Saturday, September 7, 2013

CHUYỆN DÀI RA ĐẢNG VÀ ĐA ĐẢNG


From: Nguyen Minh <
To:
Sent: Friday, September 6, 2013 3:56 AM
Subject:  Nguyễn Minh Cần: CHUYỆN DÀI RA ĐẢNG VÀ ĐA ĐẢNG

 

 

 

 

CHUYỆN DÀI RA ĐẢNG VÀ ĐA ĐẢNG

(Bài 1)

 

Gần đây, trong nước lại rộ lên những lời bàn tán về chuyện ra Đảng và chuyện đa đảng, nhất là sau khi bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bnh” của Luật gia Lê Hiếu Đằng và bài “Phá xiềng” của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được tung ra.

Người viết những dòng này hoan nghênh hai tác giả vừa nói trên đã gióng lên lời kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-dân chủ. Đáng lẽ, lời kêu gọi thức thời đó phải được tung ra từ rất lâu cơ! Nhưng chẳng sao cả, chậm còn hơn không!

HÃY CAN ĐẢM “XÉT LẠI”...

Để đáp ứng lời kêu gọi thức thời đó của hai ông, thiết nghĩ các đảng viên cộng sản có tư duy độc lập đang còn phân vân cần phải có gan “xét lại” và nhận thức rõ thực trạng của hệ thống chính trị nước ta dưới sự thống trị độc tôn của Đảng cộng sản Việt Nam để xác định cho mình một thái độ dứt khoát với tinh thần trách nhiệm công dân cao.

Để các bạn hiểu rõ tôi hơn khi đọc những dòng trên, tôi xin thưa với các bạn rằng, khi mới 18 tuổi, tôi đã gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương (1946), và cũng đã từng vào sinh ra tử nhiều năm trong cuộc kháng chiến chống Pháp và từng gánh vác nhiều trách nhiệm quan trọng trong Đảng... Đến khi có những ý kiến bất đồng với ban lãnh đạo Đảng hồi cuối những năn 50 đầu những năm 60, tôi cùng với một số cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng bị quy “tội” “xét lại – chống Đảng”. Khi bị truy bức mạnh thì tôi đã rời bỏ Đảng cộng sản (ĐCS) vào lúc 36 tuổi (1964) lúc đang ở nước ngoài.

Suy cho cùng, cái “tội” mà các vị lãnh đạo ĐCS hồi đó đã quy, không biết những người khác nhận thức thế nào, còn đối với riêng tôi thì tôi cho là đúng! Tôi không phủ nhận! Đúng là tôi đã phạm “tội” “xét lại”! Chắc nhiều bạn đã sống cái thời cực kỳ ác liệt những năm 50, 60 thế kỷ trước đều biết cái “tội” “xét lại” hồi đó là đáng sợ lắm, vì Đảng coi “tội” ấy ngang với tội “phản động”, “phản đảng”, “phản quốc”! Thời đó các vị lãnh đạo đánh đồng (và đánh tráo) Đảng với Tổ quốc. Tôi nhận “tội”  “xét lại”, nhưng quyết không nhận “tội” “phản quốc”, bởi lẽ tôi “xét lại” và phát biểu ý kiến với Đảng vì tôi yêu nước, thương dân, vì tôi không muốn Đảng đưa Đất nước và Nhân dân vào những thảm họa.

Làm sao mà không “xét lại” được, khi chính mắt mình thấy hằng trăm, hằng nghìn người dân ở nông thôn bị bắn giết oan uổng trong cải cách ruộng đất? khi thấy hàng nghìn gia đình bị điêu đứng trong cuộc cải tạo công thương nghiệp và thủ công nghiệp ở thành phố? khi thấy cả xã hội bị nghẹt thở vì chính sách quản lý hộ khẩu ngặt nghèo, vì các quyền công dân, quyền con người, các quyền tự do dân chủ bị xóa bỏ? Vậy thì tôi đã “xét lại” gì? Tôi “xét lại” đường lối của Đảng, nhưng trước hết, tôi “xét lại” chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông mà Đảng dùng “làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động”. Cuối cùng, tôi đã phủ nhận những thứ đó. Vì, sau khi đã kiểm nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước Việt Nam, cũng như kiểm nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước đã khai sinh ra phong trào cộng sản quốc tế là Liên Xô, sau khi đã nghiên cứu kỹ càng về mặt lý luận những thứ chủ nghĩa đó, tôi nhận thức sâu sắc rằng những chủ nghĩa đó rất sai lầm và rất nguy hại cho các dân tộc đã áp dụng chúng, kể cả cho dân tộc Việt Nam, và cho toàn nhân loại. Tôi nghĩ rằng, không phải ngẫu nhiên mà Nghị viện châu Âu đã ra Nghị quyết 1481 (2006) lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.

Nói cụ thể hơn: cú đẩy đầu tiên làm tôi phân vân về đường lối của Đảng là những sai lầm nghiêm trọng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956) và thái độ quanh co, giả dối của các lãnh tụ của Đảng trước những sai lầm đó. Còn cú đẩy mạnh nhất là “Nghị quyết 9” (tháng 12 năm 1963) đánh dấu một bước ngoặt căn bản của Đảng cộng sản Việt Nam: đi theo con đường của Đảng cộng sản Trung Quốc,1 tức là đi theo con đường của chủ nghĩa Mao, một thứ chủ nghĩa phiêu lưu vô cùng nguy hại. Từ đó, tôi thấy phải “xét lại” con đường của ĐCSVN, kể từ việc Đảng đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” đến việc ban lãnh đạo Đảng phát động cuộc chiến tranh Bắc Nam hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước.

Tôi cũng không phủ nhận cái “tội” “chống Đảng”, vì khi tôi nghiệm thấy những việc làm thực tế của các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (khi tôi sống ở Việt Nam) và của các lãnh tụ Đảng cộng sản Liên Xô (khi tôi sống ở Nga) thì tôi thấy chế độ chính trị mà các ĐCS đã xây dựng lên để thống trị người dân ở Liên Xô, ở Việt Nam, ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ đều là những chế độ độc tài toàn trị bóp nghẹt mọi quyền tự do của người dân, mọi quyền con người, kìm hãm sự phát triển của xã hội và tạo ra mọi tệ nạn xã hội trầm trọng, như sự dối trá, lừa bịp có hệ thống, nạn tham nhũng tràn lan, v.v... vì thế tôi nhận thức rằng cần phải chống những đảng độc tài toàn trị như thế để bênh vực cho người dân.

Và số phận dun dủi tôi là một người Việt Nam đã tham gia hai cuộc Cách mạng Tháng Tám trong đời mình: cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945) ở Việt Nam lúc tôi mới 17 tuổi, vì ngây thơ về chính trị tôi đã vô ý thức đưa Đảng cộng sản Việt Nam lên nắm chính quyền thống trị Đất nước, và cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1991) ở Nga lúc tôi đã 63 tuổi và là thành viên của tổ chức “Nước Nga Dân chủ”, vì hồi đó tôi nhận thức rõ phải đấu tranh chống lại và hạ bệ Đảng cộng sản Liên Xô xuống để dân Nga và các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết được tự do và tiến theo con đường dân chủ. Hành động đó của tôi rõ ràng là chống ĐCS nhưng tôi không hề cho rằng đó là một “tội”, mà đó là một việc làm chính đáng của một người trung thực có ý thức và thức thời.

Tôi phải kể rõ ràng như vậy để các đảng viên cộng sản còn ở trong Đảng thấy rằng có lắm khi việc “xét lại” dù rất khó khăn nhưng lại là rất cần thiết. Nhận thức của con người là một quá trình liên tục, có khi phải đấu tranh, dằn vặt rất gian khổ, phải kiểm nghiệm, lật đi lật lại nhận thức cũ của mình, vì chân lý  không phải một lúc mà ta đã nhận thức được ngay. Nên đừng e ngại khi thấy cần phải “xét lại” những điều trước đây mình đã tưởng nhầm là chân lý, là lý tưởng. Viết đến đây, chúng tôi xin phép dẫn ra một câu rất sâu sắc của Vaclav Havel, nhà văn, nhà soạn kịch và chiến sĩ dân chủ Czechoslovakia: “Chúng ta sống trong những điều kiện ép buộc con người vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng”2. Đúng như thế, ngày nay, rất nhiều đảng viên ở nhiều ĐCS trên thế giới sau khi “xét lại” và nhận thức rõ sự lầm lạc của mình cũng đã “vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng” và từ bỏ ĐCS. Tôi tin rằng trong số đó không ít người đã phải trải qua những dằn vặt đau đớn giống như tôi. Thế mà họ đã dứt khoát. Vì thế, ở nhiều nước, trước đây ĐCS đông đảo có đến hàng triệu đảng viên nay đã teo lại như “miếng da lừa”, thậm chí ở nhiều nước không còn ĐCS nữa. Đó là một thực tế cần phải thấy!

 

Tôi nghĩ răng rằng, thời điểm này hơn lúc nào hết - khi ĐCSVN đã hoàn toàn biến chất, đang bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tư tưởng, về đường lối, về cán bộ, khi tổ chức của Đảng - nhất là ở thượng tầng - chia rẽ nặng nề, đấu đá nhau vì quyền lợi; khi ĐCS đã đưa Đất nước vào cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo dục, y tế, đạo đức, vào tình trạng xã hội vô cùng tồi tệ - thì chính lúc này, những người cộng sản trung thực còn ở lại trong ĐCSVN hãy nên nghe lời kêu gọi thức thời của hai đảng viên CS kỳ cựu Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận, mà can đảm “xét lại” và quyết định một thái độ rõ ràng, dứt khoát, đầy trách nhiệm công dân. Trước tình trạng Đất nước ngày nay, lẽ nào những con người có lương tri lại có thể thờ ơ, vô cảm?

 

THỰC CHẤT CỦA CHẾ ĐỘ HIỆN NAY

 

Những điều tôi sẽ trình bày sau đây về thực chất cái chế độ mà ĐCSVN đã dựng lên trên Đất nước ta là một chế độ độc tài toàn trị CS cực kỳ khắc nghiệt, có thể nhiều bạn đã biết mà không dám nói ra, nhưng tôi xin phép được nói một lần nữa, đặc biệt cho thế hệ trẻ chưa từng trải lắm được thấu rõ.

 

Mọi người trung thực đều biết: ngay sau khi ĐCSVN cướp được chính quyền hồi tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS khác liền bắt tay xây dựng chế độ toàn trị (totalitarisme), trong đó ĐCS “độc quyền lãnh đạo” (từ ngữ của Lenin – hegemonia), tức là quyền lực của ĐCS độc tôn thống trị đất nước và dân tộc. Nhưng hồi đó, thế và lực của ĐCS còn yếu, nên các lãnh tụ CS phải dùng những thủ đoạn khéo léo che giấu cái chất CS của chế độ. Thậm chí có lúc họ còn giả vờ giải tán ĐCS (11/1946) và cho ra đời hai đảng “bỏ túi” là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội để làm cảnh, hòng đánh lừa dư luận trong nước và thế giới. Họ đặt tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và có khi phải lập “Chính phủ liên hiệp”, mời những quan chức, vài đại biểu các đảng khác, vài nhân sĩ có uy tín dưới chế độ cũ đứng đầu các bộ quan trọng trong chính phủ (như nội vụ, ngoại giao, văn hóa...), nhưng những vị này chỉ “làm vì” chẳng có quyền hành thực tế, mà mọi thực quyền đều nằm trong tay các cán bộ CS.

 

Trái hẳn với những lời kêu gọi tốt đẹp của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, ngay từ khi mới lên cầm quyền, các lãnh tụ CS đã cho thủ tiêu bí mật nhiều lãnh tụ các đảng yêu nước không CS (như Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v...), ngay cả những lãnh tụ đảng cùng ý thức hệ với họ, nhưng không CS (những người trốt-skít) cũng bị giết. Nhiều vị trong hàng giáo phẩm cao cấp, các chức sắc của các tôn giáo bị cô lập, bị bắt đi tù, bị ám hại (như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ...). Ở các địa phương, nhiều người người đã làm việc dưới chế độ cũ bị thủ tiêu hoặc bị tù đày dài hạn không xét xử.

 

Song song với việc xóa bỏ các hội đoàn đã có từ trước, như tổ chức hướng đạo, các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, các tổ chức tôn giáo, các hội từ thiện... ĐCS ra sức phát triển các tổ chức  quần chúng của họ trong mọi giới, công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng... Do vậy, trong một thời gian ngắn, ĐCS đã nắm được toàn bộ xã hội VN trong tay, loại trừ được các đảng phái và tổ chức có thể cạnh tranh quyền lực với họ.

 

Đến khi cuộc kháng chiến bắt đầu, cơ quan đầu não của ĐCS phải rút lên chiến khu, thì ở các vùng gọi là “tự do” (như một số tỉnh ở Khu Bốn, Khu Năm, các vùng chưa bị Pháp chiếm ở những nơi khác), các lãnh tụ CS càng siết chặt chế độ toàn trị của họ. Ở các vùng đó, mọi quyền tự do của dân chúng bị xóa bỏ, lấy lý do vì đang trong thời chiến.

 

Đến năm 1949, khi ĐCS Trung Quốc nắm được chính quyền trên toàn Hoa lục, các lãnh tụ CSVN có được “chỗ dựa vững chắc như dãy Hy-mã-lạp-sơn” (lời ông Trường Chinh, Tổng bí thư ĐCS hồi đó). Và đúng như vậy, dựa vào sự ủng hộ to lớn về mọi mặt của ĐCSTQ, nhất là về mặt quân sự, Trung Cộng đã giúp ĐCSVN giành được thắng lợi trên nhiều chiến dịch, bắt đầu từ chiến dịch Biên giới (1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) dẫn đến việc ký Hiệp định Genève chia nước VN thành hai miền: Bắc và Nam.

 

Tiếp nhận miền Bắc, thế và lực của ĐCS đã mạnh hơn nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng, ĐCSVN công khai ra mắt dân chúng khoác cái tên mới là Đảng Lao động VN (1951), công nhiên tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện cái họ gọi là “chuyên chính dân chủ nhân dân” mà thực chất là chuyên chính vô sản. Ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ CS khác càng siết chặt hơn nữa sự kiểm soát toàn diện cuộc sống của dân chúng, từ kinh tế, đi lại, lao động cho đến tư tưởng, tín ngưỡng. Rập theo khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Cộng, trong thời kỳ này ĐCSVN đã thực hiện chế độ quản lý hộ khẩu rất ngặt nghèo, làm các cuộc “chỉnh huấn”, “phóng tay phát động cải cách ruộng đất” và dựng lên “vụ án Nhân Văn Giai Phẩm”, “vụ án Xét Lại Chống Đảng”... để đàn áp giới trí thức dân chủ trong và ngoài Đảng, gieo rắc sự khiếp sợ trong dân chúng, đè bẹp mọi ý hướng không đồng tình với ĐCS. Trong thời kỳ này, các quyền tự do dân chủ và quyền con người bị chà đạp vô cùng tàn bạo, nhiều trí thức, sinh viên, cán bộ, đảng viên bị cầm tù lâu dài và hàng chục ngàn người dưới chế độ cũ bị bắt nhốt vào các “trại cải tạo” theo nghị quyết 49/NQ/TVQH (20/06/1961) của Thường vụ Quốc hội do ông Trường Chinh ký.

 

Dựa vào sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Cộng, các lãnh tụ CSVN đã tiến  hành cuộc chiến tranh Bắc Nam dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam”. Biết bao xương máu của quân và dân cả hai miền Bắc và Nam đã đổ ra! Biết bao nhiêu triệu thanh niên, nam nữ của cả hai miền Bắc và Nam đã chết tức tưởi trong cuộc chiến tranh huynh đệ này! Đến khi chiếm được miền Nam và xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng hòa, các lãnh tụ CS liền công nhiên đặt cả nước dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCS; đưa khoảng 200 ngàn quân nhân và viên chức dưới chế độ cũ vào tù, có tên là “trại cải tạo”; ngang nhiên “luật hóa” độc quyền ĐCS thống trị đất nước bằng điều 4 Hiến pháp (1980); công nhiên tuyên bố “đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga”; tuyên bố “nắm vững chuyên chính vô sản” để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước; công khai lấy lại tên ĐCSVN; còn tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì bị xóa bỏ mà đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hai “đảng anh em” Dân chủ và Xã hội bị xóa sổ ngay và chế độ chính trị hiển nhiên trở thành “độc đảng” tuyệt đối (còn trước đây cũng là “độc đảng” nhưng có che đậy bằng “chiếc lá nho” hai “đảng anh em”).

 

Kể từ năm 1930, các lãnh tụ CS luôn luôn dùng khẩu hiệu “người cày có ruộng” để lừa mị, lôi kéo nông dân theo ĐCS thì đến năm 1980, họ đưa ra Hiến pháp mới với điều 17 (trong Hiến pháp tiếp sau là điều 19) xóa bỏ quyền tư hữu đất đai của người dân và tuyên bố tất cả ruộng đất chuyển thành cái gọi là “sở hữu toàn dân”, thực tế là tước đoạt toàn bộ ruộng đất của người dân, chủ yếu là của nông dân, biến thành sở hữu của ĐCS để cho cán bộ CS tha hồ thao túng. Đến lúc này thì Tổng bí thư ĐCS nghiễm nhiên đóng vai nguyên thủ quốc gia dù vẫn còn ngôi vị Chủ tịch nước; các chỉ thị, nghị quyết của ĐCS có hiệu lực như các đạo luật; còn Quốc hội do “Đảng cử dân bầu” và các cơ quan nhà nước chỉ là bù nhìn của ĐCS, bình phong che đậy chế độ chuyên chế.

 

Tóm lại, chế độ độc tài toàn trị mà ĐCSVN dựng lên đã 68 năm nay là một cơ chế chính trị bao trùm tất cả và thâm nhập vào mọi mặt hoạt động của xã hội, nó cho phép các lãnh tụ CS quản lý và can thiệp sâu vào đời sống của công dân. Dưới chế độ này, người dân hoàn toàn bị mất quyền tự do, bị nô dịch hóa một cách rất tinh vi, ngay cả suy nghĩ, phát biểu ý kiến, và đời sống nội tâm cũng phải theo chỉ đạo của ĐCS. Trong nước, chỉ có một giai cấp được hưởng tự do và toàn quyền thâu tóm các quyền lợi, đó là tầng lớp các quan chức CS. Bản thân họ và gia đình họ nghiễm nhiên trở thành những nhà tư bản đỏ, những tỷ phú, những địa chủ cường hào như thời xưa. Họ thật sự là giai cấp thống trị trong xã hội.Trong bài “Nghịch lý” Thái Bình - “Nghịch lý’” Việt Nam” viết ngày 15/5/1998 nhân dịp kỷ niệm lần thứ nhất cuộc nổi dậy của nông dân Thái Bình, chúng tôi đã đi đến kết luận: “...Những ‘nghịch lý’ đó nói lên điều gì? Chúng nói lên rằng: cuộc cách mạng nhân dân đã bị phản bội và đại chúng tham gia cuộc cách mạng đó đã bị phản bội.”... “Chính tập đoàn thống trị cùng với giai cấp quan liêu cầm quyền này đã phản bội cuộc cách mạng nhân dân.3.

 

Chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã đem lại vô vàn hậu quả cực kỳ thảm khốc cho đất nước và nhân dân ta: hàng trăm lãnh tụ và cán bộ chủ chốt của các đảng yêu nước không CS đã bị giết hại, trên 172 ngàn người đã là nạn nhân oan uổng trong cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu ở miền Bắc, khoảng 5-6 triệu quân nhân và thường dân của cả hai miền đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh Bắc-Nam, hàng trăm ngàn người bị rục xác trong ngục tù CS, tình trạng chia rẽ, hận thù trong dân chúng vô cùng trầm trọng... Do đường lối, chính sách “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà ĐCS đã tàn phá nền kinh tế của đất nước, đẩy lùi nền văn hóa, giáo dục của dân tộc, làm cho nước ta bị lạc hậu gấp nhiều lần so với các nước láng giềng mà trước năm 1945 trình độ phát triển còn thấp hơn nước ta. Chế độ độc tài toàn trị đã tạo nên một xã hội đầy bất công, đầy tham nhũng, đầy tội ác; đạo đức con người băng hoại nặng nề không tưởng tượng nổi. Đặc biệt cần nói thêm, chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã tạo nên một lớp người khiếp sợ, khuất phục cường quyền, vô cảm, ích kỷ và... độc ác.

 

Một hậu quả cực kỳ nguy hiểm nữa mà chế độ độc tài toàn trị do tập đoàn cầm quyền CSVN đã gây ra cho đất nước và dân tộc ta là: do “chịu ơn sâu nặng” ĐCSTQ ngay từ thời những năm 1930, ông Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS đã mù quáng, không thấy rõ mưu đồ của Trung Cộng muốn xâm chiếm nước ta, nên có một thời gian dài họ đã mê muội thuần phục Mao Trạch Đông và các lãnh tụ Trung Cộng, đến nỗi để Trung Cộng lấn dần lãnh thổ của Tổ quốc ta, và thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có công hàm (14.09.1958) “ghi nhận và tán thành” Công bố của Chính phủ Trung Quốc ngày 04.09.1958, thực tế là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gián tiếp phủ nhận chủ quyền của ta trên quần đảo Hoàng Sa! Còn khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị sụp đổ thảm hại, lãnh đạo ĐCSVN đã vội vã bay đến Thành Đô (09.1990) để quỵ luỵ tìm chỗ dựa mới, hòng cứu ĐCS, cứu chế độ toàn trị của Đảng, mặc dù cách đấy không lâu, hồi năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn phá nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam và lấn chiếm lãnh thổ của ta ở gần biên giới. Từ đó, tập đoàn cầm quyền VN từng bước nhân nhượng TQ về lãnh thổ và lãnh hải nước ta (Hiệp ước về biên giới trên đất liền 30.12,1999, Hiệp ước phân định lãnh hải 25,12.2000), tự nguyện quàng vào cổ dây thòng lọng “16 chữ vàng” và “4 tốt” để bè lũ Trung Cộng thực hiện cuộc xâm lăng “mềm”: Nhà cầm quyền VN đã để các đoàn lao động TQ xâm nhập sâu vào các nơi hiểm yếu trong nội địa nước ta, cho thuê dài hạn rừng vùng biên giới, để kinh tế TQ tràn ngập thị trường VN, văn hóa TQ tràn ngập đất nước bằng phim ảnh, sách báo, các trường dạy Hoa ngữ, v.v... tạo ra nguy cơ mất nước rất hiển nhiên. Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến chầu Thiên triều đỏ, một bản Tuyên bố chung và 10 văn kiện quan trọng đã được ký chóng vánh trong một ngày 21.06.2013. Đây là sự khuất phục toàn diện vô cùng nhục nhã của tập đoàn thống trị CSVN trước kẻ thù của Dân tộc là bọn “đại bá” Trung Cộng.

 

Trước hiểm họa mất nước, các công dân yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược thì lại bị ĐCS đàn áp rất tàn bạo, nhiều người bị tống vào tù ngục. Như vậy, trước mắt người dân VN, tập đoàn thống trị CSVN đã hiện nguyên hình là những tên “thái thú” của Trung Cộng. Có thể kết luận rằng chừng nào còn tồn tại chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN thì hiểm họa mất Tổ quốc, mất Dân tộc vẫn còn tồn tại.

 

Các đảng viên cộng sản trung thực có tư duy độc lập cần sớm “xét lại” để tỉnh thức mà nhận rõ chế độ độc tài đảng trị của ĐCS áp đặt cho Dân tộc ta đã trên 68 năm. Phải nhận rõ ĐCSVN đã và đang là khối u ác tính trên thân thể Dân tộc ta, đang là trở lực lớn nhất trên con đường tiến lên của xã hội Việt Nam, của Dân tộc Việt Nam, đã và đang là trở lực lớn nhất cho cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Đất nước, gìn giữ non sông yêu quý. Cần nhận rõ như vậy để tự mình xác định dứt khoát thái độ của một công dân yêu nước, thương dân.

 

CHIA TAY ĐAU ĐỚN, NHƯNG...

 

Vẫn biết rằng mọi cuộc chia tay thường là đau buồn, khó khăn, bịn rịn. Điều này, đối với cá nhân tôi và hai người bạn cùng cảnh ngộ là Thượng tá Đỗ Văn Doãn, nguyên Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân và Đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó Chính ủy Quân khu III thì lại càng thấm thía. Cuộc chia taycủa chúng tôi với ĐCS hồi năm 1964 thật là vô cùng đau đớn, vì, đối với chúng tôi, cuộc chia tay đó lại gắn liền với việc chia lìa vợ con mà chúng tôi rất yêu quý, chia lìa bà con, họ hàng, xa lìa Tổ quốc, quê hương! Biết bao đêm thao thức, nghĩ suy... Biết bao lần chúng tôi đã bàn đi tính lại với nhau, trao đổi ý kiến với các bạn cùng tư tưởng, như anh Trần Minh Việt, cựu phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, anh Nguyễn Kiến Giang, cựu phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật... Những người bạn này khi về nước thì bị bắt vào tù giam giữ nhiều năm, khi thả ra anh Minh Việt kiệt sức qua đời, còn anh Kiến Giang thì sống vất vưởng trong vòng kiềm tỏa ngặt nghèo cho đến nay.

 

Nhiều bạn bè đã khuyên chúng tôi: thôi cứ “đánh bài” “ngậm miệng qua thời”, cứ “hoan hô sự anh minh của Đảng”, “chúc tụng muôn năm lãnh tụ” cho xong chuyện để được gần vợ gần con, giữ lấy cái chức vụ đã có, v.v... Chúng tôi không nghe, quyết tâm ở lại và rời bỏ Đảng mà chúng tôi đã phục vụ 20 năm trời. Chúng tôi ở lại nước ngoài chẳng phải để hưởng thụ, nằm im... Nhưng những điều dự định làm thì...  than ôi, mấy tháng sau, một cuộc đảo chính cung đình (1964) nổ ra đã thay đổi người lãnh đạo tối cao của nước bạn... Thế là mọi dự định tan thành mây khói! Khoảng 40 anh chị em sinh viên, nghiên cứu sinh hồi đó không về nước, rất thất vọng... cuối cùng, kẻ trước người sau, nhiều người rồi cũng lần lượt hồi hương. Văn Doãn, người bạn thân của tôi, chán nản nhảy từ tầng lầu 6 đập đầu xuống lề đường tự tử! Tôi đau đớn vô cùng, có lúc gần như điên loạn, một thời gian lâu mới trấn tĩnh được để lao vào những việc làm có ích: tôi say mê nghiên cứu, sinh hoạt tâm linh, bắt tay vào việc biên soạn từ điển, v.v... Đấy, tôi kể lại chuyện đời mình để thấy sự chia tay với Đảng thật là đau đớn, nó kéo theo nhiều thiệt thòi cho gia đình, cho anh em, cho bà con, bạn bè...

 

Nhưng, phải nói thật lòng rằng khi tâm hồn tôi đã bình tĩnh lại, nghĩ cho cùng, việc rời bỏ ĐCS đã đem lại cho tôi nhiều điều tốt.

 

Trước hết, tôi hoàn toàn được tự do về mặt tư tưởng và tinh thần, tôi thật sự làm chủ cái đầu, cái lưỡi và cây bút của tôi.  Đó là điều sung sướng nhất đối với tôi! Tuy rằng với cái thẻ cư trú của một người tị nạn chính trị ở Liên Xô, tôi không được hoàn toàn có tự do về những mặt khác, chẳng hạn về việc đi lại: cũng như các công dân bình thường khác của Liên Xô hồi đó, tôi không được đi ra nước ngoài... Nhưng tự do tư tưởng và tinh thần, tự do nghiên cứu, viết lách đối với tôi là điều quý nhất.

 

Thứ hai, nếu tôi không thoát ly khỏi ĐCS mà ngoan ngoãn trở về nước thì rất có thể tôi phải chịu số phận bi thảm của các anh Trần Minh Việt, Nguyễn Kiến Giang và biết bao nhiêu cán bộ cao cấp, trung cấp khác, người thì bị chết trong tù, người sắp chết trong tù thì người ta vội vã đưa về nhà... chết, người thì âm thầm chết khi bị giam tại gia...  

 

Thứ ba, tôi không phải trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, mà vì phản đối nó, tôi bị quy “tội” “xét lại-chống Đảng”. Cứ  mỗi lần nghĩ đến điều này, tôi thấy lòng mình thật nhẹ nhõm vì đã giữ lập trường đúng và đã dám nói lên sự không đồng tình của mình với Đảng.4

 

Chỉ có một điều đau đớn day dứt trong lòng là vì tôi thoát ly khỏi Đảng mà vợ con tôi phải chịu biết bao điều khổ cực, biết bao nỗi oan trái do chính sách kỳ thị bất công của Đảng; các anh, các chị và các cháu tôi cũng bị vạ lây... Còn việc bộ máy tuyên huấn của Đảng ra sức vu khống, đặt lắm điều nói xấu tôi và các bạn tôi thì tôi chẳng bận tâm. Cho đến gần đây, báo của Đảng vẫn không ngừng nói xấu tôi. Tôi chẳng để ý, chỉ khi đọc bài của một blogger mà tôi chẳng hề quen đăng trên Đối Thoại phản bác lại tờ báo ấy thì tôi mới biết.5

 

Tôi kể cụ thể những điều trên để anh chị em đảng viên cộng sản – già cũng như trẻ – còn đang phân vân, hiểu rằng, hơn ai hết, là người “đã qua cầu”, tôi rất thông cảm các bạn. Sự ngập ngừng, do dự của các bạn là rất dễ hiểu. Nhưng, chắc chắn là các bạn sẽ không phải chịu những đau đớn ê chề như chúng tôi. Còn khi các bạn đã dám làm một bước quyết định là ra khỏi cái Đảng độc tài, thối nát, tham nhũng hiện nay rồi thì các bạn sẽ thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường, “vòng kim cô” trên đầu bạn đã biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để các bạn có thể cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc, hơn là vẫn phải cúi đầu tiếp tục phục vụ cho tập đoàn thống trị mafia hóa, đội lốt CS, độc tài, tham nhũng./.

 

Ngày 26/8/2013

Nguyễn Minh Cần

-----

 

1.   Tại hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp ở hội trường Ba Đình hồi tháng 1 năm 1964, ông Trường Chinh đã nói: “Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là: Đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với  đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc”.

2.   Vaclav Havel trả lời phỏng vấn của Michael Bongiovanni, Mai Việt Tú dịch, bài đăng trên Dân Luận.

3.   Bài này được viết ngày 15/5/1998, đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21 và in trong sách “Chuyện Nước Non” của Nguyễn Minh Cần, NXB Văn Nghệ, Westminster, CA, 1999.

4.   Tôi tin chắc rằng đến bây giờ Trung Ương Đảng vẫn còn lưu giữ hồ sơ của Nguyễn Minh Cần, trong đó có bức thư tôi gửi cho Bộ Chính trị khi tôi ở lại Liên Xô, trong thư nói rõ: tôi không đồng tình với việc các vị lãnh đạo Đảng phát động chiến tranh “giải phóng miền Nam”, vì điều đó trái với Nghị quyết Đại hội III (1960) của Đảng mà tôi là một đại biểu của Đại hội đó. Tôi cũng nhắc lại Nghị quyết Đại hội III đã ghi rõ: Đảng chủ trương “hòa bình thống nhất đất nước”.

5.   Bài viết của blogger Y Giáo đăng trên Đối Thoại ngày chủ nhật 03.02.2013 với tựa đề “Báo Quân Đội Nhân Dân đã nói sai sự thật về ông Nguyễn Minh Cần như thế nào?”


 

 

CHUYỆN DÀI RA ĐẢNG VÀ ĐA ĐẢNG

(Bài 2)

 

Khi kêu gọi các đảng viên cộng sản “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng”, hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận có nêu vấn đề “thành lập Đảng dân chủ-xã hội”, nên chúng tôi muốn nói rõ thêm về chủ nghĩa xã hội-dân chủ.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI-DÂN CHỦ

 

Trước hết, xin nói về từ ngữ. Theo tôi, từ ngữ “xã hội-dân chủ” phản ánh đúng thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ hơn là từ ngữ “dân chủ-xã hội”. Vì sao? Vì cơ sở tư tưởng của phong trào “xã hội-dân chủ” là học thuyết về chủ nghĩa xã hội, mà thứ chủ nghĩa xã hội đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ; nó khác hẳn thứ chủ nghĩa xã hội chuyên chính vô sản, chủ nghĩa xã hội độc tài, tức là thứ chủ nghĩa xã hội của người cộng sản.

Từ ngữ chủ nghĩa xã hội-dân chủ lần đầu tiên được nhà văn Anh Bernard Shaw dùng năm 1888. Sau này, tại Đại hội thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là Quốc tế Xã hội - SI) tại Frankfurt năm 1951, từ ngữ này đã được chính thức sử dụng. Qua những bước thăng trầm, ngày nay Quốc tế Xã hội đã lớn mạnh, đến năm 1999 đã có 143 đảng gia nhập. Những người cộng sản nước ta biết đến chủ nghĩa xã hội-dân chủ và các Đảng Xã hội-Dân chủ, chủ yếu qua những bài mạt sát thậm tệ của Lenin, Stalin và những người CS khác... đối với các lãnh tụ của phong trào này, như Ferdinand Lassalle, Karl Kautsky, Eduard Bernstein, v.v.... Các đảng viên CSVN vì bị bưng bít trên 70 năm trời, chỉ được nghe duy nhất một tiếng nói của Lenin, Stalin... không hề được tiếp cận các nguồn tư liệu khác, nên thường có lắm điều ngộ nhận.

Các Đảng Xã hội-Dân chủ châu Âu phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ferdinand Lassalle (1825–1864), người sáng lập ra Đảng Xã hội-Dân chủ Đức hồi năm 1863 và là chủ tịch đầu tiên của đảng. Mãi 26 năm sau khi Đảng Xã hội-Dân chủ Đức ra đời, Friedrich Engels và một số người khác mới thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, còn gọi là Quốc tế II. Quốc tế này thu hút các Đảng Xã hội chủ nghĩa, trong đó có Đảng Xã hội-Dân chủ Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong hàng ngũ Quốc tế II có nhiều phái khác nhau, trái nhau về quan điểm và đường lối. Đến năm 1914 vì không thống nhất được với nhau về chiến lược cũng như phương thức đấu tranh nên Quốc tế II phải giải tán.

Trong phong trào xã hội-dân chủ có một phái nhỏ những người theo chủ nghĩa Marx, chủ trương cách mạng bạo lực giành chính quyền, đập tan bộ máy nhà nước cũ, thiết lập chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là Vladimir Lenin, Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht... Về sau những người này tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Lenin và những người CS căm ghét các lãnh tụ và đảng viên các Đảng Xã hội-Dân chủ, mạt sát họ tàn tệ, còn khi nắm được chính quyền ở Nga thì thẳng tay đàn áp, thậm chí tiêu diệt họ về thể xác.

Các phái khác trong phong trào xã hội-dân chủ thì ôn hòa hơn, họ chủ trương xét lại chủ nghĩa Marx, từ bỏ con đường bạo lực cách mạng, phủ nhận chuyên chính vô sản, v.v... như Karl Kautsky, Eduard Bernstein, Rudolf Hilferding, Friedrich Adler...  Những người này chú trọng công bằng xã hội, chủ trương quốc hữu hóa những xí nghiệp quan trọng về chiến lược, nhà nước can thiệp vào kinh tế, đối tác xã hội giữa những người lao động và những người thuê nhân công, xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên về tư tưởng, đa đảng về chính trị, dựa vào những nguyên tắc tự do và tình huynh đệ, bảo đảm triệt để quyền con người, bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người lao động – không chỉ giai cấp công nhân, mà cả giới trí thức, nông dân, các trại chủ và tầng lớp trung gian, kể cả các doanh nhân nhỏ và vừa. Họ cho rằng điều kiện quan trọng nhất để xác lập chủ nghĩa xã hội đúng thực chất là thực hiện nền dân chủ chân chính trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội.

Dân chủ chính trị phải bảo đảm cho người dân mọi quyền và quyền tự do của công dân, bảo đảm tính đa đảng, chế độ nghị trường, quyền phổ thông bầu cử, thượng tôn luật pháp và sự tham gia thực sự của người dân vào việc điều hành công việc xã hội.

Dân chủ kinh tế nhằm chống lại sự tập trung quyền lực kinh tế vào tay một thiểu số, để mỗi người đều có thể ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và phân phối. Vì thế dân chủ kinh tế phải nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo được việc sử dụng nguồn tài nguyên xã hội cho lợi ích của mọi người. Theo quan niệm của những người xã hội-dân chủ, quyền lực kinh tế trong xã hội không thuộc những người nắm phương tiện sản xuất, mà thuộc về những người điều hành chúng. Vì vậy áp dụng dân chủ kinh tế phải được bảo đảm không phải bằng việc tước đoạt sở hữu của những người chủ xí nghiệp, mà bằng cách làm cho đông đảo người lao động tham gia ngày càng nhiều vào việc điều hành doanh nghiệp, cả ở các xí nghiệp riêng lẻ (qua các hội đồng sản xuất, kiểm tra lượng người làm, việc trả công lao động và điều kiện lao động, hợp đồng tập thể giữa người lao động và chủ các xí nghiệp), cũng như trong phạm vi toàn xã hội (qua việc thành lập các cơ quan đối tác xã hội giữa người lao động và các nhà kinh doanh, việc mở rộng lĩnh vực sở hữu của thị chính, của hợp tác xã, của nghiệp đoàn, v.v...). Trước đây, những người xã hội-dân chủ chủ trương quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, ngày nay, họ nhấn mạnh vai trò của thị trường, nhưng vai trò này phải được nhà nước điều tiết. Còn nhà nước phải khá “ôn hòa” và không được gây trở ngại cho sáng kiến riêng của cá nhân.

Dân chủ xã hội là mục tiêu cuối cùng của những người xã hội-dân chủ, nó nhằm bảo đảm mọi quyền lợi xã hội của người lao động (các quyền lao động, học vấn, nghỉ ngơi, trị bệnh, nhà ở, bảo đảm xã hội), cũng như phải xóa bỏ mọi hình thức áp bức, kỳ thị, người bóc lột người, bảo đảm các điều kiện để cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.

Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ phải đạt tới bằng nhưng phương tiện hòa bình và dân chủ, bằng sự tiến hóa dần dần của xã hội, nhờ những cải cách, nhờ sự hợp tác giữa các giai cấp, dựa trên sự ủng hộ của nhà nước dân chủ.

Những điều trình bày trên đây về chủ nghĩa xã hội-dân chủ không chỉ là lý thuyết mà đã được thực hiện hàng chục năm rồi trong  thực tiễn ở nhiều nước châu Âu, đặc biệt ở Bắc Âu, như ở Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan; những nơi đó tự do dân chủ được đảm bảo tuyệt đối, xã hội rất trong sạch, hầu như vắng bóng nạn tham nhũng, nên chất lượng đời sống của người dân rất cao. Một vài nước châu Âu, như Đức, Pháp, Anh..., châu Mỹ, như Canada, châu Úc, như nước Australia cũng đã đạt được nhiều thành tựu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ. Còn tình trạng các nước do các ĐCS đi theo con đường của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhân dân bị thống trị bi đát như thế nào, tưởng không cần phải nói.

Nói đến những nhân vật đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn ở nước ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ thì tôi rất đồng tình với hai ông Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh, là trước tiên phải nói đến nhà chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926). Cụ là một nhà dân chủ Việt Nam không kêu gọi bạo lực, không có đầu óc chuyên chính. Người thứ hai chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ là Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (1920-1947). Ông đã sáng lập ra Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng (ngày 21.09.1946), gọi tắt là Đảng Dân Xã. Đảng này theo nguyên tắc “chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”, chủ trương “toàn dân chánh trị”“chống độc tài bất cứ hình thức nào”. Nét độc đáo của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là tư tưởng xã hội-dân chủ hòa quyện với giáo lý đức Phật.

Chúng tôi viết nhiều về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, mà ít nói đến Đảng Xã hội-Dân chủ, vì nghĩ rằng, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa xã hội-dân chủ, không chỉ có các  Đảng Xã hội-Dân chủ. Đảng của những người xã hội-dân chủ còn có thể mang nhiều tên khác, như Đảng Lao động, Đảng Công nhân, Đảng Công bằng, Đảng Chính Nghĩa, v.v... Cái tên đảng không phải là quan trọng, cái chính, cái thực chất là cương lĩnh, là mục tiêu đấu tranh của đảng, tức là chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực. Chúng tôi nhấn mạnh chữ “đích thực”, vì trên đời này, khi có những thứ tốt thuộc “hàng chính hiệu” thì thường cũng xuất hiện nhiều “hàng giả”, “hàng nhái”. Điều này dễ thấy ở một vài nước CS gọi là “xã hội chủ nghĩa”: Khi “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” bị sụp đổ hồi cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ trước thì ban lãnh đạo một vài ĐCS vội vàng thay đổi nhãn hiệu,  đổi tên đảng thành Đảng Xã hội-Dân chủ, Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, và tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ, chỉ cốt để bảo vệ quyền lực của giai cấp cầm quyền cũ, chứ thực ra họ vẫn giữ thực chất CS. Đó là một thực tế, các chiến sĩ dân chủ cần cảnh giác.

Viết đến đây, chúng tôi không thể không nhắc đến ý kiến của Giáo sư Phan Đình Diệu, một trong những nhà trí thức khả kính. Ý kiến của ông như thế này: “Tôi hy vọng là Đảng (cộng sản) sẽ tự biến đổi thàng Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng (cộng sản) và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế.” Giáo sư Tiến sĩ Phan Đình Diệu giỏi về toán học, ông là người khảng khái, chính trực, nhưng chưa chắc ông đã giỏi về chính trị học. Bài toán khó khăn của Đất nước mà Tiến sĩ giải cách này, chúng tôi tin chắc rằng “đáp số” sẽ làm ông thất vọng nặng nề!

Nhân tiện, cũng xin nói thêm điều này: hiện nay ở Việt Nam, có những nhân sĩ, trí thức... đề nghị đổi tên ĐCSVN thành Đảng Lao động Việt Nam, đổi tên nước CHXHCNVN thành Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, tưởng như vậy thì tình hình VN sẽ thay đổi hẳn, mọi sự sẽ tốt lên. Về chuyện đổi tên, kẻ viết bài này có học được một bài học rất thấm thía do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh dạy cho. Xin chia sẻ cùng các bạn: Năm 1950, chúng tôi được triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho việc đổi tên ĐCS tại Đại hội Đảng năm 1951. Cụ Hồ bước lên bục giảng giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán bộ cao cấp và trung cấp đến họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn hiệu CRAVEN A. Giơ cao nắp hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng tôi, cụ lớn tiếng nói: “Đây là ĐCS”, rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía trong không có chữ, đưa lên và nói tiếp: “Đây là Đảng Lao động”. Rồi cụ thủng thẳng hỏi: “Đã rõ chưa? Có khác nhau gì không?” Cả hội trường ầm vang tiếng đáp: “Rõ rồi ạ! Dạ, không khác nhau gì cả!”.

Đúng là bài học nhớ đời! Dưới thời ĐLĐVN cũng như dưới thời ĐCSVN, dưới thời VNDCCH cũng như dưới thời CHXHCNVN, mọi tầng lớp nhân dân đều phải chịu biết bao thảm kịch! Lẽ nào các nhà trí thức, các nhân sĩ và toàn dân ta không thấy hay sao?

 

CẦN CÓ MỘT TƯ DUY ĐÚNG

 

Chúng tôi đánh giá cao tâm nguyện của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, khi hai ông kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-Dân chủ. Lời kêu gọi xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, đa nguyên và kêu gọi thành lập một Đảng Xã hội-dân chủ đáng trân trọng. Có người còn cho đó là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải đi...” mặc dù đó chỉ là một lời kêu gọi thôi, không có cương lĩnh, mục tiêu, chương trình gì cụ thể cả.

Thật ra, lời kêu gọi đó của hai ông không có gì mới. Khi nói đến “tuyên ngôn”, thiết tưởng cần phải nhắc lại để mọi người nhớ: Cách đây trên 7 năm, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào dân chủ nước ta, đã từng có một bản tuyên ngôn của 118 công dân ở trong nước (xin nhấn mạnh ba chữ ở trong nước) khao khát tự do dân chủ được công bố công khai ngày 08.04.2006. Đó là “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” (còn gọi là Tuyên ngôn 8406). Tuyên ngôn đó đã nói rất rõ ràng và mạnh mẽ về mục tiêu đấu tranh cho một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, mục tiêu đấu tranh cho mọi  quyền tự do, dân chủ. Tuyên ngôn đó, được trên 5000 người Việt Nam trong và ngoài nước công khai ký tên, và được 140 chính khách quốc tế bảo trợ, trong đó có cố Tổng thống Vaclav Havel.

Tuyên ngôn 8406 vạch rõ rằng, sau khi cướp được chính quyền, ĐCS đã thủ tiêu quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đã chà đạp thô bạo tất cả những quyền thiêng liêng về tự do, dân chủ, cũng như quyền được sống yên bình và mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn 8406 nhận định rằng, vì “lấy chủ nghĩa Mác-Ăng-ghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng” nên ĐCS đưa “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam”, ... “đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam”. Tuyên ngôn 8406 nói rõ “Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.” Còn “Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đâyQuyền Tự do Thông tin Ngôn luận...”, “Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử...”, “Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng...”, “Quyền Tự do Tôn giáo.... Tuyên ngôn 8406 tuyên bố rõ ràng Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động...” (các chữ in đậm trong các ngoặc kép là theo đúng nguyên bản).

Chúng tôi nghĩ rằng Tuyên ngôn 8406 này rất xứng đáng làm bảng chỉ đường cho phong trào đấu tranh giành Tự do, Dân chủ ở nước ta. Chính vì đấu tranh cho một Cương lĩnh đúng đắn như vậy, nên đến nay dù bị khủng bố rất ác liệt, hàng trăm chiến sĩ dân chủ của Khối 8406 đã bị truy bức, sách nhiễu, đàn áp hết sức tàn bạo, bị tống vào tù ngục CS, bị quản chế tại nhà, nhưng phong trào dân chủ vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Cho đến nay đã có 190 thành viên của Khối 8406 là nạn nhân của sự đàn áp như vậy, trong số đó 65 chiến sĩ dân chủ bị lãnh án tù giam từ 7 năm trở lên! Rất nhiều chiến sĩ của Khối 8406 đã nêu gương đấu tranh kiên cường trong nhà tù. Chúng tôi không thể nêu hết tên của họ, vì sợ chiếm nhiều chỗ trong bài.

Cũng cần nói thêm, Khối 8406 còn đề ra “Cương lĩnh Khối 8406” và công bố “Tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn & 8 bước”. Khối 8406 đã phát hành tờ bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, vừa là báo mạng vừa là báo giấy có 32 trang A4 để vận động cho tự do dân chủ, chống chế độ độc tài toàn trị. Từ ngày 15.04.2006 đến ngày 01.09.2013, bán nguyệt san không xin phép này đã ra được 178 số. Khối 8406 còn thường xuyên ra những lời tuyên bố, những lời kêu gọi, những nhận định, những kháng thư... để hướng dẫn dư luận, phản đối nhà cầm quyền và động viên đại chúng đấu tranh.

Chúng tôi nghĩ rằng cần phải nói những điều này để mọi người nhìn thấy rõ những thành tựu đã có, không vì những hiện tượng mới bộc phát mà che lấp những thành tựu đã thực hiện được bằng nỗ lực, bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm, hàng nghìn người!

Khi đọc kỹ những bài viết và bài nói (trả lời phỏng vấn) của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, chúng tôi không thể không nói đến tính hời hợt, thô thiển, chưa chín chắn của những lập luận của hai ông.

Nhiều người có nhận xét về điều ông Lê Hiếu Đằng đã cho biết: “Nằm trong bệnh viện... tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn, nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu” rồi ông mới “thấy sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở miền Bắc, một xã hội không có bóng người”, ông chuyển biến tư tưởng và hạ bút viết bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bnh”. Người đọc có thể nghĩ rằng sự hiểu biết của ông Lê Hiếu Đằng như thế là chưa sâu sắc. Nhưng dẫu sao tôi cũng mong rằng nhận thức của ông Đằng còn chín chắn hơn nhiều so với cái “hiểu loáng thoáng” của ông Nguyễn Tất Thành1 hồi năm 1920, khi ông này nhảy từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III; mà vì cú nhảy đó Đất nước và Dân tộc Việt Nam đã và đang chịu biết bao tai họa! Chuyện ông Lê Hiếu Đằng chuyển từ ĐCS sang cổ động cho Đảng Xã hội-Dân chủ làm ta nhớ đến “cú nhích chân” (cụm từ của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu) của ông Nguyễn Tất Thành mà Tiến sĩ đã nhắc đến trong bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích chân lại” bước từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin, chỉ vì ông Nguyễn Tất Thành thấy “Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề thuộc địa”2, ...“Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì thì tôi (tức Nguyễn Tất Thành) chưa hiểu”3. Thậm chí “Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lenin đăng trên báo L’Humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy ông Nguyễn Tất Thành “cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi”4.

Về vấn đề thành lập đảng đối lập, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu đã viết chí lý trong bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ”: “...Là luật gia, là nhà hoạt động chính trị, ông Đằng nói đến thành lập đảng đối lập với chính quyền cộng sản có vẻ rất tài tử, khơi khơi. Ít nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương, đường lối (của đảng ấy) như thế nào để người đọc biết ý ông ra sao.”

Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận nên xem lại mình có ngây thơ không, khi nói rằng: “Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.” Các ông quên rằng hai ông cũng như toàn dân nước ta đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN hay sao? Xưa nay có bao giờ ĐCS coi trọng luật pháp, coi trọng  nguyên tắc pháp lý đâu, tất cả những thứ đó trong mắt đám cầm quyền CS chỉ là những quan niệm tư sản về pháp quyền phải vứt bỏ. Ngoài miệng họ vẫn nói “thượng tôn pháp luật”, nhưng đó là thứ “pháp luật phi pháp” của họ thôi mà họ bắt người dân phải theo! Thực ra họ có coi pháp luật ra cái gì đâu? Thế thì mấy chữ của ông Lê Hiếu Đằng “Cần cho lập thêm các đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam” có nghĩa lý gì với họ?

Thành thật mà nói, đọc những điều hai ông nói và viết về dân chủ đa đảng và về Đảng Xã hội-Dân chủ, chúng tôi thấy rằng nhận thức của hai ông còn... – xin đừng giận vì lời nói thẳng – thô thiển và mơ hồ.  Về vấn đề này, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với nhà báo Ngô Nhân Dụng, viết trong bài “Ông Hồ Ngọc Nhuận cần đổi cách suy nghĩ”. Ông Ngô Nhân Dụng có lời khuyên rất chí lý:  “Trong lúc tranh đấu để thiết lập một xã hội dân chủ tự do chúng ta cần sống theo lối tự do dân chủ”. Chúng xin nói thêm: Mà muốn sống theo lối tự do dân chủ thì phải hiểu thấu đáo xã hội dân chủ tự do đích thực nó phải như thế nào?

Cũng như khi kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-dân chủ thì phải hiểu thấu đáo về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, về lịch sử của phong trào xã hội-dân chủ thế giới, về mục tiêu của chủ nghĩa đó qua các thời kỳ lịch sử cũng như về cương lĩnh của Đảng Xã hội-dân chủ, phải nói rõ sự khác biệt to lớn của mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ so với chủ nghĩa xã hội- chuyên chính vô sản, tức là chủ nghĩa xã hội- độc tài của những người cộng sản. Đáng tiếc là hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đã không làm được điều đó. Có chỗ ông Lê Hiếu Đằng lại viết ông muốn “thành lập một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân chủ-Xã hội”. Người đọc cảm thấy dường như ông chưa chắc chắn lắm, hoặc chưa quyết định dứt khoát. Thế thì làm sao người ta có thể đáp ứng lời kêu gọi của ông? 

Tôi ngạc nhiên khi nghe Luật gia Lê Hiếu Đằng trả lời phóng viên RFI, ông nói rằng ông “phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi”, dựa theo những điều ông đã “học abc của  chủ nghĩa Mác-Lênin” thì ông thấy chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại (ý nói chủ nghĩa Mác-Lênin)”. Như vậy là ông không biết rằng cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” của Lenin và Stalin bao giờ cũng chủ trương độc đảng, tức là chỉ một mình đảng cộng sản độc tôn thống trị, cái đó Lenin gọi là “hegemonia” (Nhà xuất bản Sự Thật dịch là độc quyền lãnh đạo) của ĐCS. Chính cái đó mới đẻ ra chế độ độc tài toàn trị CS với nguyên tắc “chuyên chính vô sản” – đó là nguyên nhân của mọi tai họa của Đất nước và Dân tộc VN ta! Thế mà ông Lê Hiếu Đằng lại cho chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại” chủ nghĩa Mác-Lênin!

Tôi giật mình khi thấy ông nói rằng: “Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân chủ xã hội của Đệ Nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy”! Có thể nào một người đang kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ lại có thể mơ hồ đến thế về tên độc tài CS đẵm máu nhất nhì thế giới của thế kỷ 20?

Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi các đảng viên cộng sản ra khỏi Đảng để thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ đối lập với ĐCS. Có lẽ hai ông chưa nghĩ sâu rằng: nếu một Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm rặt những đảng viên cộng sản cũ thì cái Đảng Xã hội-Dân chủ đó có thể bảo đảm thực hiện đúng tinh thần và thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực hay không? Hay một thời gian nào đó, đảng ấy sẽ mất đi tính đối lập mà quay trở lại thỏa hiệp với đảng cầm quyền? Một Đảng Xã hội-Dân chủ kiểu đó có khả năng thâm nhập được vào đại chúng không? Hay nó chỉ tự đóng mình trong câu lạc bộ “các cụ lão thành cựu đảng viên CS”? Vì sao hai ông không đặt vấn để rộng rãi hơn, không kêu gọi các tầng lớp khác, thanh niên, công nhân, lao động, trí thức, nông dân, doanh nhân, trại chủ cùng tham gia Đảng Xã hội-Dân chủ? Chính những lớp người này không bị những nếp nghĩ theo lối CS hằn sâu trong óc, không bị nhiễm sâu trong máu những tư tưởng, phong cách CS mới có khả năng tiếp thụ chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực, mới có khả năng cạnh tranh với ĐCS và ít khuynh hướng thỏa hiệp với ĐCS. Cạnh tranh thật sự với ĐCS, đối lập chính trị thật sự với ĐCS thì mới có hy vọng thay đổi chính quyền qua các cuộc bầu cử tự do, chứ nếu cứ nghĩ rằng “cùng hợp tác (với ĐCS) để thúc đẩy xây dựng dân chủ cho nước Việt Nam” thì e rằng chẳng mấy chốc Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm các cựu đảng viên CS sẽ trở thành “cái đuôi” của ĐCS!

Dù chúng tôi có nhiều thiện cảm với chủ nghĩa xã hội-dân chủ, nhưng để đấu tranh với ĐCS, chúng tôi nghĩ rằng không nhất thiết đảng đối lập phải là (hoặc chỉ là) Đảng Xã hội-Dân chủ mà còn cần đến nhiều đảng khác nữa, nhiều tổ chức, nhiều phong trào, nhiều diễn đàn, nhiều mặt trận, nhiều liên minh, ngay cả nhiều hội đoàn có hay không có tính chính trị nữa. Mỗi đảng, mỗi tổ chức đại biểu cho một lớp người có ý hướng, có quyền lợi, có mục tiêu, có sở thích... giống nhau, tất cả những cái đó hình thành một xã hội dân sự mạnh mẽ mới có khả năng đối lập với ĐCS và chính quyền CS.

Dù rằng trong nhận thức, quan niệm hoặc cách diễn đạt hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận còn có chỗ bất cập, thiếu sót, nhưng hai ông đã can đảm gióng lên tiếng nói chính nghĩa trong lúc nhiều người còn mê ngủ. Điều đó thật đáng hoan nghênh./.

Ngày 01/09/2013

Nguyễn Minh Cần

- - -

1. Người viết cố ý không dùng tên Nguyễn Ái Quốc, vì đó là một bút danh tập thể của một nhóm người mà ông Nguyễn Tất Thành đã chiếm làm của riêng.

2. Trích từ sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.

3. Trích từ bài “Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lenin” của Hồ Chí Minh.

4. Lời của Hồ Chí Minh được nhắc lại trong bài “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” của Lữ Phương.

 

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết