Với bút
hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài
“Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính
thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác
giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Sau đây là bài
viết mới nhất của ông.
tự do
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù
năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành
bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù
trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở
Hà Nội mà cũng đi tị nạn à...?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi,
...nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn
thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và
2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản
trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành
thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà
Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có
người vì tò mò, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn
viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ,
và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền
Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được
những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo
cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản,
tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam,
bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc
tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là
...Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà
Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di
cư.
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời,
tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt
Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai
ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi,
không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một
hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng
bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một
đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn
ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán.
Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh,
leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn ...
Tới cầu Long Biên tức
là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi,
quắc mắt nhìn tôi, “Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư
tưởng!” Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành
tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm,
“ngoại ngữ cộng sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ... tiêu diệt giai
cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong
tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban
hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre,
phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà
Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi
vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ
Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong
mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em
phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới
mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà
Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối
cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập
thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học,
mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động
phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng... đốt sách! Tôi đã phải nhồi
nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ,
nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng
Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô
khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết
của Tự Lực Văn Ðoàn là ... “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê
bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học. Chiếc radio
Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi
bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem,
phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép
thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ
bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, ...đi tù!
Tết đầu tiên sau
“tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ
mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn”
kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu
hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”.
Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước
bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền
Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng
của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”,
để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót
bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề
ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống
“tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo,
nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám
gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy
ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt
chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết
hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”. Lý do giết chó,
nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải
tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm
vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi
người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp”
một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “
thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có
ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối
tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm sào ruộng
đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”! Giáo sư
Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy
lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư
vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ”
và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi
là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”,
“truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày
tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải
cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt
học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập,
bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn
ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”,
“vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực”
“tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt
mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân ...” là vậy!
“Bần cố nông” cắm
biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”,
“làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được
điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi
đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn
áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối,
vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế
độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn:
“How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền Bắc, thời đại Hồ
chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào? Dù làm nghề bơm xe, vá lốp,
người ta trả lời, “...rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào
mừng... các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông
Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên
phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày,
đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà
lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như
báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân,
bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người
Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”! Ðối xử lọc lừa, gia đình,
bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đã
mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán
“tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi
đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy
An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà
Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ
sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa
tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng
nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt
Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong
Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo
“định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên
nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội,
vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut.
Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp”
trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa
đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay
đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ
gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan
Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn
tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu
tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa
hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan
giấc mơ Tình nghệ sĩ!
Người già Hà Nội chết
dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời
Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ
còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng
... nói dối!
Tôi may mắn sống sót,
dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành
người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ
khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao
khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải
phòng, vùng biển.
Hải phòng là cơ hội “ngàn
năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống
Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền
nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài
Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải
lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc
trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ,
cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố”
cai trị.
Dân chúng miền Nam
“vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp
cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng
Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường
ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh
Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố,
mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức
thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên,
kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc”
với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những
dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột
điện mà biết đi....”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi,
tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói
tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở
Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang
thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý
lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào
“công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm
lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng
ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật
hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân
quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi
xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản
sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ
khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng
“diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật
tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ ...!
------------------------------------------------------
Người Tìm Tự Do và Tượng Thần Tự Do
Tôi đến New York năm 1986, vào dịp kỷ niệm 100 năm tượng thần
Tự Do uy nghi, kiêu hãnh trên hòn đảo Tự Do (Liberty Island) của nước Mỹ.
Khu Mahattan với
những tòa nhà chọc trời, ngước mắt trông lên, cảm thấy mình nhỏ bé. Khách
du lịch ngỡ ngàng nhìn ngó khắp nơi, thán phục nước Mỹ tự do có tượng thần
Tự Do.
Theo dòng người, tôi
bắt đầu từ Battery Park, quẹo vào Castle Clinton, xưa là pháo đài chống
quân Anh, nay là nơi bán vé ferry (phà).
Qua cửa Castle là ra
bờ biển đợi phà. Xa xa, nhìn thấy tượng thần giơ cao ngọn đuốc Tự Do trên
làn sóng nhấp nhô của Đại Tây Dương bát ngát.
Tượng thần Tự Do là
thần tượng của di dân tứ xứ, người mất tự do trên trái đất này tìm tới nước
Mỹ tị nạn. Ai cũng biết tượng thần Tự Do với tên Statue of Liberty, dễ nhớ,
không dài như tên nguyên thủy là Liberty Enlighting the World.
Thời gian chờ đợi
xuống phà, đây đó vài người thầm lặng suy tư. Đó là những người mới tới Mỹ.
Ngồi bên gốc cây, gió hiu hiu, xào xạc lá, tôi nhìn ra đại dương bao la nhớ
lại mảnh đời dĩ vãng.
*
Tôi lớn lên tại Hànội, được ăn học đầy đủ trước khi khôn lớn.
Năm 14 tuổi, tôi học trường Văn Hóa, ngôi trường định mệnh, sát Hỏa Lò, góc
phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Thầy dạy Anh văn, ông Nguyễn Khang, có dáng tài tử
xi nê hơn là thầy giáo, ngoài dạy học còn làm ở phòng Thông tin Mỹ, phố
Tràng Tiền.
Năm 1953, phó tổng thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Hànội, đã đến thăm
trường tôi do thầy Khang mời.
Ngồi bàn đầu và là
học sinh giỏi, thầy bảo tôi đại diện lớp. Sau khi bắt tay trả lời ông
Nixon "I am fine, thank you", thầy vui, ông Nixon hài lòng, tôi
được nhận quà tặng là một post card tượng thần Tự Do. Sau này vì tấm
post card, tôi bị vào xà lim số 8 Hỏa Lò Hànội, dù chẳng ai biết ông Nixon
đã tặng tôi.
Tôi đã tìm được tự do sau 28 năm đọa đày từ khi đất nước chia đôi, khi bức
màn tre che kín miền Bắc, tăm tối âm u.
Cha tôi làm chủ một
hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính
quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại
do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó.
Đỗ Mười về tiếp thu
Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một
tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả
nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong
các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.
Đấu tố, cải tạo, chửi
rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản
còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là
"Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do".
17 tuổi tôi đi tìm tự
do, bị bắt. Chiếc thuyền vượt tuyến giạt vào bờ bắc vĩ tuyến 17. Trải
qua 11 trại giam, tôi bị giong về Hỏa Lò Hà Nội, trong xà lim số 8, mỗi xà
lim giam một người. Văn nghệ sĩ Nhân Văn-Giai Phẩm chật cứng 4 dãy xà
lim.
Biệt giam, tra hỏi,
ép cung, làm sao tôi trả lời được những câu hỏi về chính trị lúc tôi còn
nhỏ!
Từ trường học sang Hoả Lò, tôi chỉ còn nung nấu trong đầu hai tiếng Tự Do.
Tôi sẽ đi tìm Tự Do suốt cuộc đời này! Từ đó tôi mang cái
"mác": Trốn vào Nam theo địch, rồi dần dần thêm từng dòng
"Âm mưu lật đổ chính quyền, phản động, làm tay sai CIA".
Lý lịch như vậy, sống
trong thời điểm khốc liệt nhất của cộng sản Việt Nam, đời tôi còn quãng dài
oan nghiệt. Tôi đã lên rừng, xuống biển, sang biên giới Việt Lào, vào
miền trung để vượt tuyến vào Nam. Những tháng năm tù tội làm
tôi hiểu cặn kẽ về cộng sản. Điều cha tôi đau khổ nói trước khi chết
"Cha đã bị lừa..." nay tôi mới hiểu hết.
Năm 1981, tôi vượt
biển lần thứ hai, bằng thuyền buồm đánh cá của một gia đình nghề
chài, đi từ Hải phòng tới HongKong sau 26 ngày sóng gió. Định cư tại Mỹ năm
1982, tôi đã tìm thấy Tự Do .
Mãi suy tư nên lỡ
chuyến ferry, phải đợi thêm nửa giờ, chuyến tới. Tôi không bận tâm vì chờ
đợi, tôi đã đợi chờ gần nửa đời người, ba mươi phút chỉ là khoảnh
khắc .
Sầu tủi đã trôi
đi, chỉ còn vui tươi, hạnh phúc. Tôi còn có thể đợi chờ ngày vui
tươi, hạnh phúc trên quê hương không còn cộng sản.
*
Xuống ferry (phà), mũi tầu chiếu thẳng Liberty Island, mươi
phút, nhìn phía sau, khu Manhattan lô nhô nhà chọc trời mờ dần trong nắng
chiều New York, trời xanh lơ không một bóng mây mù. Xa xa, những con tầu lướt
sóng, những cánh buồm nhiều mầu sắc đu đưa khiến tôi, trong giây phút, liên
tưởng đến hàng trăm tầu thuyền tới cảng, một ngày tị nạn của người Việt
Nam.
Trên ferry người
người, tay bắt tay, chào hỏi nhau, mặt rạng rỡ niềm tin, nụ cười chia xẻ.
Người ta nói với nhau bằng nhiều thứ tiếng, hiểu nhau bằng chỉ trỏ.
Những con hải âu bay lượn
quanh phà, mấy em bé ngây thơ tung mẩu bánh mì cho chim sà xuống, đôi cánh
trắng vẫy chào.
Phà vào bến, tôi bước
lên bờ, thêm kích thích vì cảnh tượng trên đảo. Trước hết là tượng thần Tự
Do cao lừng lững trên một building tức là phần bệ đá. Người xếp hàng thành
hai cánh cung bao bọc cột cờ, dựng trên sân gạch hình tròn.
Theo mũi tên và đường
dây căng, mất thêm ba phút mới vào được tới bệ, rồi vào khu bảo tàng, giới
thiệu công trình trùng tu năm 1980, kiến trúc và lịch sử tượng thần Tự Do.
Cô gái Á đông xinh đẹp, tươi cười chào mọi người và kể chuyện. Tôi
dừng lại đây lâu hơn một chút, không hiểu hết những gì cô nói, nhưng nhìn sơ
đồ, thống kê tài liệu, biết được nhiều điều về pho tượng hình phụ nữ mặc áo
choàng này.
Tượng thần Tự Do hoàn thành năm 1876, do nhà điêu khắc Frederic Auguste
Bartholdi tạo hình, cùng kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng,
là món quà của người Pháp tặng nước Mỹ.
Tính từ mặt đất,
tượng cao 305 feet (92,99 m), riêng thân tượng cao 151feet (46,50 m)
. Bên trong có hai lối lên đỉnh tượng: cầu thang máy lên hết phần bệ
đá, cho người già hoặc ai không thích leo từng bậc thang (192 bậc). Còn
leo từ đầu, cả thảy 354 bậc thang xoắn ốc. Đầu tượng đội chiếc nón có
7 cánh nhọn xòe ra, tượng trưng cho biển và lục địa ( thời đó chưa
biết 5 châu, bốn biển, mới có 7). Vành nón có 25 cửa sổ, đại diện cho 25
viên kim cương quí tìm được trên trái đất. Tay mặt thần giơ cao ngọn đuốc,
đêm đêm rực sáng, tay trái giữ tấm bảng trông như quyển sách ghi chữ số La
Mã: "July 4th, 1776", ngày thành lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ta
quen gọi là Mỹ.
Rất ít người dùng
thang máy, đa số leo thang bậc lên tới vành nón, chặng cuối của hành trình.
Tôi thận trọng bước lên bậc thang thứ nhất, lòng hân hoan khó tả. Mỗi
bước leo lên vòng thang xoắn ốc, tới khoảng giữa thân tượng, cảm thấy
như vào động tiên.
Ánh đèn mờ ảo phản
chiếu bộ khung sắt chằng chịt, đủ sáng cho ta leo lên, càng cao, phần tượng
nhỏ dần vì sắp tới đầu. Bậc thang chỉ vừa một người nên không chen
lấn. Trên tôi là cô gái gốc Poland (Balan), tóc vàng óng ánh, người
sau tôi là đàn bà Phi châu, trang sức, váy chùng sặc sỡ. Chỉ có
tiếng rì rầm vọng từ vách tượng như tiếng kinh cầu bí ẩn. Dòng người
lên, xuống như đàn kiến vòng vèo, êm ả trong không khí dịu mát của máy điều
hòa nhiệt độ.
Từ cửa sổ vành nón
tượng thần, tôi nhìn ra cánh tay thần Tự Do giơ cao ngọn đuốc soi
sáng tinh thần Tự Do cho nhân loại, và rồi nhìn ra Đại tây Dương, nghìn
trùng xa cách, nửa vòng trái đất là nước Việt Nam của tôi chưa có Tự Do.
Chuyến phà về, trở
lại Manhattan, trời chiều lắng dịu. Trên phà cũng lắng dịu tiếng người như
để tận hưởng một ngày ý nghĩa trong đời là đến tượng thần Tự Do, ghi lại
bằng nhiều tấm hình kỷ niệm.
Người trèo lên đỉnh núi Himalaya hoặc theo khí cầu bay vòng quanh thế giới
để lập một kỷ lục, tôi leo lên đỉnh tượng thần Tự Do để trọn vẹn một ước mơ
từ nhỏ.
Hòa nhập vào dòng
người New York, tôi đi nốt quãng đời yên vui còn lại của một
người đi tìm Tự Do, tìm được Tự Do trên đất Mỹ.
------------------------------------------------------
Bản Tình Ca Của Một Người Tị Nạn
tự truyện tìm Tự Do
của tác giả Nguyễn Văn Luận
*
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi
lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do.
Lần tới gần sông Bến Hải,
đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh
đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca
ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:
"...sông Bến Hải
là nơi chia cắt đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"
Tôi đứng đó chơi vơi định
hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong
cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối
xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối
về lại địa ngục trần gian.
Mười chín tuổi, lao
tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì
chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam.
Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay,
không hy vọng có đám cưới đời mình.
Bạo quyền cộng sản
Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn
người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời
gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng
khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"
Hai mươi lăm năm sau (1981)
tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời,
tôi thành người tị nạn cộng sản.
Ngày tiếp kiến phái
đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột
nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run
run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).
Ông gật đầu hiểu cả tiếng
Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
*
Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong
Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi
sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất
nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản.
Đứa bé chừng 5, 6
tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp
giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn
tôi.
Tiếng trẻ thơ kêu
"Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình
của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói.
Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn
đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Chồng Mai là người
lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương.
Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa
phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm
1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay
cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm mưa bão, Mai
bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh
nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà
Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981.
Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"!
Tôi mang nặng tủi
nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương
đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng
chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn
trường, đi Mỹ.
Con đã có Má, có Ba.
Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các
chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba
sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở
bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!".
Mai đã nhất định
không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù
bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng
trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản.
Quê hương mới của
chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc
giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới
Mỹ.
Lúc tôi khôn lớn,
không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi
hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon
bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân
chính"!
Nhìn con ngon giấc
ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những
dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học
tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang
Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư",
theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ
tháng thứ hai".
Việc đơn giản là tại
sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ
nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại
suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị
nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để lòng
vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ
chẳng nên người .
Một sáng mùa Xuân,
"bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa
bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng
trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào,
mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói.
Bà Jenny hiểu chút ít
về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà
đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà
thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm
tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn
cho gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn
kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi đi
nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu
tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu
quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà
Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ
baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ
chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.
"Từ nay chúng
mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận
"Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày
Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
Sống một mình trong
căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời
"cả nhà" sang ăn turkey.
Bé Nam lên bảy, đi
học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi
nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng
bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng
nói: "Má... let me do it!".
Nghe tiếng
"Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng
khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con
dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc
cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh
thành, dưỡng dục.
Bà suy nghĩ mấy ngày,
bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm
Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy
trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói
được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt
giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn
bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày,
làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt
danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng
Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con.
Cũng như Má Jen, Mai không
thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán
phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla,
mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý.
Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân.
Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.
Tôi làm technician, ngành
điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà
nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm
trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ, ngồi trước
máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông
tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng
ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật
sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng
mình đi New York thăm con".
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai là tương lai
của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước
vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc
trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New
York.
Ngày con ra trường là
ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của
Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người.*
Lâu lắm rồi, tôi mới
có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se
lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất
vọng mà tin tưởng vào tương lai.
Người cộng sản muốn
làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì
sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã chết.
Thoát kiếp lưu đày
làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa,
giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia . Việt Nam, từ tinh
thần đến lãnh thổ.
Người lính chiến Cộng
Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để
sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ
vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô
tội.
Người lính của miền
Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng
vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn
Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính chiến.
Anh đã để lại Con Thơ
cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành,
mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để
được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa.
Đã quá nửa đêm về
sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới
Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh
bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng.
Cuộc sống an vui.
Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi
ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
tudo NGUYỄN VĂN LUẬN
9/2000
|
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết