùng ngày 22-5-1950 mang số 90/ FL, quốc hữu hóa tất cả
những đất đai đã bỏ hoang trong 5 năm liên tục kể từ ngày ra sắc lệnh (điều
2)-Đất đai nầy sẽ được chia cho nông dân nghèo, tạm thời trong thời gian 10
năm, và 3 năm đầu cho miễn thuế (điều 3 và 4)-Những thửa ruộng bị bỏ hoang chưa
tới 5 năm, điền chủ bắt buộc phải cho những tập đoàn nông dân cày cấy lại, hoặc
cho người khác thuê cày. Nếu các điền chủ bất tuân, uỷ ban kháng chiến hành
chánh địa phương sẽ can thiệp và ra điều kiện hợp đồng thuê mướn (điều 5)-
Ngoài ra, sắc lệnh nầy không áp dụng cho những đất đai trồng cây kỹ nghệ thu
hoạch theo mùa hằng năm, hoặc những điền chủ đang phục vụ VM nên không thể
trồng trọt, và cấm việc xẻ nhỏ những đồn điền kỹ nghệ (điều 8)-
GIAI ĐOẠN THỨ BA: Giai đoạn thứ ba bắt đầu bằng sắc lệnh ngày
20-4-1953, đăng trên Công báo VM ngày 20-5-1953. Sắc lệnh nầy không có
gì mới lạ, chỉ củng cố những "thành quả" của cuộc cải cách trước.Lần
nầy, giá thuê đất được hạ thêm 25% để "làm thế nào cho tiền thuê đất không
thể vượt quá 1/3 lợi tức mùa gặt. "Luật mới quy định các chủ đất không được
buộc tá điền phải đóng thêm tiền cho các phí tổn khác, như tiền thuê dụng cụ
hay trâu bò cầy bừa (điều 6), cũng như cấm các chủ đất hủy bỏ những hợp đồng cũ
để ký kết những hợp đồng tương tự khác (điều 14, 16)- Sắc luật nầy nhắc lại
việc huỷ bỏ hoàn toàn tiền nông dân vay nợ trước tháng 8-1945 (điều 17), và
hoãn lại những món nợ của các thành phần ưu đãi của VM (binh sĩ VM, người
nghèo...) trong trường hợp những chủ nợ đang sống trong vùng do chính quyền
Quốc Gia kiểm soát (điều 18)- Đối với những chủ nợ sống tại vùng VM, các con nợ
vay sau 1945 cũng được giảm từ 18 đến 20% (điều 21)-Sắc lệnh nầy quyết định
tịch thu tất cả những tài sản của "đế quốc" Pháp, "Việt
gian" và "địa chủ ác ôn" để phân phối lại cho những người không
có đất đai nhà cửa, và ưu tiên cho những thành phần nòng cốt của VM (điều 25
đến 30)- Cuối cùng, sắc luật nầy thành lập "Uỷ ban nông nghiệp" các
cấp.Ở trung ương, Uỷ ban nông nghiệp do thủ tướng đứng đầu, gồm bộ trưởng Canh
nông, bộ trưởng Nội vụ, đại diện Mặt trận Liên Việt,(3) và hai đại diện của Uỷ
ban Liên lạc Nông dân.Ở mỗi cấp hành chánh, cho đến cấp xã đều có những
"Uỷ ban nông nghiệp" gồm những nhân vật tương tự ở mỗi cấp (điều 35,
36)-
GIAI ĐOẠN THỨ TƯ: Vào cuối tháng 11 đầu tháng 12-1953, VM triệu
tập Đại hội Đại biểu đảng LĐ, và đại hội Trung ương đảng tại vùng chiến khu
Việt Bắc.Đề tài thảo luận chính của khóa họp đảng LĐ lần nầy là câu khẩu hiệu
"ruộng đất cho người cày".Sau gần một tháng hội họp, kết quả thảo
luận của Trung ương đảng LĐ được đưa cho quốc hội VM thông qua để có hình thức
dân chủ, trong kỳ họp ngay sau đó.Quốc hội nầy thành lập từ năm 1946 gồm 444
người, nay chỉ có 171 đại biểu dự họp. Đảng LĐ quyết định thực hiện dần dần
cuộc CCRĐ theo một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng.
Sắc lệnh CCRĐ lần nầy
hơi khác với đường lối cải cách của Liên Xô.Tại Liên Xô, đảng Cộng Sản Liên Xô
xóa bỏ hẳn sự tư hữu đất đai, và nông dân chỉ có "quyền lao
động".Việt Minh theo đường lối cải cách của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên,
trên lý thuyết không xóa bỏ hẳn quyền sở hữu đất đai của nông dân mà cho phép
dân cày có quyền có đất. Việc nầy thực sự chỉ có trên lý thuyết, chứ trong thực
tế, nhà nước cộng sản quản lý toàn bộ đất đai.
Mở đầu, sắc lệnh ngày
4-12-1953 nêu lên ý nghĩa và mục đích của cuộc CCRĐ lần nầy là "bãi bỏ
toàn diện quyền sở hữu đất đai của "thực dân Pháp" và của tất cả
những "đế quốc" khác, đồng thời thiết lập quy chế sở hữu đất đai của
nông dân" (điều 1)-Toàn bộ đất đai của "thực dân Pháp",
"Việt gian", "địa chủ phản động", và những "phú hộ ác
ôn" đều bị tịch thu (điều 1)-Đất đai của những thành phần dân chủ tiến bộ,
kháng chiến và hợp tác với VM sẽ được trưng dụng.Nhà nước sẽ bồi thường hằng
năm khoảng 1,5% tài sản (điều 4)- Đối với những điền chủ lẫn tránh chính sách
bằng cách sang, bán, chuyển nhượng đất đai sau cuộc CCRĐ lần thứ ba
(20-4-1953), nhà nước xem đó là những hành động bất chính, sẽ trưng dụng đất
đai và bồi thường bằng tín phiếu ngân hàng (điều 5)-Những trung nông đã mua
những đất nầy sẽ phải bán lại cho những nông dân nghèo vô sản với giá phải
chăng (điều 5)-Đặc biệt sắc lệnh nầy chấp nhận các cơ sở tôn giáo như chùa, nhà
thờ, và các tổ đình làng xã sử dụng một ít đất đai và phải tự cày cấy để tự mưu
sinh (điều 10)-Trên nguyên tắc, sắc luật bãi bỏ quyền sở hữu đất đai của ngoại
kiều (điều 19)-Tuy nhiên cũng có một số miễn trừ cho đất đai của những người
ngoại quốc, đặc biệt cho người Trung Hoa vì họ được CHNDTH bảo trợ.Ngoại kiều
có quyền giữ đất nếu không có nghề gì khác để sinh sống (điều 25)-Nguyên tắc
phân phối đất đai có vẻ lý tưởng: giao đất theo nhu cầu của nông dân, người
không có gì được nhiều, người đã có đất thì được ít hơn [?], và không giao đất
cho những ai đã có đủ đất (điều 26)- Điều nổi bật trong sắc lệnh nầy là người
được phân phối đất có quyền chuyển nhượng bằng cách thừa kế, thế chấp, bán hay
cho kẻ khác (điều 31)-Đây rõ ràng là ảnh hưởng từ luật điền địa CHNDTH, nhưng
hoàn toàn có tính cách lý thuyết mà thôi.Việc thực hiện luật CCRĐ lần nầy được
giao cho Nông hội, một thành phần của Mặt trận Liên Việt, với sự chấp thuận của
Uỷ ban Kháng chiến hành chánh tỉnh (điều 34)-Cuối cùng, sắc lệnh nầy cấm đoán
mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ (điều 35), và quy định việc thiết lập tòa án nhân
dân đặc biệt để xét xử những thành phần chống lại cuộc CCRĐ của Việt Minh (điều
36)-
GIAI ĐOẠN THỨ NĂM: Vào giữa năm 1954, nước Việt Nam bị chia hai bằng
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954, theo đó Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa tức VM cộng sản cai trị ở phía bắc vĩ tuyến 17, Quốc Gia Việt Nam ở phía
Nam.Nói cách khác, cộng sản không còn ở rải rác trong các chiến khu khắp Bắc,
Trung và Nam Việt Nam, mà tập trung tại vùng phía bắc vĩ tuyến 17 đến biên giới
CHNDTH. Hồ Chí Minh và đảng LĐ muốn áp đặt một chính quyền độc tài theo chủ thuyết
Mác-Lê trên lãnh thổ miền Bắc.Muốn thế, họ nhắm ngay đến thành phần rộng rãi chiếm
đại đa số xã hội Việt Nam, đó là nông dân ở thôn quê. Nắm được nông thôn, kho
lương thực của dân chúng, thì cộng sản sẽ nắm được thành thị không mấy khó
khăn.
Tình hình ruộng đất ở
Bắc Việt thay đổi lớn lao sau hiệp định Genève, vì khỏang 1,000,000 người
bỏ đất Bắc di cư vào Nam, để lại toàn bộ điền sản tại quê nhà. Sau khi tái tổ
chức chính quyền, tạm ổn định tình hình, Hồ Chí Minh ký sắc luật về CCRĐ ngày
14-6-1955. Sắc luật nầy dựa căn bản trên hai sắc lệnh tháng 4 và tháng 12 năm
1953, theo đó nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản (đất đai, nhà cửa, gia súc,
nông cụ) của những người "thực dân", địa chủ gian ác, cường hào ác
bá, "Việt gian" phản động; trưng thu không bồi thường và thu mua đất
đai, nông cụ, gia súc thuộc các nhân vật "tiến bộ", các địa chủ đã
tham gia kháng chiến, các địa chủ thuộc thành phần thương gia hay kỹ nghệ gia;
truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Phật giáo
(chương 2)- Những người được thụ hưởng chính sách cải cách ruộng đất theo thứ
tự ưu tiên: nông dân không có đất, hay thiếu đất để tự mưu sinh, các thành phần
nghèo khổ ở thôn quê làm thợ hoặc buôn bán nhỏ có thể xin đất trồng trọt để cải
thiện đời sống, gia đình liệt sĩ, chiến sĩ cộng sản, thương phế binh (chương
3)- Việc quy định thành phần xã hội của một người sẽ do hội nghị đại biểu nông
dân quyết định.Một toà án nhân dân sẽ xét xử các địa chủ phản động, gian ác,
những người chống phá "cách mạng" hay chống phá CCRĐ; hoặc xét xử
những vụ tranh chấp ruộng đất, những vấn đề liên quan đến cải cách ruộng đất,
như việc quy định thành phần xã hội, phân chia tài sản.(chương 4)
PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Từ 1949 đến 1956, Việt
Minh (VM) cộng sản mở năm đợt cải cách ruộng đất (CCRĐ). Sau mỗi đợt, VM tổ chức
hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu
(1949 và 1950), VM thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực,
nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản
chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
(CHNDTH). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950.
Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh (Beijing) và Mạc Tư Khoa (Moscow) xin
viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện
ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ
theo đường lối cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang
CHNDTH học tập phương pháp CCRĐ triệt để, vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn
bình thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới CHNDTH.
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng Sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin, lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam. Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin." (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 150,152.) Chẳng những thế, cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: "Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được." (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, VM cử người sang CHNDTH tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lê-nin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng Sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối CHNDTH. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức"(1) ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản cao cấp miền Nam tập kết ra Bắc, đã có mặt trong phái đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh học tập CCRĐ. Về nước, ông Trấn tham gia công tác tại thí điểm Thanh Hóa, và nhận xét rằng cuộc phát động CCRĐ tại Thanh Hóa xem ra không thành công. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 164.) Sau lần thử nghiệm ở các thí điểm trên, VM rút kinh nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng bài bản thực hiện cuộc CCRĐ một cách chu đáo triệt để.
Trong khi đó, từ năm 1949, ban lãnh đạo VM đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh quân" trong quân đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. "Rèn cán chỉnh quân" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. "Rèn cán chỉnh cơ" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào nầy không đạt được những mục tiêu do VM đề ra. Việt Minh liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của CHNDTH, tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm 1950.
CHỈNH HUẤN: Theo nghĩa tầm nguyên, "chỉnh" là sửa đổi, sắp xếp; "huấn" là dạy dỗ. Chỉnh huấn có nghĩa là dạy dỗ, huấn luyện và sửa đổi (con người) cho đúng hơn, tốt hơn theo đường lối cộng sản. Phong trào "chỉnh huấn" của VMCS nhắm mục đích thanh lọc đảng viên, củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản, và hỗ trợ cho cuộc CCRĐ. Lúc đó VM nhận định: "Phần lớn [cán bộ, đảng viên lúc đó] là tiểu tư sản trí thức, công chức cũ, có người xuất thân giai cấp bóc lột, và không loại trừ người "hai mặt chui vào đảng". Nói chung, anh em ta, trót đã thụ hưởng giáo dục của đế quốc tư bản thì sự tham gia cách mạng không khỏi có phức tạp. Huống chi nay lại còn có Cải cách ruộng đất để bồi dưỡng cho nông dân để đảm bảo cho cuộc kháng chiến thắng lợi, thì biết đâu tư tưởng của họ không biến đổi phức tạp hơn nữa. Vậy nên Trung ương cho mở cuộc vận động chỉnh huấn nầy để tiếp tục giáo dục, để cải tạo họ một cách triệt để, cho họ phân rõ địch ta trong tư tưởng, cho họ, cho họ nào là tự mình cắt đứt mối liên hệ với thành phần xuất thân, dứt khoát từ bỏ các thứ tư tưởng cầu an hưởng lạc, tự tư tự lợi." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 171-172.)
Nói theo ngôn ngữ của cộng sản, chỉnh huấn là tự phê, tự kiểm. Như vậy chỉnh huấn có nghĩa là tự suy nghĩ và nhận xét về những tư tưởng, hành động cũ của mình trong đời sống đã qua, mà không thích hợp với đường lối cộng sản. Những tư tưởng và hành động nầy bị xem là sai lầm, tội lỗi, được từng cá nhân tự giác ngộ, tự khai trình, và tự đề ra những biện pháp sửa chữa. Nói cách khác, chỉnh huấn là đoạn tuyệt với quá khứ và tự nguyện sống theo nguyên tắc cộng sản, hay cũng theo ngôn ngữ cộng sản, là lột xác để trở thành con người cộng sản. Những văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Xuân Khoát đã tự phỉ báng mình, và nguyện theo cộng sản suốt đời. Sau đây là tâm tư của Xuân Diệu đáp lại lá thư của ông Hồ trong cuộc học tập chỉnh huấn:
"Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn 1959, tr. 22.)
Phong trào chỉnh huấn đã gây nhiều điêu đứng cho giới trí thức, văn nghệ sĩ. Một trong những điêu đứng rất mỉa mai, như lời ông Nguyễn Văn Trấn viết, đó là: "Họ nói khổ sở không phải là nói ra lỗi lầm, mà khổ sở là phải bịa ra lỗi lầm để bản kiểm thảo được coi là thành khẩn." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 173.)
THÀNH PHẦN NÔNG THÔN:
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng Sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin, lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam. Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin." (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 150,152.) Chẳng những thế, cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: "Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được." (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, VM cử người sang CHNDTH tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lê-nin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng Sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối CHNDTH. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức"(1) ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản cao cấp miền Nam tập kết ra Bắc, đã có mặt trong phái đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh học tập CCRĐ. Về nước, ông Trấn tham gia công tác tại thí điểm Thanh Hóa, và nhận xét rằng cuộc phát động CCRĐ tại Thanh Hóa xem ra không thành công. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 164.) Sau lần thử nghiệm ở các thí điểm trên, VM rút kinh nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng bài bản thực hiện cuộc CCRĐ một cách chu đáo triệt để.
Trong khi đó, từ năm 1949, ban lãnh đạo VM đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh quân" trong quân đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. "Rèn cán chỉnh quân" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. "Rèn cán chỉnh cơ" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào nầy không đạt được những mục tiêu do VM đề ra. Việt Minh liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của CHNDTH, tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm 1950.
CHỈNH HUẤN: Theo nghĩa tầm nguyên, "chỉnh" là sửa đổi, sắp xếp; "huấn" là dạy dỗ. Chỉnh huấn có nghĩa là dạy dỗ, huấn luyện và sửa đổi (con người) cho đúng hơn, tốt hơn theo đường lối cộng sản. Phong trào "chỉnh huấn" của VMCS nhắm mục đích thanh lọc đảng viên, củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản, và hỗ trợ cho cuộc CCRĐ. Lúc đó VM nhận định: "Phần lớn [cán bộ, đảng viên lúc đó] là tiểu tư sản trí thức, công chức cũ, có người xuất thân giai cấp bóc lột, và không loại trừ người "hai mặt chui vào đảng". Nói chung, anh em ta, trót đã thụ hưởng giáo dục của đế quốc tư bản thì sự tham gia cách mạng không khỏi có phức tạp. Huống chi nay lại còn có Cải cách ruộng đất để bồi dưỡng cho nông dân để đảm bảo cho cuộc kháng chiến thắng lợi, thì biết đâu tư tưởng của họ không biến đổi phức tạp hơn nữa. Vậy nên Trung ương cho mở cuộc vận động chỉnh huấn nầy để tiếp tục giáo dục, để cải tạo họ một cách triệt để, cho họ phân rõ địch ta trong tư tưởng, cho họ, cho họ nào là tự mình cắt đứt mối liên hệ với thành phần xuất thân, dứt khoát từ bỏ các thứ tư tưởng cầu an hưởng lạc, tự tư tự lợi." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 171-172.)
Nói theo ngôn ngữ của cộng sản, chỉnh huấn là tự phê, tự kiểm. Như vậy chỉnh huấn có nghĩa là tự suy nghĩ và nhận xét về những tư tưởng, hành động cũ của mình trong đời sống đã qua, mà không thích hợp với đường lối cộng sản. Những tư tưởng và hành động nầy bị xem là sai lầm, tội lỗi, được từng cá nhân tự giác ngộ, tự khai trình, và tự đề ra những biện pháp sửa chữa. Nói cách khác, chỉnh huấn là đoạn tuyệt với quá khứ và tự nguyện sống theo nguyên tắc cộng sản, hay cũng theo ngôn ngữ cộng sản, là lột xác để trở thành con người cộng sản. Những văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Xuân Khoát đã tự phỉ báng mình, và nguyện theo cộng sản suốt đời. Sau đây là tâm tư của Xuân Diệu đáp lại lá thư của ông Hồ trong cuộc học tập chỉnh huấn:
"Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn 1959, tr. 22.)
Phong trào chỉnh huấn đã gây nhiều điêu đứng cho giới trí thức, văn nghệ sĩ. Một trong những điêu đứng rất mỉa mai, như lời ông Nguyễn Văn Trấn viết, đó là: "Họ nói khổ sở không phải là nói ra lỗi lầm, mà khổ sở là phải bịa ra lỗi lầm để bản kiểm thảo được coi là thành khẩn." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 173.)
THÀNH PHẦN NÔNG THÔN:
Đối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc
lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các thành phần xã hội ở nông thôn như sau:
(Bernard Fall, sđd. tr. 283.)
Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).
Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.
Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).
Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.
Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188.)
Đường lối đấu tranh cải cách là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ.
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:
Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).
Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.
Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).
Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.
Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188.)
Đường lối đấu tranh cải cách là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ.
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:
Để lôi cuốn nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban
cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:
Thứ nhất: khích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".
Theo VM, cán bộ cần phải tam cùng tức "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với dân chúng, để "thăm nghèo hỏi khổ", mới khám phá được rõ ràng những gia đình nghèo khổ, bần cố nông. Cũng theo VM, bần nông nghèo khổ nợ nần và sợ sệt các địa chủ, không dám nói lên sự thật, nên cán bộ phải "tam cùng" để họ thổ lộ tâm can, mới có thể "bắt rễ xâu chuỗi", tạo ra liên minh đấu tranh cải cách. "Bắt rễ" có nghĩa là tìm ra những bần cố nông có tinh thần đấu tranh, thường thường là những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn. Sau khi tìm ra "rễ", thì khuyến khích "rễ" tìm thêm đồng bọn, gọi là "xâu chuỗi". Một khi đã "bắt rễ xâu chuỗi", cán bộ sẽ cho bần nông biết là họ được nhà cầm quyền VM hỗ trợ để chống lại địa chủ.
Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Uỷ ban hành chánh địa phương sắp xếp theo sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.
Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.
Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đình hoãn chứ không bãi bỏ.
Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LĐ cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng LĐ mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần nầy việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Uỷ ban CCRĐ đứng đầu.
Thứ nhất: khích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".
Theo VM, cán bộ cần phải tam cùng tức "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với dân chúng, để "thăm nghèo hỏi khổ", mới khám phá được rõ ràng những gia đình nghèo khổ, bần cố nông. Cũng theo VM, bần nông nghèo khổ nợ nần và sợ sệt các địa chủ, không dám nói lên sự thật, nên cán bộ phải "tam cùng" để họ thổ lộ tâm can, mới có thể "bắt rễ xâu chuỗi", tạo ra liên minh đấu tranh cải cách. "Bắt rễ" có nghĩa là tìm ra những bần cố nông có tinh thần đấu tranh, thường thường là những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn. Sau khi tìm ra "rễ", thì khuyến khích "rễ" tìm thêm đồng bọn, gọi là "xâu chuỗi". Một khi đã "bắt rễ xâu chuỗi", cán bộ sẽ cho bần nông biết là họ được nhà cầm quyền VM hỗ trợ để chống lại địa chủ.
Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Uỷ ban hành chánh địa phương sắp xếp theo sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.
Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.
Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đình hoãn chứ không bãi bỏ.
Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LĐ cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng LĐ mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần nầy việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Uỷ ban CCRĐ đứng đầu.
UỶ BAN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT:
Gồm hai cấp trung ương và địa phương.
Cấp trung ương: do tổng bí thư đảng LĐ là Trường Chinh Đặng
Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều
là uỷ viên Bộ chính Trị) và Hồ Viết Thắng (uỷ viên Trung ương đảng). Hồ Viết
Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc cải cách theo mệnh lệnh của
Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học CHNDTH, được Trường Chinh giao nhiệm
vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất" tại chiến khu Cao
Bắc Lạng.
Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Uỷ ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nhì trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185.)
Nguyên tắc hành động căn bản của các Uỷ ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch."(2) Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.
Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động giống như thần chết: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.
Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Uỷ ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nhì trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185.)
Nguyên tắc hành động căn bản của các Uỷ ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch."(2) Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.
Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động giống như thần chết: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.
TÒA ÁN NHÂN DÂN:
Sắc lệnh năm 1953 cũng như sắc lệnh năm 1955
đều thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những tội phạm trong CCRĐ. Tòa án nầy
được tổ chức ở những vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải
cách, biện lý (công tố) là một nông dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân,
tá điền) trong nhà của bị cáo, biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa nầy chỉ là
những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan
trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu
của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Đặc biệt trong tòa án nhân dân
không có người đóng vai trò luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho
bị cáo cả. Quân đội bảo vệ tòa án và những người tham dự đều là những người do
cộng sản sắp đặt trước, hò hét khuyến khích người đóng vai "công tố",
bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm những "tội ác" của nạn nhân để
làm bằng chứng.
Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực, đến đấu pháp; có khi còn cả đấu ảnh nữa. Đấu lý là đưa ra những bằng chứng hoặc có thực, hoặc bịa đặt để tố cáo nạn nhân. Đấu lực là dùng sức mạnh để trấn áp (cộng sản mạo xưng là sức mạnh quần chúng), với cực hình tra khảo, đánh đập nạn nhân và bắt buộc nạn nhân phải nhận tất cả tội lỗi đã được đưa ra, dầu nạn nhân không phạm phải. Cuối cùng là đấu pháp tức đưa nạn nhân ra trước "pháp luật", tức tòa án nhân dân. Việc xét xử không dựa trên luật pháp của nhà nước, mà dựa trên những ý kiến và đòi hỏi đưa ra tại chỗ của "quần chúng", tức là những người tổ chức và hiện diện tại "phiên tòa", nghĩa là chẳng có luật pháp gì cả, mà chỉ theo quyết định của đội cải cách.
Những người chứng kiến các cảnh đấu tố hiện còn sống kể lại nhiều cảnh tra tấn nạn nhân mà trong hoàn cảnh bình thường ngày nay không ai có thể tưởng tượng nổi: từ bỏ đói, bỏ khát, sỉ nhục, mắng chửi, hành hạ, thậm chí đào một cái hố bắt nạn nhân nằm xuống, rồi tiểu đại tiện lên người nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, đến dìm nước (rồi kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn đâm xuyên thủng tay chân, thân thể...
Sau khi nạn nhân chịu khuất phục, đội cải cách cho tập dượt trước việc xét xử. Họ bắt buộc "chánh án, biện lý" và nạn nhân học thuộc tất cả những lời đối đáp qua lại, cho đến khi cả ba thành phần nầy (chánh án, biện lý và nạn nhân) nhuần nhuyễn, thuộc lòng mọi việc, mới chính thức mở phiên tòa xét xử công khai trước quần chúng.
Phiên tòa được tổ chức tại một địa điểm công cộng trong làng. Mọi người trong làng đều phải tham dự, kể cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị trói thúc ké, tay quặt ra đàng sau lưng, quỳ trước mặt bàn quan tòa, đầu cúi xuống. Sau khi tòa lấy khẩu cung xong, dân chúng và nhân chứng đứng ra tố cáo "tội ác" của nạn nhân. Họ xỉ vả chửi rủa, nhổ nước bọt, hành hạ đánh đập nạn nhân. Đôi khi ngay những người trong gia đình nạn nhân, cũng bị bắt buộc phải phụ họa với tòa án, tố cáo nạn nhân.
Cuối cùng viên "biện lý" dựa vào "bằng chứng" nhân dân vừa tố cáo, đứng ra buộc tội nạn nhân và đề nghị một bản án thích đáng. Thật ra, bản án nầy đã được đội CCRĐ quyết định trước rồi. Để có vẻ dân chủ, viên chánh án còn đưa bản án ra "hỏi ý kiến" nhân dân. Những nhân viên ban cải cách, các chức quyền làng xã, các quân sĩ bảo vệ phiên tòa có mặt tại hiện trường, liền tỏ ý hưởng ứng bằng cách vỗ tay, la hét, đưa vũ khí lên để ủng hộ. Dân chúng chẳng đặng đừng phải làm theo.
Bản án của tòa án nhân dân có tính cách chung thẩm. Nạn nhân không được kháng án, không được khiếu tố khiếu nại với ai cả. Nạn nhân không có cách gì để tự biện hộ, và chỉ cúi đầu chấp nhận kết quả bản án. Vì đã được thao dượt trước, nhiều nạn nhân biết trước kết quả bản án, nên có người đã tự tử trước khi tòa án thực sự tiến hành, để tránh kéo dài sự nhục nhã và đau đớn. Nhiều nạn nhân tự tử hoặc không chịu nổi những đòn tra tấn mà chết, nhưng gia đình không được đem đi chôn, để phơi nắng, phơi mưa giữa các cánh đồng. Gia đình nạn nhân đau lòng quá, hoặc phải hối lộ đội cải cách để được đem xác thân nhân đi chôn, hoặc ban đêm kiếm cách đánh cắp đem chôn một cách bí mật.
Nạn nhân tuy đã tự tử (chết) vẫn tiếp tục bị đấu tố, gọi là "đấu ảnh". "Đấu ảnh" là đặt tấm ảnh của nạn nhân trên một bục đất, nếu không có ảnh thì đặt một di vật của nạn nhân như mũ, áo..., nơi chỗ nạn nhân bị trói, và người ta đứng ra tố cáo, xỉ vả nạn nhân như là người nầy vẫn còn sống.
Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực, đến đấu pháp; có khi còn cả đấu ảnh nữa. Đấu lý là đưa ra những bằng chứng hoặc có thực, hoặc bịa đặt để tố cáo nạn nhân. Đấu lực là dùng sức mạnh để trấn áp (cộng sản mạo xưng là sức mạnh quần chúng), với cực hình tra khảo, đánh đập nạn nhân và bắt buộc nạn nhân phải nhận tất cả tội lỗi đã được đưa ra, dầu nạn nhân không phạm phải. Cuối cùng là đấu pháp tức đưa nạn nhân ra trước "pháp luật", tức tòa án nhân dân. Việc xét xử không dựa trên luật pháp của nhà nước, mà dựa trên những ý kiến và đòi hỏi đưa ra tại chỗ của "quần chúng", tức là những người tổ chức và hiện diện tại "phiên tòa", nghĩa là chẳng có luật pháp gì cả, mà chỉ theo quyết định của đội cải cách.
Những người chứng kiến các cảnh đấu tố hiện còn sống kể lại nhiều cảnh tra tấn nạn nhân mà trong hoàn cảnh bình thường ngày nay không ai có thể tưởng tượng nổi: từ bỏ đói, bỏ khát, sỉ nhục, mắng chửi, hành hạ, thậm chí đào một cái hố bắt nạn nhân nằm xuống, rồi tiểu đại tiện lên người nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, đến dìm nước (rồi kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn đâm xuyên thủng tay chân, thân thể...
Sau khi nạn nhân chịu khuất phục, đội cải cách cho tập dượt trước việc xét xử. Họ bắt buộc "chánh án, biện lý" và nạn nhân học thuộc tất cả những lời đối đáp qua lại, cho đến khi cả ba thành phần nầy (chánh án, biện lý và nạn nhân) nhuần nhuyễn, thuộc lòng mọi việc, mới chính thức mở phiên tòa xét xử công khai trước quần chúng.
Phiên tòa được tổ chức tại một địa điểm công cộng trong làng. Mọi người trong làng đều phải tham dự, kể cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị trói thúc ké, tay quặt ra đàng sau lưng, quỳ trước mặt bàn quan tòa, đầu cúi xuống. Sau khi tòa lấy khẩu cung xong, dân chúng và nhân chứng đứng ra tố cáo "tội ác" của nạn nhân. Họ xỉ vả chửi rủa, nhổ nước bọt, hành hạ đánh đập nạn nhân. Đôi khi ngay những người trong gia đình nạn nhân, cũng bị bắt buộc phải phụ họa với tòa án, tố cáo nạn nhân.
Cuối cùng viên "biện lý" dựa vào "bằng chứng" nhân dân vừa tố cáo, đứng ra buộc tội nạn nhân và đề nghị một bản án thích đáng. Thật ra, bản án nầy đã được đội CCRĐ quyết định trước rồi. Để có vẻ dân chủ, viên chánh án còn đưa bản án ra "hỏi ý kiến" nhân dân. Những nhân viên ban cải cách, các chức quyền làng xã, các quân sĩ bảo vệ phiên tòa có mặt tại hiện trường, liền tỏ ý hưởng ứng bằng cách vỗ tay, la hét, đưa vũ khí lên để ủng hộ. Dân chúng chẳng đặng đừng phải làm theo.
Bản án của tòa án nhân dân có tính cách chung thẩm. Nạn nhân không được kháng án, không được khiếu tố khiếu nại với ai cả. Nạn nhân không có cách gì để tự biện hộ, và chỉ cúi đầu chấp nhận kết quả bản án. Vì đã được thao dượt trước, nhiều nạn nhân biết trước kết quả bản án, nên có người đã tự tử trước khi tòa án thực sự tiến hành, để tránh kéo dài sự nhục nhã và đau đớn. Nhiều nạn nhân tự tử hoặc không chịu nổi những đòn tra tấn mà chết, nhưng gia đình không được đem đi chôn, để phơi nắng, phơi mưa giữa các cánh đồng. Gia đình nạn nhân đau lòng quá, hoặc phải hối lộ đội cải cách để được đem xác thân nhân đi chôn, hoặc ban đêm kiếm cách đánh cắp đem chôn một cách bí mật.
Nạn nhân tuy đã tự tử (chết) vẫn tiếp tục bị đấu tố, gọi là "đấu ảnh". "Đấu ảnh" là đặt tấm ảnh của nạn nhân trên một bục đất, nếu không có ảnh thì đặt một di vật của nạn nhân như mũ, áo..., nơi chỗ nạn nhân bị trói, và người ta đứng ra tố cáo, xỉ vả nạn nhân như là người nầy vẫn còn sống.
Thiếu nhi liên hoan nhảy múa sau cuộc hành
quyết, đấu tố.
Câu chuyện do ông Lê
Nhân, một cựu cán bộ đảng viên, kể lại trong lá thư ông gởi cho ông Phan Văn
Khải, thủ tướng nhà cầm quyền Hà Nội, viết từ Hà Nội ngày 5-12-2005, có thể xem
là một trường hợp đấu ảnh điển hình.
"Bạn của Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan." (trích Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005, người trích in đậm.)
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhân vật lịch sử vĩ đại tầm cỡ quốc gia và quốc tế, gốc người Nghệ An. Cụ là niềm hãnh diện của tòan thể dân chúng tỉnh Nghệ An, trong đó có cả những đảng viên cao cấp trong đảng LĐ. Phan Bội Châu lại cùng quê với Hồ Chí Minh. Khi Hồ Chí Minh qua Trung Hoa họat động năm 1924, Phan Bội Châu cũng họat động tại đây. Bề ngòai Hồ Chí Minh kính cẩn gọi cụ Phan bằng bác, để rồi sau đó chính Hồ Chí Minh (lúc đó có tên là Lý Thụy) đã hợp tác cùng Lâm Đức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu ngày 1-7-1925 khi cụ Phan vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải (Trung Hoa).(3) Pháp bí mật đưa cụ Phan về Hà Nội để đưa ra tòa án, rồi quyết định an trí cụ Phan ở Huế cho đến khi cụ từ trần ngày 29-10-1940.
Phan Bội Châu từ trần trước cuộc CCRĐ 15 năm, mà vẫn bị đem ra đấu tố. Việc đấu tố một nhân vật tầm cỡ như Phan Bội Châu, một người được dân chúng Nghệ An kính mến và trân trọng, không thể là một hành động tự phát tại chỗ của đội CCRĐ địa phương, mà phải có mật lệnh từ cấp trên, mà cấp trên nầy phải là một người lãnh đạo cao cấp. Người lãnh đạo cao cấp nầy không thể ai khác hơn là Hồ Chí Minh, nên đội CCRĐ Nghệ An mới dám chà đạp lên Phan Bội Châu, thần tượng của quê hương Nghệ An. Như thế, chính Hồ Chí Minh đã hai lần ném đá giấu tay triệt hạ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.
"Bạn của Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan." (trích Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005, người trích in đậm.)
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhân vật lịch sử vĩ đại tầm cỡ quốc gia và quốc tế, gốc người Nghệ An. Cụ là niềm hãnh diện của tòan thể dân chúng tỉnh Nghệ An, trong đó có cả những đảng viên cao cấp trong đảng LĐ. Phan Bội Châu lại cùng quê với Hồ Chí Minh. Khi Hồ Chí Minh qua Trung Hoa họat động năm 1924, Phan Bội Châu cũng họat động tại đây. Bề ngòai Hồ Chí Minh kính cẩn gọi cụ Phan bằng bác, để rồi sau đó chính Hồ Chí Minh (lúc đó có tên là Lý Thụy) đã hợp tác cùng Lâm Đức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu ngày 1-7-1925 khi cụ Phan vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải (Trung Hoa).(3) Pháp bí mật đưa cụ Phan về Hà Nội để đưa ra tòa án, rồi quyết định an trí cụ Phan ở Huế cho đến khi cụ từ trần ngày 29-10-1940.
Phan Bội Châu từ trần trước cuộc CCRĐ 15 năm, mà vẫn bị đem ra đấu tố. Việc đấu tố một nhân vật tầm cỡ như Phan Bội Châu, một người được dân chúng Nghệ An kính mến và trân trọng, không thể là một hành động tự phát tại chỗ của đội CCRĐ địa phương, mà phải có mật lệnh từ cấp trên, mà cấp trên nầy phải là một người lãnh đạo cao cấp. Người lãnh đạo cao cấp nầy không thể ai khác hơn là Hồ Chí Minh, nên đội CCRĐ Nghệ An mới dám chà đạp lên Phan Bội Châu, thần tượng của quê hương Nghệ An. Như thế, chính Hồ Chí Minh đã hai lần ném đá giấu tay triệt hạ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.
Hồ chí Minh và Cải cách ruộng
đất
một
chiến dịch diệt chủng của người cộng sản cách đây hơn nửa thế kỷ mà khi nhắc
lại tưởng chừng như mới hôm nào. Chắc chắn trong lòng người dân Việt, nhứt là
người Việt ở miền Bắc đã phải gánh chịu cái tai ách ấy trong suốt 3 năm trời
vẫn còn bàng hoàng khi nhắc đến CCRĐ. Ngày nay đảng cộng sản còn đây thì tất cả
những hành động diệt chủng của họ còn được che đậy, nhưng mai kia khi đảng cộng
sản bị tiêu diệt rồi thì mọi người dân sẽ thắp nén nhang, lập đàn tràng giải
oan cho bao nhiêu vong hồn uổng tử đã bị giết oan và bắt kẻ gây án phải đền tội
dù họ còn sống hay đã chết.
1 – Cải cách ruộng đất:
Ông Hoàng Tùng, nguyên
Tổng Biên tập báo Nhân Dân(1954-1982) kể lại trong chuyện“ Bí mật HCM” cho
chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của
đảng CSVN) như thế nào.
“Mùa
hè năm 1952 Mao
Trạch Đông và Stalin gọi bác
sang, nhất
định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối
được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…
“Mùa
hè năm 1952, sau khi đi Trung quốc và Liên xô về, bác chuẩn bị cho hội nghị cán
bộ đầu năm 1953, quyết định CCRĐ. Đoàn cố vấn CCRĐ do Kiều Hiếu Quang làm
trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây. Họ muốn qua CCRĐ để chỉnh
đốn lại đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành CCRĐ đến lúc dừng là 3 năm”. (Đàn
chim Việt online ngày 4-7-2010)
Ông Nguyễn Minh Cần, người
được thành ủy Hà nội giao cho trách nhiệm sửa sai trong việc CCRĐ ở ngoại thành
Hà Nội đã kể lại qua bài “Xin đừng quên bài học CCRĐ nửa thế kỷ truớc”.
“Ngày
4-12-1953, Quốc hội nhất trí thông qua luật CCRĐ. Sau đó, chủ tịch HCM đã ra
sắc lệnh ban hành luật CCRĐ. Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành
ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó tràn lan trên khắp miền
Bắc, trừ các vùng miền núi…
“Do
sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy ở Bùi Chu, Phát Diệm, nên
về sau, trung ương đảng Lao Động VN chỉ tiến hành cái gọi là “Cải cách Dân chủ”
ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương mà không dùng bạo lực quá
mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung quốc, Lào…”
(Người
Việt ngày 4 đến 11-2-2006)
Nguyễn Minh Cần trong
bài “Xin đừng quên bài học CCRĐ nửa thế kỷ trước” nói về cái tỷ lệ giết người
như sau:
“Cái
tỷ lệ quái gở 5% đó
kèm thêm những “kết luận” quái đản khác…Cái phương châm “thà sai hơn bỏ sót”, cộng
thêm với việc “thi
đua lập thành tích đánh phong kiến”…
“Tóm
lại, những con số về người thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác nhận được. Dù thế
nào chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này
chính là tội ác chống nhân loại”. (Người Việt ngày 6-2-2006)
Trong
chiến dịch CCRĐ giết người có chỉ tiêu rõ ràng, cái chỉ tiêu ác độc ấy phải
giết địa chủ ở mỗi xã cho đủ 5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen
thưởng. Theo nhà văn Tô Hoài:
“Thế
mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba
đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về
chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác- trang 206)
Nhà
văn Trần
Mạnh hảo, rất bức xúc với cái tỷ lệ giết người trong chiến
dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các nơi khác:
“Làng
tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị gọi là ác ôn, nên
chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15% địa chủ là Bình Hải
Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân thì phải nộp cho bác và
đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)
Chính
vì các đội cải cách thi đua lập thành tích cho nên con số người dân vô tội đã
bị giết một cách dã man đưa con số lên đến hàng trăm ngàn:
“Ông Bùi Tín, một
người bất đồng quan điểm với chính phủ Việt nam cũng nêu lên con số nạn nhân là
500.000 người do Michel Tauriac, nhà văn
người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị
giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt
online ngày 19-5-2006)
“Một
ý kiến cực đoan là của Hoàng văn Chí, người tin
rằng 5% dân số miền Bắc ( 675.000 người đã chết).
Cuốn sách From
Colonialism to Communism của ông nầy đã có tác động mạnh
đến cuộc tranh luận về vấn đề con số” (BBC online ngày 28-12-2006)
Trong
bài “Cuộc CCRĐ 50 năm trước đây” của phóng viên Nguyễn văn An, đài RFA thì:
“Thống
kê của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế tập 2 cho biết đã có 172.008
người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những
người bị xếp vào loại kể thu của nhân dân, bị“ đào tận gốc, trốc tận rễ”,
nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị án tù rồi chết trong nhà giam. Con số
nầy có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân không thể thấp hơn thế được…
“Bản
thống kê chính thức cho biết là trong 172.008 người bị quy là
địa chủ và phú nông trong CCRĐ thì123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính
theo tỷ lệ là 76,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ
giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế”. (RFA online ngày 15-5-2006)
Chiến
dịch CCRĐ đã tàn sát người dân vô tội, máu đã chảy tràn lan khắp nơi, tiếng oán
than ngút trời, lúc bấy giờ ông HCM mới chịu cho dừng tay bắn giết và ông Nguyễn Minh Cần, người
được thành ủy Hà nội đề cử làm nhiệm vụ sửa sai tại Hà Nội kể:
“Trung
ương đảng buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và chủ
trương sửa sai. Tại hội nghị, Trung ương đã thi hành kỷ luật như sau: Trường Chinh, mất
chức tổng bí thư, chỉ còn làm Ủy viên BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê văn Lương mất
chức Ủy viên BCT, Hồ Viết Thắng, bị đưa ra khỏi TƯ/đảng LĐVN…
“Hồi
đó chúng tôi được giải thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn
đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên
không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng”. (Người Việt ngày
4-2-2006)
2 – Hành động diệt chủng:
Trong
khi thi hành CCRĐ đảng Lao Động Việt Nam đã đưa ra một phương châm hành động
thật là sắt máu, họ chỉ có biết giết và giết.
“Cái
phương châm “Thà
sai hơn bỏ sót”, cộng thêm với việc “Thi đua lập thành tích chống phong kiến”
đã gây tình trạng “kích
thành phần”,“ nống thành tích”, cố tìm ra
nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá… để có được bằng khen, huân chương,
để ngoi lên địa vị cao hơn…
“Các
đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”,“tìm
ra của chìm”, ép
buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con
dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố chồng”, anh em “đấu tố” lẫn nhau,
trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” kẻ ban ơn,
láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau (cũng
có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái
“đấu
tố” mình để mong cứu mạng cho con cái)…
“Những
người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị
chà đạp,ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân,
phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt
nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con…
“Còn
khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của
người ấy, từ gìa cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận
mắt cảnh tượng đó! Đúng
là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo”.
(Người
Việt ngày 4 đến 11-2-2006)
Giáo
sư Nguyễn
Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau
năm 1975, ông nói:
“Trong
lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết
dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự
nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc
ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004)
Hòa
thượng Thích
Quảng Độ, Xử lý thường vụ Viện Tăng thống,Viện trưởng Viện
Hóa đạo GHPGVNTN trong cuốn “Nhận định về những sai lầm tai hại của đảng CSVN
đối với Dân tộc và Phật giáo Việt Nam”, đoạn nói về CCRĐ, ngài viết như sau:
“Những
kẻ thù bên trong ấy là ai. Đó là “Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh”
và phải “đào
tận gốc trố tận rễ”có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết. Và
cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đã diễn ra năm 1956, dưới hình thức CCRĐ và “ôn nghèo giợi khổ”
kéo dài suốt sáu tháng trời…
“Khẩu
hiệu của đội cải cách là “Nhất đội nhì trời”. Cũng như trong miền Nam năm
1975, cộng sản đang trong khí thế “thừa thắng xông lên”, tại các
công trường làm thuỷ lợi, cộng sản trương khẩu hiệu “thằng trời đứng qua một bên, để cho thuỷ lợi
đứng lên thay trời” và “vắt đất ra nước thay trời làm mưa”,
còn gì ngông cuồng hơn…
“Có
nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau
vì những nguyên nhân bất hòa trong gia đình trước kia. Tố
xong, tòa án nhân dân luận tội và kết án tử hình, tất cả
đám đông ở dưới phải hô to ba lần “tử hình; tử hình; tử hình”
vừa hô vừa đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói
vào cây cột đã được dựng sẳn và đội hành quyết gồm 5 người đứng nhắm bắn, khổ
chủ gục đầu xuống và kết liểu một cuộc đời”.
(ĐốiThoại
online ngày 21-9-2007)
Để
cổ vỏ cho phong trào diệt chủng, hai nhà “ đại thi nô” miền Bắc lúc bấy giờ thi
nhau làm thơ cổ động chiến dịch một cách hiếu sát như sau:
1. Tố Hữu:
“Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
Cho
ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho
đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ
Mao chủ tịch, thờ Stalin…bất diệt”
(Trăm
hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)
2. Xuân Diệu:
“Anh
em ơi! quyết chung lòng
Đấu
tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa
hào đối lập ra tro
Lưng
chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp
đuốc cho sáng khắp đường
Thắp
đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi
cổ bọn nó ra đây
Bắt
quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
(Trăm
hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)
3. Những vụ án thời CCRĐ:
Vụ
án đầu tiên trong chiến dịch CCRĐ là thí điểm ở đồng bằng và chọn đồn điền bà Nguyễn thị Năm tứcCát Thành Long được
ông Hoàng
Tùng viết trong “Bí mật Hồ chí Minh” như sau:
“Nguyễn thị Năm tức Cát Thành
Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính
trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng
vàng. Bà
còn tham gia công tác của Hội Phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần
nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà
bà. Gia đình Nguyễn thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ Đình
Thiện, Trịnh Văn Bô giúp đỡ nhiều cho cách mạng. Chọn địa
chủ Nguyễn
thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung quốc. Họp
bộ chính trị bác nói:“ Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho
là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy
lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh
bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung quốc là La Quý Ba đề nghị mãi,
bác nói:“Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ cứ thế
làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức
khác của đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể.
Ai lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm
1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó mấy ngàn người bị xử
tử. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta. May mà đến năm
1956 ta kịp thời dừng lại…
“Đánh
thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung quốc đề ra. Hậu quả là hơn một
triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó
chỉ đúng một phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải
địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt
cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế”. (Đàn
chim Việt online ngày 4-7-2010)
Nhà
văn Vũ
Thư Hiên, con của cụ Vũ Đình Huỳnh, bí thư
của ông HCM. Cả hai cha con ông Vũ Thư Hiên đã từng ở tù về tội “Xét lại chống
đảng”. Trong quyễn“ Đêm giữa ban ngày” ông Hiên viết về CCRĐ như sau:
“Từ
tinh mơ đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có
mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về những sân đình, những bãi rộng,
nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ cường hào gian ác…
“Đấu
tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được
đảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong
niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm
nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá
cờ đỏ sao vàng không biết để chiến đấu với quân xâm lược
mà với chính đồng bào mình…
“Chúng
tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì hấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch
kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm
thiết:“ Ơi cụ Hồ ơi, cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân cụ thế
này đây!”
“Ở
một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là
một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố
lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới
khi ngất đi mới được người ta hạ xuống.
“Cha
bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng
viên Quốc Dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm,
cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ, với đảng. Tôi không phản bội. HCM muôn năm!”
“Người ta lấy gai
bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta tội gì, có
thể cô ta là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một
chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói”. (ĐGBN- trang
30-31)
Ông Nguyễn văn Thủ, quê
ở tỉnh Hưng Yên khi trả lời phỏng vấn của đài RFA thì đang ở Hà Nội kể lại
chuyện gia đình ông bị đấu tố hồi CCRĐ như sau:
“Gia
đình tôi, cụ(ông nội) công tác tốt, đến lúc ấy tự nhiên quy cho cụ tôi là thành
phần đối kháng, bắt cụ đi đấu tố, gia sản bị tịch thu hết. Tôi bị coi là con nhà
địa chủ, khổ lắm, đi ra ngoài đường là phải chào ông bà nông dân. Dù nó là con
là cháu mình, cũng phải gọi nó là“ Ông” là “ Bà”…của cải mất hết, chả còn gì
cả…
“Lúc
ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như
muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái,
càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết
án tử hình, bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu”.
(RFA online ngày 19-5-2006)
Nhạc
sĩ Trịnh
Hưng, hiện đang ở bên Pháp, là người bạn thân vừa về thăm
thi sĩ Hữu
Loan và kể lại câu chuyện có liên quan đến tác
gỉa bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim như sau:
“Ông
ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là trưởng Ban Tuyên huấn của Đoàn 304, do
tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn,
không có gạo mà ăn…Ông địa chủ đó thì giàu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi
quân cho…Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban
thưởng huân chương.
“Năm
1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hoá, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ
có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không
được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.
“Ông
ấy( nhà thơ Hữu
Loan) thấy bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào
thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy
phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách
rưới bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về
nhà nuôi…và bây giờ là vợ ông ấy!” (RFA online ngày 19-5-2006)
Nhà
văn Trần
Mạnh Hảo, người bị đuổi ra khỏi đảng CSVN năm 1989 và đuổi
khỏi biên chế nhà nước viết cuốn“ Ly thân” có bài“ Độc quyền chân lý là thủ
tiêu chân lý”, đoạn ông viết về CCRĐ:
“Ông
đội (tên gọi cán bộ CCRĐ từ trung ương phái về) từ trên bàn xử án xông tới sát
ông Luân
bị trói, bị chôn chân tới đầu gối trong chiếc“ hố đấu tố”,
đoạn hét:“ mày có hô CCRĐ muôn năm không?” Ông Luân trợn mắt, đôi mắt sưng tấy,
lòi cả con ngươi ra…
“Sau
đó, ông đội lên bàn xử án, tuyên bố thay mặt đảng và bác vĩ đại, tuyên án xử tử
hình gián điệp Quốc Dân đảng Luân, lệnh du kích xã lên đạn
rốp rốp thị uy; đoạn trói nghiến ông Luân vào cọc bắn trên ruộng cạn mùa đông
đang rét…
“Ông Luân bị bắn
bằng bốn cây súng trường. Bốn phát đạn cùng lúc đều trúng vào ngực ông Luân
phụt máu, khiến ông gục xuống liền, cái giẻ nhét miệng ông bị máu trào ra, rơi
bịch xuống như một cục máu đông, hay một mảnh phổi vở tràn ra ngoài”.
(Thời Luận ngày 1-4-2006)
Dưới
đây là chuyện của cựu trung tá QĐND Trần Anh Kim, hiện đang
ngồi tù 5 năm rưởi về tội “ hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đã trả
lời phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên đài RFA kể về hoàn cảnh của gia đình
ông bị xử một cách dã man trong chiến dịch CCRĐ như sau:
“Đến
CCRĐ, sau năm 1954 giải phóng, sau đó giảm tô, đến CCRĐ thì người ta quy cho ông tôi là
địa chủ, và quy cho bố tôi là QD đảng. Bố tôi là Phó bí
thư QD đảng và bác tôi là Bí thư QD đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì
bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta
thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi
đau quá, kêu khóc xin thả xuống. Kêu khóc quá to thì người ta, lấy rơm, lấy rạ
nhét vào mồm…
“Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi thôn là mấy
địa chủ thì cứ thế mà người ta đưa lên thôi. Cuối cùng cũng bị tù không án hai
năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi đi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu
ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn
chuồng trâu thôi”.
(RFA
online ngày 19-5-2006)
4. Dư luận về CCRĐ:
Học
gỉa Hoàng
Xuân Hãn nói lên cái nhận định của mình về chiến dịch CCRĐ
khi trả lời phỏng vấn của Thuỵ Khuê trên đài RFA:
“Cái
mất mát lớn bởi sai lầm trong CCRĐ là nó phá vỡ mất cái nông thôn Việt Nam và
phá vỡ mất lòng tin. Cái nguy hại của CCRĐ là ở chỗ nó phá vỡ một tế bào quan
trọng vào bậc nhất của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là làng quê”.
(Người
Việt ngày 7-9-2004)
Cố
thủ tướng CSVN Võ
văn Kiết, người có nhiều trăn trở trong việc làm của mình đã
qua, ông cũng nói lên quan điểm của mình về chiến dịch CCRĐ sau khi đã không
còn chức vụ gì trong chính phủ:
“Năm 2005, ông Võ văn Kiệt, nguyên thủ tướngViệt Nam, nhìn nhận“ Trong các chiến dịch CCRĐ và
cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có
công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về
chính trị và kinh tế” nhằm khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh
của đất nước”. (Wikipedia tiếng Việt
online ngày 19-5-2006)
Nhà
phê bình văn học Lại Nguyên Ân, trả lời phỏng vấn của BBC,
ông nói còn nhiều vấn đề trong lịch sử Việt Nam nữa thế kỷ trước tiếp tục là
kiêng kị, chưa được bàn thảo sòng phẳng:
“Trong
xã hội Việt Nam lâu nay, xung quanh đề tài CCRĐ, dư luận buộc phải im lặng. Sự
kiện CCRĐ, khi xảy ra, đã làm đảo lộn đời sống nông thôn miền Bắc; nó đi vào lịch
sử như một vết thương. Có thể nói đó là vết đen lớn đầu
tiên mà phong trào của những người cộng sản khi lên cầm quyền đã để lại trong
xã hội Việt Nam”. (BBC online ngày 14-1- 2007)
Ông Đoàn Duy
Thành, nguyên phó thủ tướng chính phủ, người đã từng kể về
mật lệnh Z
30 tịch thu nhà hai tầng trở lên hồi sau năm 1975 viết về
CCRĐ trong cuốn“ Lý luận HCM” ông nói lên cái nhận định của mình về cái chiến
dịch này:
“Những
sai lầm của CCRĐ đã để lại hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự
lừa dối, xảo trá, vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện…gây tai họa cho
bao gia đình, làm mất đi những truyền thống tốt đẹp về gia
đình, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta đã dày công xây dựng hàng nghìn năm…
“Những
sai lầm trong việc đấu tố không chỉ có trong CCRĐ, mà cũng phổ biến trong cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, nhưng cải tạo công thương chỉ làm ở một
số thành phố và tiến hành sau CCRĐ nên phần nào giảm bớt sai lầm, khuyết điểm,
tác hại của nó cũng chỉ thu hẹp trong một số thành phố”.
(Bauxite
Việt Nam online ngày 16-11-2010)
Cụ Nguyễn văn Trấn, một
lão thành cách mạng nổi tiếng của miền Nam trong quyễn “Viết cho Mẹ và Quốc
hội” cho chúng ta thấy được rõ ràng sự nô lệ của chính phủ Hồ chí Minh trước đế
quốc Trung cộng là như thế nào. Họ ngữa tay nhận viện trợ của Trung cộng để
đánh Pháp, Mỹ giải phóng dân tộc (?), nhưng lại tròng vào cổ dân tộc một ách
thống trị nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn và lâu dài hơn.
“Ác
hết sức là cố vấn Trung quốc hiến cho cái kế Phóng tay. Phóng tay! Nói
nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm mạnh thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc
nguỵ biện,“à la” Mao Trạch Đông.
“Kiểu
uông tất tu quá chỉnh”. Có nghĩa là: muốn uốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá
chiều.
“Trời ơi! đảng của
tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó trở lại giết chết
bao vạn sanh linh…
“Có
lần anh chị em Nam bộ“ Đại biểu tôi đến gặp ông gìa Tôn mà
hỏi, tại sao ổng để cho CCRĐ giết người như vậy?”
“Bác
Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy bước ra khỏi ghế, vừa đi và nói: “Đụ mẹ, tao cũng sợ
nó, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?
“Quả
thật, lúc
CCRĐ còn nghe theo Chệt mà phóng tay phát động ai mà có ý kiến với nó thì sẽ bị
quy là có tư tưởng địa chủ”. (VCMVQH- trang 266-267)
Bác
sĩ Phạm
Hồng Sơn, một nhà trí thức trẻ lớp hậu sinh góp lời nhận
định về công cuộc CCRĐ của HCM khi trả lời phỏng vấn của Duy Ái đài
VOA:
“Theo
tôi cột mốc rõ nhất cho sự phi dân chủ hóa để trở thành độc tài toàn trị
của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một cái tên rất
dân chủ, là việc đảng Lao Động VN phát động CCRĐ, được cụHồ gọi là cách“ mạng long trời lỡ
đất”, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ “cách mạng” này là sự tuỳ tiện của
chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ, bắn giết, tịch thu gia sản
đối với hàng trăm nghìn người Việt Nam. Các thủ tục tư
pháp thông thường đã có từ thời thực dân Pháp hay các quy định phải tôn trọng
pháp luật và quyền
con người được ghi trong Hiến pháp 1946 đều không được đếm xỉa trong CCRĐ”.
(VOA online ngày 15-9-2010)
Để
kết luận bài viết này, tôi xin mượn lời của cố giáo sư Nguyễn Mạnh Tường trích
trong bài diễn văn “Qua những sai lầm trong CCRĐ” đọc trong phiên họp của MTTQ
tại Hà nội ngày 30-10-1956 với tư cách là một thành viên của MTTQ. Và cũng
chính vì bài diễn văn này mà ông đã bị tước hết chức vụ và danh vị nghề nghiệp
và sống một cuộc đời bị bạc đải cho đến chết.
“…tôi
nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc CCRĐ. Tôi xin
phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội
bị chết oan, không phải vì bàn tay của kẻ địch mà chính của ta…
“Trong
CCRĐ chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa.
Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết
một cách thê thảm”. (Người Việt ngày 9-5-2005)
©
Đại Nghĩa
(sưu
tầm)
©
Đàn Chim Việt
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết