Cái lạnh ngoài trại tù Yên Bái
(Trích trong Hồi ký Cuộc Đời Đổi Thay)
Kiếp sống là một chuỗi dài sầu tủi,
Vui
là bao, chỉ luống những ưu phiền !
Nguyễn
Minh Châu
Hôm nay chúng ta đã ở vào giữa mùa Đông và chúng ta đang sống cuộc đời tỵ nạn nơi xứ văn minh tiến bộ. Gia đình con cháu chúng mình được ăn uống đầy đủ, nhà ở rất tiện nghi, được trang bị đầy đủ máy nước nóng, lò sưỡi ấm mùa đông và máy điều hoà cho mùa hè v v…Chúng ta không bị đói lạnh thân xác, nhưng tâm hồn ta luôn lạnh lùng vì nỗi nhớ quê nhà, xa quê cha đất tổ. Chúng ta luôn mong đợi ngày về quê hương trong cảnh thanh bình và được tự do dân chủ.
Mỗi độ Đông về nơi xứ người, trời mây mù ảm đạm và có nhiều mưa buồn lắm ! làm cho người lính già hay ngồi ôn nhớ lại những kỷ niệm dĩ vãng của thời chinh chiến khó quên. Nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975, bị chấm dứt nửa chừng xuân cuộc đời binh nghiệp trong sự nhục nhã và uất hận, để rồi chúng ta bị đày đọa trong các trại tù lao động khổ sai.
Những ai đã từng bị đày trong các trại tù miền Bắc chắc vẫn còn nhớ tới những ngày mùa Đông lạnh xé da cắt thịt của vùng núi rừng hoang vu miền Yên Bái, Bắc Việt .
Cảnh trời mùa đông Yên Bái thật buồn não nề !.
Tất cả các trại tù miền Bắc đều được xây cất giống nhau một kiểu mẫu như hình trên đây. Mấy dãy nhà trong trại nơi tôi ở nằm trên hai ngọn đồi thoai thoải. Trên ngọn đồi lớn là mấy dãy nhà của những người có sức khoẻ lao động nặng như vác cây rừng và cây bồ đề, vác chỏm là một loại tre rừng nhưng bọng ruột, cày cuốc để canh tác, gánh phân tưới rau và chăn trâu bò vv…Trên ngọn đồi nhỏ bên cạnh là một dảy nhà dành cho những người tù bị tàn phế, già cả hoặc bịnh hoan yếu sức làm việc nhẹ như trồng rau, đập tre, chẻ tre và đan lác .
Chung quanh trại của chúng tôi là núi non trùng trùng điệp điệp với nhiều cây rừng một màu xanh biếc. Lúc mùa đông các dãy núi thường bị mây mù hay sương mờ che phủ nhìn thật là buồn ảm đạm. Dưới chân đồi là con suối nước chảy quanh năm là nơi anh em tù chúng tôi tắm rửa và giặt giũ.
Thật ra cái lạnh nơi xứ mình đâu bằng tiết lạnh bên xứ nầy, nhưng vì hoàn cảnh của tù cải tạo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và phải làm lao động khổ sai, nơi ở lại là những dảy nhà mái tranh, vách làm bằng những tấm phên đang bằng tre không kín đáo, nên mùa đông trong các trại tù ở vùng núi rừng ngoài Yên Bái Bắc Việt thật là hãi hùng đối với anh em tù chúng mình.
Tôi còn nhớ lúc mùa Đông lạnh lẽo mà anh em tù chỉ được bọn bộ đội cộng sản phát thêm một cái mền đỏ của Trung cộng nó mỏng te. Đêm đêm gió lạnh cắt da thổi xuyên qua vách phên tre và mái tranh, nên đêm ngủ anh em tù trùm mền từ đầu đến chân và nằm một hàng đỏ lòm trên hai sạp tre đối diện nhau, được soi sáng bởi ánh lửa củi rừng chiếu mập mờ, trông giống như hai hàng thây ma trông cũng dễ sợ và buồn não nề ! Khổ nỗi là chúng tôi phải nằm im không dám cựa quậy, vì mỗi lần cựa quậy là hơi lạnh lọt vào lạnh thấu xương.
Mỗi tuần chúng tôi chỉ dám tắm suối có một lần trưa ngày chủ nhựt nếu nắng ráo và nếu được nghỉ lao động. Nhiều người không can đảm tắm vì sợ cái lạnh của nước suối không khác chi nước đá lạnh gần không độ. Nằm gần bên tôi có người bạn là Trung tá BĐQ, ông ấy sợ lạnh lắm. Ông ấy đã qua đời sau khi được về với gia đình, vì không muốn gợi nỗi buồn của người quá cố nên tôi không tiện nêu tên ra ông ấy ra. Suốt mấy tháng mùa Đông ông không bao giờ tắm, ông luôn luôn mặc sáu lớp quần áo mà không bao giờ dám cởi lớp thứ ba từ trong người đếm ra, để giặc giũ. Quý vị hãy tưởng tượng mỗi ngày lao động nặng thì bao nhiêu mồ hôi thấm rút vào quần áo nó hôi đến cỡ nào? Nhưng ăn ngủ và sống chung nhau lâu ngày mình cũng quen cái mùi khó chịu đó đi. Chính mình cũng chẳng sạch sẽ gì lắm, chỉ ít hôi hơn thôi. Cho nên người ta hay nói ở dơ như tù là vậy đó.
Miền rừng núi có vẻ đẹp thiên nhiên và rất thơ mộng của miền sơn cước nếu trời trong mây tạnh và nhứt là vào những đêm trời sáng trăng. Nhưng mùa mưa phùn nơi miền núi rừng ngoài Yên Bái cũng rất dễ sợ, chẳng đẹp đẽ và thơ mộng như các nhà văn hay thi sĩ thường hay tả cảnh đẹp nên thơ của mưa phùn Đalat hay Pleiku mù sương đâu. Hạt mưa phùn ngoài ấy rất nhỏ phải nhìn qua rặng núi xanh mới thấy mưa rơi. Nhưng lao động ngoài trời vài giờ là nước thấm ướt cả quần áo. Trời mưa ban ngày, mưa cả ban đêm và mưa triền miên suốt tháng trời, gọi là mưa thúi đất vì đất phải nổi sình và lầy lội. Đêm về những tiếng ếch nhái và ểnh uơng cất tiếng kêu vang như ai khóc than và rên siết trong cảnh rừng âm u và tĩnh mịch làm cho người tù buồn não nề ! Chân tôi đi khập khểnh nên thường hay bị té, mà mỗi lần té là phải thay đồ và giặt quần áo khổ lắm.
Có rất nhiều anh em đồng đội bị chết vì nhiều nguyên do như chịu không nổi cái lạnh, cái đói hoặc bịnh hoạn mà không có thuốc chữa trị. Có những bà vợ đi ngàn dậm ra Bắc tìm thăm chồng và khi ra tới nơi mới hay chồng đã chết vì bọn cộng sản không cho thông báo tin về cho gia đình. Các người tù bất hạnh đó đã bị chôn vùi trên những ngọn đồi hoang vu hiu quạnh. Tôi xin ghi vài dòng thơ thuật lại câu chuyện rất thương tâm của một bà vợ ra thăm chồng ngoài đất Bắc. Khi ra đến trại bà mới được tin là chồng bà đã chết, bà chỉ còn thấy nấm mộ của chồng nằm trên triền núi lạnh căm, do anh em tù cải tạo chỉ báo.
Cắt Tóc Đắp Mộ Chồng
Xót thương ai đắp mộ chồng
Tóc
xanh em cắt đắp mồ người yêu
Âm
dương hai ngả anh ơi
Chôn
anh đất Bắc, em về miền Nam
Ngày
xưa lội khắp bốn vùng
Nhọc-nhằn
gian khổ, cũng về thăm con
Hy
sinh giữ nước giữ bờ
Bây
giờ lao lý, xương tan chốn nầy
Nghĩ
suy thật quá đau lòng
Anh
ơi giờ đã bỏ em thật rồi
Từ
đây trở giấc canh khuya
Thèm
hơi anh ướm, thiếu chăn tình nồng
Một
mình một bóng lẻ loi
Lòng
sầu tê tái, tuôn dòng lệ rơi
Bốn
phương mưa gió não nề
Cốt
hài phương Bắc, bóng hồn theo em
Hiển
linh phò trợ mọi điều
Cho
em vẹn giữ lời thề năm xưa
Rồi
đây dầm dãi nắng mưa
Thay
anh nuôi trẻ, không buồn cút côi
Lê
la khắp chốn đó đây
Khác
chi chim nhạn lẻ bầy kêu sương .
TN.
(Thân tặng các Bà có chồng đã bỏ thân nơi đất Bắc)
Tôi không bao giờ quên một cảnh tượng buồn ãm đạm khi chứng kiến hình ảnh của anh em tù cải tạo với vẻ mặt trầm buồn đẩy xác chết của cố Trung tá Tôn, cựu Phó trưởng phòng Nhì. Quân đoàn III ở Biên Hoà. Thân xác ông Tôn được lịm vào một quan tài đóng bằng bốn tấm ván gỗ thô sơ. Anh em tù đã đẩy quan tài của ông Tôn trên một chiếc xe cải tiến (loại xe bò trong Nam, nhưng nhỏ hơn), đi trên con đường dốc lúc chiều sẫm tối và chôn ông trên triền núi khi trời đang lất phất mưa. Cố Trung tá Tôn đã bỏ mình sau khi ông bị nhốt vào hầm tối vài ngày vì ông đã trốn trại mấy hôm thì bị nhân dân du kích của cộng sản bắt ông lại. Tôi nghĩ là ông bị bọn bộ đội ác ôn siết cổ chết rồi lên tiếng là ông Tôn thắt cổ tự sát, vì cái hầm tối mà chúng nhốt tù nhỏ như một cái huyệt đào sâu trên triền đồi làm sao mà dễ dàng dùng dây treo cổ được.
Những hơi thuốc lào sưởi ấm lòng tù.
Tội nghiệp cho những ông tù cao niên, họ ngủ rất ít vì lạnh quá không ngủ được. Giữa đêm khuya các ông thường hay ngồi bên cạnh đóng củi lửa đỏ cháy bập bùng giữa hai hàng sạp tre để sưởi ấm cho tù. Nhưng có thấm vào đâu vì anh em tù ngủ trong những dảy nhà tranh không kín đáo đối với cái lạnh và gió buốt của miền rừng núi hoang vu thường thổi lòn qua khe lá. Tôi còn nhớ mãi và sẽ không bao giờ quên được hình dáng của cựu Trung tá Đ… và vài ông nữa, tuổi bằng cha chú của chúng tôi lúc đó. Mình các ông quấn mền, đầu trùm khăn và mặt mày che kín mít chỉ còn thấy lộ đôi mắt sâu hỏm để nhìn thấy, còn chừa ra lỗ mũi để thở và đôi môi tím ngắt lâu lâu hít vài hơi thuốc lào cho đỡ lạnh. Mỗi lần tôi thức dậy vì cần ra ngoài cho vấn đề cá nhân, tôi trông thấy hình dáng của mấy ông thật là buồn não nề. Nếu tôi là hoạ sĩ tôi sẽ vẽ lại một bức tranh bất hủ của cái cảnh mờ mờ ảo ảo giữa đêm khuya với những hình dáng gầy đét xanh xao thật đáng thương của mấy ông nầy. Tôi xin ghi vài câu thơ đơn giản tả cảnh tượng buồn thê thảm ấy để gợi nhớ cảnh sống rất cùng cực của anh em tù ngoài Yên Bái :
Ngồi bên ánh lửa bập bùng
Lòng
ta đau đớn nhớ thương quê nhà !
Ngoài
kia suối chảy triền miên,
Đêm
nay mưa nhẹ, gió hiu hắt buồn !
Gío đưa những giọt mưa phùn,
Như
dòng nước mắt khóc tù xót xa !
Trăng
đầy trăng khuyết em ơi !
Còn
bao lâu nữa thấy con, vợ hiền ?!
TN
Sau khi chúng ta đã rời trại tù miền Bắc, những ai vì già yếu bịnh tật được thả sớm hơn, rồi kẻ vượt biên, người thì chờ đi diện HO hay đoàn tụ. Bây giờ chúng ta sống rải rác khắp bốn phương trời rất ít khi gặp lại, một số còn sức khoẻ gia nhập vào các hội đoàn hoạt động cộng đồng chống cộng hoặc cứu trợ tanh em thương phế binh bên nhà và tham gia nhiều công việc thiện nguyện khác v v…Thỉnh thoảng nghe tin buồn là người nầy ra đi một cách đột ngột vì lý do bịnh ngặt nghèo, người thì mang phải bịnh không thể cứu chửa và nằm nhà hoặc nơi viện dưởng lão để chờ chết. Một số trở thành phế nhân và cố lê lết quảng đời còn lại nơi xứ người buồn thật là buồn !.
Nhân mùa Đông đến trời đang mưa lạnh và buồn lắm, tôi vừa viết xong thêm vài trang hồi ký và xin chia sẻ cùng anh em chiến hữu và quý vị vài kỷ niệm hãi hùng trong các trại tù nơi rừng thiêng nước độc của miền núi hoang vu Yên Bái, Bắc Việt. Tôi xin có đôi lời thăm hỏi những bạn tù cùng chung cảnh ngộ còn đang sống cuộc đời tỵ nạn khắp nơi và thân mến chúc nhiều sức khoẻ để vui hưởng với con cháu trong những chuỗi ngày còn lai.
Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những người bạn tù đã bỏ thân nơi đất Bắc. Không gì khổ và nhục cho bằng đời sống tù với bọn cộng sản. Có câu: Nhứt nhựt tại tù bằng thiên thu tại ngoại, nhưng tôi nghĩ: một ngày tù với bọn cộng sản VN bằng trăm cái thiên thu !
Nguyễn
Minh Châu
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết