Monday, July 1, 2013

Thư số 21 gởi:Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


 

 

 

 

                                            

 

                                                    Thư số 21 gởi:

                                                    Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam                                                                                                                              Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa  mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này tôi mời Các Anh nhìn vào điều mà lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn ‘”hãy quên quá khứ mà hòa giải hòa hợp”. Vì vậy mà từ năm 2003, lãnh đạo Các Anh chia nhau ra hải ngoại -nhất là Hoa Kỳ- tìm mọi cách chiêu dụ để khống chế Cộng Đồng chúng tôi vào vòng tay tàn bạo của họ! Thật là ghê tởm!

Lãnh đạo cộng sản chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản.

Chắc Các Anh chưa quên là khi lãnh đạo CSVN xua toàn lực đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi vào cuối tháng 4/1975, thì từ đó cả hệ thống truyền thông của đảng ra rả hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, hết năm này sang năm khác, họ miệt thị chúng tôi dưới những nhóm chữ “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh, bọn rác rưởi cặn bả của xã hội, ..v..v...” Họ dùng tất cả những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng. Lúc bấy giờ lãnh đạo Các Anh, luôn miệng ngạo mạn cứ như cộng sản quốc tế sắp nắm quyền bá chủ thế giới vậy. Họ tranh nhau cướp đoạt tài sản quốc gia và tài sản người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ.

Rồi “nhờ những Nghị Quyết đúng đắn” của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, mà chỉ 10 năm sau khi hoàn thành cuộc xâm lăng, họ đã đẩy toàn dân Việt Nam xuống đến tận đáy của lạc hậu nghèo khổ. Hóa ra ở đó là xã hội chủ nghĩa, đúng như họ luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Người tự do chúng tôi gọi là “lùi xuống” nhưng lãnh đạo Các Anh nói là “tiến lên”. Thôi thì cứ gọi là tiến lên cũng được, nhưng tại sao khi “tiến đến xã hội chủ nghĩa” thì lãnh đạo Các Anh vội vã tìm đường ra hài ngoại cầu cạnh thế giới tự do nhất là Hoa Kỳ, một quốc gia mà họ từng mạnh miệng nguyển rủa “Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”. Câu này trong bài học số 1 có tên là “Đế quốc Mỹ, kẻ thù số 1 của Việt Nam” mà tên Thượng Tá Bình của Bộ Công An, từ Hà Nội vào trại tập trung Long Giao bắt buộc anh em chúng tôi “học 10 bài chính trị” hồi tháng 8/1975, chớ hổng phải tôi nghĩ ra à nghe. Mà lạ thật, “tên đế quốc đầu sỏ Hoa Kỳ giãy chết từ những năm 1970”  mà 20, 30 năm sau chẳng những chưa chết, lại còn phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, nhất là lãnh vực khoa học kỹ thuật.

Giá mà “bác Hồ” Các Anh còn sống đến bây giờ để tận mắt nhìn thấy bộ mặt Hồ Chí Minh của ổng: Tham nhũng từ trên chót vót xuống đến làng xã. Công An thì móc ngoặc khắp phố phường đến tận cùng ngóc ngách xã hội. Còn “các cháu ngoan” của ổng đang lãnh đạo thì bằng cấp giả là kiến thức của họ, nhưng ăn chơi sa đọa và hiếp đáp dân lành thì thế giới tự do phải chào thua. Hồ Chí Minh thì lưu manh đỉ điếm với côn đồ cướp giựt ngày đêm. Hằng trăm cơ sở môi giới đã bán hơn nửa triệu cô gái Việt Nam sang các xứ lân bang làm vợ mọi người. ..v..v... Thấy được tận mắt những điều mà đám đàn em của ổng thực hiện chính sách trăm năm trồng người mà ổng đẻ ra từ hơn nửa thế kỷ trước, chắc “bác” Các Anh mừng lắm.

Bây giờ Các Anh theo tôi để biết lãnh đạo Các Anh hô hào chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản “khép lại quá khứ mà đoàn kết với họ” như thế nào?

Năm 2003.

Ông Nguyễn Đình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao, dẫn một phái đoàn sang Hoa Kỳ  tiếp xúc với người Mỹ gốc Việt tại Washington DC, vào ngày 13/6/2003 tại Ngân Hàng Thế Giới thào luận về kinh tế, và ngày 14/6/2003 tại trường đại học Johns Hopkins thảo luận về chính trị. Số người Việt tham dự tại mỗi nơi là 12 người, nhưng không phải cộng lại thành 24 vì có một số vịi tham dự cả hai buổi. Ông Nguyễn Đình Bin, mở đầu buổi tiếp xúc mà giáo sư Nguyễn Quốc Khải nói là “đối thoại”:

“Đoàn đại biểu sang Hoa Kỳ với hai nhiệm vụ: Thứ nhất. Tiếp tục làm việc với chánh quyền Hoa Kỳ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Thứ hai. Tiếp xúc với các người Mỹ gốc Việt, hoặc là người Việt đang làm ăn sinh sống ở Hoa Kỳ. Theo con số thống kê sơ bộ thì có khoảng 2 triệu 7 hay 2 triệu 800 ngàn, đang làm ăn sinh sống tại 90 quốc gia có nền kinh tế khoa học công nghệ tiên tiến .... . Lần đầu tiên, hội nghị trung ương lần 7 ra nghị quyết về đại đoàn kết dân tộc. Những người Việt đang sinh sống và làm việc tại hải ngoại, được đất nước vẫn coi là một phần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy về đầu tư kinh tế trong nước của người Việt hải ngoại chưa bao nhiêu, nhưng điều quan trọng  hơn cả là chất xám và trí tuệ, và những hiểu biết những kinh nghiệm của các chuyên viên ở nước ngoài,  hiện nay phải nói là cực kỳ quí....”

Các Anh thấy chưa, sau những năm sống trong ảo tưởng “cộng sản sắp thống trị thế giới”, bỗng chợt tỉnh khi cộng sản Liên Sô - thànhtrì vững chắc của chủ nghĩa xã hội sụp đổ- lãnh đạo Các Anh buộc phải nhìn nhận sự thật về sức sống của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại về kinh tế tài chánh, trình độ giáo dục, khoa học kỹ thuật, và vận động chính trị. Bộ Chính Trị cộng sản đành phải cúi mặt khi ra nghị quyết kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản đoàn kết với cộng sản. Lãnh đạo Các Anh “muốn nói chuyện” với người tự do chúng tôi, mà vẫn cứ như đang nói với “những thần dân” xã hội chủ nghĩa vậy

Năm 2004.

Nghị Quyết 36. Ngày 26/3/2994, lãnh đạo CSVN phổ biến Nghị Quyết số 36, qui định một chính sách toàn diện đối với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Tại Hải Ngoại, mà họ gọi là “những người Việt Nam ở nước ngoài”.

Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời,là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc....”.

Trong số Các Anh, tôi tin là có những anh có cơ hội ra hải ngoại nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, đều biết Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản, chỉ trang bị một tư tưởng dân chủ tự do, một kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến, một hệ thống truyền thông toàn cầu, và một tinh thần trách nhiệm với quê hương Việt Nam cội nguồn, chớ không trang bị bất cứ loại vũ khí giết người nào cả. Vậy mà lãnh đạo Các Anh lại tập trung toàn bộ hệ thống chính trị và toàn quân toàn dân, chỉ vì điểm căn bản đầu tiên của Nghị Quyết nhận ra “Người Việt Nam ở nước ngoài ....là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Họ nói họ cần khối trí thức hải ngoại, nhưng trong bản chất của cộng sản thì người trí thức không có giá trị gì cả, và trong thực tế từ Nga Cộng, Trung Cộng, Cu Ba Cộng, đến Việt Cộng, đâu có sử dụng người trí thức chân chánh. Họ dùng dối trá để che đậy điều họ cần là khối tài chánh cho riêng họ, và khối trí thức phải dưới quyền khống chế của họ.  

Năm 2005.

Ký giả Thạch Anh phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CSVN. Đây là cuộc phỏng vấn giữa người cộng sản với nhau, để ông Kiệt có cơ hội nói lên những ưu tư mà ông ta gọi là “bức xúc” trước thời cuộc. Ký giả Thạch Anh mở đầu với nhóm chữ: “Nhân dịp 30 năm, ngày đất nước liền một dãi từ Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cáy,…” 

Các Anh hiểu rồi chớ? Anh ký giả này không dùng nhóm chữ “nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” như ghi chép trong sử sách Việt Nam, mà anh ta dùng nhóm chữ “từ Cà Mau đến Móng Cáy”, vì  lãnh đạo của anh ký giả này đã cắt Ải Nam Quan dâng cho lãnh đạo Trung Cộng từ lâu rồi,  còn đâu nữa mà nói!

Và anh ta hỏi ông Kiệt: “Thưa ông, thấm thoát đã 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại , ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?”

Ông Kiệt: “Suy nghĩ của tôi là chiến tranh đã qua cách đây đã mấy chục năm, chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong cho chiến tranh thật sự phải thuộc về quá khứ, một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại....”.

Tôi có thư ngỏ gởi cho ông ta để hòi một câu: “Ai có trách nhiệm khép lại cái quá khứ đó? Chẳng lẽ Cộng Đồng hải ngoại chúng tôi?  Chính các ông, phải có trách nhiệm khép lại, bằng cách làm ngược lại những gì mà các ông đã làm từ sau ngày 30/4/1975 đối với tất cả người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ....”.

Cũng trong năm 2005, ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng CSVN công du Hoa Kỳ một tuần kể từ 19/6/2005. Trước khi rời Việt Nam, trong bản tin đài BBC và đài RFI ngày 19 và 20/6/2005, trong phần trả lời của ông Khải, có câu: “... tôi sẳn lòng khép lại quá khứ để nhìn về tương lai …”. Tôi cũng có thư ngỏ gởi ông Khải và cũng nêu câu hỏi như tôi đã hòi ông Kiệt. ..

Năm 2007.

Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước đến Hoa Kỳ ngày 18/6/2007. Tôi gởi ông hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Có đoạn: “.... Thứ nhất. Trên báo Đàn Chim Việt Online ngày 15/6/2007, có bài phỏng vấn của Vietnamnet dành cho ông Chủ Tịch. Trong những câu trả lời của ổng, có câu: “… Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn coi trọng Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, là máu của máu Việt Nam…” Trong một đoạn sau đó, ông nói: “Cộng Đồng người Việt ở nước ngoài là khúc ruột ly hương ngàn dặm….” 

Lúc ấy tôi gởi ông Nguyễn Minh Triết hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Trong thư có đoạn: “... Tôi không hiểu tại sao đến nay là 32 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, ông và “đồng chí” của ông trong Bộ Chính Trị, cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, hãy quên cái quá khứ kinh hoàng của mình để đoàn kết giúp các ông có uy tín với thế giới mà ông nói là xây dựng đất nước? Về phần tôi, tôi không hận thù các ông dù tôi bị đày trong các trại tập trung hơn 12 năm, nhưng tôi không bao giờ quên cái quá khứ mà ông và các “đồng chí” của ông đã xén phần đất “trên đầu tổ quốc” và xén “một bên tai” của quê hương dâng cho Trung Cộng, biến “mảng da đầu” của đất nước trở nên lởm chởm chưa từng có trong lịch ngàn năm chống vua quan phong kiến Trung Hoa. Chưa hết, các ông đã đối xử quá dã man tàn bạo với người dân Việt từ thể xác đến tinh thần! Cũng các ông, suốt 20 năm từ năm 1975, đã sử dụng hệ thống truyền thông để sỉ nhục và miệt thị Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản, sao bây giờ ông ra cái điều như là người cộng sản tử tế khi gọi chúng tôi là khúc ruột ly hương ngàn dặm? Khi là đảng viên cộng sản thì các ông đã vứt bỏ tên tuổi mà chấp tên của đảng đặt cho, vứt bỏ mẹ cha mà chấp nhận chỉ có “bác” với đảng, vứt bỏ tinh thần dân tộc mà chấp nhận tinh thần cộng sản quốc tế đặt trên ảo tưởng thống trị thế giới”. Như vậy, làm quái gì có người cộng sản tử tế trên quê hương cội nguồn của dân tộc Việt Nam ......” . Thật rõ ràng, người cộng sản là cộng sản, người tử tế là tử tế, không có sự pha trộn hay trở thành nào giữa hai người ấy.            

Năm 2008.

Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng CSVN cùng phái đoàn gần 100 người  đến Hoa Kỳ. Buổi họp trong khách sạn Hilton tại Houston ngày 26/6/2008, với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, ông Thủ Tướng Dũng cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn....”

Các Anh thấy không, sau khi ban hành Nghị Quyết 36 thì hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác sang Hoa Kỳ, vừa du lịch miễn phí trên đất nước giãy chết từ mấy chục năm trước nhưng lại phát triển vượt bực, vừa cầu cạnh Hoa Kỳ để có đầu tư ngoại quốc với kỹ thuật tân tiến, vừa chiêu dụ Cộng Đồng gồm những người mà họ đã liên tục chửi rủa hằng chục năm trước. Với lãnh đạo cộng sản, khi không cần thì mạt sát miệt thị, khi cần  thì họ vừa nâng vừa bợ trong mục đích khống chế Cộng Đồng tị nạn cộng sản. “Liệu có phải mục đích của họ là để hưởng “những khúc ruột già của Cộng Đồng ly hương ngàn dặm chăng?”   

“Đồng chí X của ông Chủ Tịch nước” vẫn còn trong ảo tưởng như mấy chục năm qua khi kêu gọi chúng tôi “đừng mặc cảm quá khứ”. Không biết đến bao giờ ông ta mới tỉnh lại để nhìn thấy Cộng Đồng chúng tôi chẳng những không bao giờ mặc cảm, mà trái lại, chúng tôi rất hãnh diện là một Cộng Đồng không bao giờ quên quê hương cội nguồn của mình, chỉ vì không thể sống dưới chế độ độc tài nghiệt ngã nên phải vượt lên sự chết để tìm đất sống tự do. Dù xa quê hương nhưng luôn gắn bó tình cảm gia đình trong nếp sống đạo nghĩa Việt Nam, mà Cộng Đồng chúng tôi gởi tiền về giúp thân nhân từ năm 1991 với số tiền 31 triệu mỹ kim, dần dần gia tăng và năm 2012 là 10 tỷ mỹ kim. Cộng chung từ 1991 đến 2012, tổng số tiền gởi về trong nước là 70 tỷ 115 triệu mỹ kim (tài liệu của ngân hàng thế giới, ngân hàng Việt Nam, và đài RFA 1/5/2011), chưa kể số tiền những người về thăm thân nhân mang theo. Các Anh phải biết là số tiền này góp phần quan trọng vào tổng sản lượng quốc gia (GDP) hằng năm gia tăng đó.           

Hòa giải và hòa hợp?

Bây giờ là quan điểm của tôi về lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, mà họ phải họp cấp trung ương rồi ban hành Nghị Quyết 36, trong mục đìch huy động toàn bộ tổ chức của quốc gia và bằng mọi phương cách chiêu dụ chúng tôi hãy quên quá khứ, hãy khép lại quá khứ, để chấp nhận sự khống chế của họ. Là một thành viên nhỏ bé li ti trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản, tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện nói đến tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ tháng 4/1975 đến nay (2013), mới có hy vọng Cộng Đồng tị nạn suy nghĩ việc khép lại quá khứ. Việc mà họ làm sai thì không sao kể hết, nhưng theo cách nhìn của tôi thì 5 vấn đề dưới đây mà lãnh đạo Các Anh phải sửa sai đối với Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và vấn đề thứ 6 là lãnh đạo Các Anh phải sửa sai với 90 triệu đồng bào trong nước:

Thứ nhất. Vào những ngày trước và sau ngày 30/4/1975, hằng chục ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang điều trị trong Tổng Y Viện và cả hệ thống Quân Y Viện, lãnh đạo Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi ra lệnh cho Các Anh quẳng anh em thương phế binh chúng tôi ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi họ muốn chúng tôi “hãy quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh  phải bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ đồng thời Bộ Chính Trị phải chánh thức nói lời xin lỗi Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi, do họ sử dụng nhiều nhóm chữ khác nhau để che đậy sự gian trá lọc lừa. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh cướp đoạt, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại cho chủ nhân, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy thích ứng theo thời gian. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua bất cứ cơ quan luật pháp nào khi bắt giam hơn 500.000 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, và những người trong giới kinh doanh thương mãi, dịch vụ, đẩy vào hơn 200 trại tập trung từ nam ra bắc, trong mục đích đày đọa chúng tôi chết dần chết mòn mà họ gọi là “cải tạo”. Nhưng thế giới cộng sản ngày càng suy sụp kinh tế, buộc họ phải thả chúng tôi thì họ mới được thế giới tự do giúp đỡ mà tồn tại. Và hơn trăm người cuối cùng phải 17 năm sau mới ra khỏi trại,  rồi họ muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!  

Thứ tư. Lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nỗi sự kềm kẹp chính trị, nên đành phải vượt lên sự chết để tìm sự sống tự do với cái giá phải trả thật là khủng khiếp! Lúc ấy, họ gọi chúng tôi là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh rác rưởi của xã hội, ..v..v... Thôi thì họ dùng những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng để sỉ vã nhục mạ chúng tôi, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường vật chất lẫn tinh thần cho hằng trăm ngàn gia đình của những người đã chết trên đường vượt biên vượt biển, phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, và rút lại những lời mà họ đã sỉ nhục chúng tôi. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ! 

Thứ năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất quê hương, nhưng với bản chất dã man của lãnh đạo Các Anh đã đào xới mồ mả đ vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh nguyên trạng như trước lúc bị tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!    

Và thứ sáu. Nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau. Như vậy, từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng lãnh đạo Các Anh chỉ dùng chữ “hòa hợp“ mà thực chất chỉ là chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận công bằng và minh bạch. Nhưng tại sao họ dốc toàn lực của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để bám theo chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà lãnh đạo Các Anh không hòa giải và hòa hợp với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ. Quan điểm của tôi như sau:

(1) Cưỡng chế đất. Năm 2010. Theo tài liệu Bộ Tài Nguyên & Môi Trường ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ..”, đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức về đất đai bị cưỡng bách thu hồi. Năm 2011. Bản tin AFP 25/11/2011, một báo cáo v ề tham nhũng trong đất đai do Ngân Hàng Thế Giới, tòa đại sứ Thụy Điển và Đan Mạch tại Hà Nội, thì “Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai mà đền bù thấp, đã dẫn đến những vụ xung đột tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người”. Năm 2012. Sau vụ Tiên Lãng với tiếng súng hoa cải và bom tự chế nổ từ phía người dân bị cưỡng bách thu hồi vào ngày 5/1/2012, rồi tiếng súng lại nổ nhưng không phải từ phía người dân mà từ phía lực lượng cưỡng bách thu hồi đất của 1.244 gia điình nông dân tại Văn Giảng ngày 24/4/2012. Hai nhà báo của truyền thông đảng là Nguyễn Văn Năm và Hàn Phi Long, cũng bị lực lượng cưỡng chế hành hung mang thương tích.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với đồng bào oan ức về đất đai, bằng cách: “(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng & nhà nước. (b) Trả lại quyền tư hữu cho toàn dân như khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa. (c) Bồi thường cho sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã sử dụng suốt thời gian tịch thu trái phép. (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm”.

(2) Đàn áp người yêu nước. Với những cuộc biểu tình của đồng bào yêu nước -nhất là tuổi trẻ- chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo, trong khi lãnh đạo đảng lặng thinh cứ như không nghe không thấy không biết gì hết, nhưng lại thẳng tay trấn áp bằng những hành động loại lưu manh côn đồ, quản chế và bắt bỏ tù. Ngày 17/06/2013, ngày đối thoại nhân quyền Việt Nam-Australia. Dân biểu Chris Hayes, đã lên án tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam với công dân của họ, chỉ trong một năm mà 38 nhà hoạt động ôn hòa cho dân chủ đã bị bắt vào tù.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải và hòa hợp với thành phần dũng cảm đáng trân trọng này, bằng cách: “(a) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà họ bị ghép vào tội hình sự, bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần nhập cho họ trong suốt thời gian bị giam giữ, và chánh thức xin lỗi họ. (b) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (c) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy xua đuổi thậm chí là tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (d) Hủy bỏ Điều 4, cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến quyên dân sự và quyền chính trị của người dân theo Công Ước quốc tế mà họ đã ký thi hành”.

(3) Chia cắt các tôn giáo. Tại sao lãnh đạo Các Anh sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi tổ chức thành “tôn giáo quốc doanh” trong khi họ luôn miệng nói đến đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị như thực dân Pháp sao?  

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với các tôn giáo, bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả. (d) Hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

Nếu lãnh đạo Các Anh hành động được như vậy, tôi tin rằng đồng bào trong nước và Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản sẽ vui lòng suy nghĩ lại cái quá khứ kinh hoàng đó, để tiến đến hòa giải và hòa hợp. Chớ họ nói theo cái ngôn ngữ mà ông Hà Sĩ Phu gọi là thứ “ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội xã hội chủ nghĩa” ngày nay, làm sao người dân trong nước và ngoài nước tin được, nói gì đến cái việc quên quá khứ! Nếu lãnh đạo Các Anh không làm được những điều đó, thì đừng bao giờ kêu gọi trong nước và hải ngoại “quên quá khứ mà đoàn kết với họ”. Rất có thế vào một ngày đẹp trời nào đó, đồng bào trong nước sẽ vùng lên lật đổ họ như người dân các quốc gia Bắc Phi đã vùng lên thành công, và đang vùng lên sắp đạt thành công. Quan điểm của tôi rất rõ ràng, không chứa đựng những gì mà lãnh đạo Các Anh có thể xem là tôi mang lòng thù hận. Và tôi nhấn mạnh rằng, tôi đòi lại, chớ không phải tôi xin họ đâu.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25  năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay,  có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Tại sao 10 năm sau năm 1975, lãnh đạo Các Anh luôn miệng ngạo mạn khi chửi Hoa Kỳ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết ngay tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, cùng lúc chửi rủa miệt thị hằng triệu người vượt biển vượt biển tìm đất sống tự do, mà bây giờ họ lại cúi đầu cầu cạnh Hoa Kỳ cứu giúp, và họ cũng hạ giọng gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản là khúc ruột ly hương ngàn dặm, lại muốn Cộng Đồng này hãy quên quá khứ để đoàn kết với họ?  Và tại sao 30 năm sau năm 1975, người dân luôn tuân phục đảng, nhưng gần 10 năm nay người dân lại chống đảng dữ dội?”   

Trong thực tế, những hành động tội ác của lãnh đạo Các Anh, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, sẽ mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà các nhà viết sử của cộng sản không thể nào bóp méo được. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Và Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?  Tôi mong Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người  Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.  

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

Texas, đầu tháng 7 năm 2013

Phạm Bá Hoa

 

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết