Chiến Tranh Việt Nam
(1945-1975) P1
Văn Nguyên Dưỡng
Lời Nói Đầu: Trung tuần tháng 11, năm 2012, tôi đến
Sài Gòn Nhỏ, Nam California, thủ đô tinh thần của người Việt tị nạn
công sản ở Hoa Kỳ, gặp lại những bạn đồng khoá trong Ban Chấp hành
Hội Ái hữu Cựu SQTB Khoá V–Vì Dân Thủ Đức-Đàlạt. Các bạn uỷ nhiệm
cho tôi viết một bài cho quyển Kỷ Yếu của Khoá về cuộc chiến cũ
trên quan điểm khách quan, “đứng ở vị trí cao hơn bên này hay bên kia,
từ đó nhìn xuống viết sao cho trung thực và vô tư về cuộc chiến đó.”
Điều này quả thật… đáng suy gẫm và các bạn tôi thực sự đáng được
khen ngợi. Nếu chỉ mang tâm sự của một chứng nhân mà viết thì cũng
không chắc viết được những dòng vô tư huống chi tôi là một nạn nhân
trực tiếp –cũng như rất nhiều bạn đồng khoá- bị bên kia vùi giập
trong lao tù hơn một thập niên vì đã từng cùng với hàng triệu chiến
hữu bên này cầm súng chống lại những người bên kia tuyến. Nếu viết
trên cương vị của một người biên khảo, đứng ngoài hay đứng trên, như
các bạn yêu cầu thực là không dễ. Tuy nhiên, tôi xin nhận vì cho rằng
việc làm này là bổn phận của một sinh viên thuộc một khóa huấn
luyện SQTB được gọi là Khóa Vì Dân; hơn nữa, tôi còn là một chứng
nhân cũng là nạn nhân của cuộc chiến tang điền thương hải đó. Tôi mong
mỏi nói lên sự thật cho thế hệ tương lai Việt Nam trong nước và ở
hải ngoại hiểu rõ hơn về thế hệ của chúng tôi. Tôi đã thức nhiều
đêm để suy gẫm viết làm sao cho thật trung thực, mặc dù trước đây
nhiều năm khi có dịp viết một quyển sách về Chiến Tranh Việt Nam
bằng Anh ngữ tôi đã giữ sự trung thực và vô tư ở mức độ cao. Tôi mong
mỏi sẽ chu toàn lời hứa với các bạn đồng môn trong bài này.
Vĩnh Định Nguyễn văn Dưỡng hay Văn Nguyên
Dưỡng SVSQ TĐ8/ĐĐ2/BB/ Khoá V-Vì Dân/Thủ Đức
I. Đất Nước Và Con Người
Đất nước Việt Nam nằm trên ven bờ Thái
Bình Dương chiếm vị trí chiến lược quan trọng trong vùng biển lớn
này và là cửa ngõ của vùng Đông Nam Á Châu. Vì ở phía nam một nước
Trung Hoa khổng lồ luôn luôn theo chủ nghĩa bành trướng, nên con người
Việt Nam, từ nghìn xưa, đã chịu nhiều thử thách điêu đứng để trường
tồn. Ở thời điểm cận đại và hiện đại, với vị thế chính trị địa
dư chiến lược đó, đất nước và con người Việt Nam không thể thoát
được sự tranh chấp của các thế lực lớn lao Đông Tây, nên đã và sẽ
còn nhiều gian khổ khôn lường.
Dù đứng trên quan điểm nào, khi viết về
cuộc chiến ba-mươi-năm của thế kỷ trước, người Việt có lương tâm sẽ
không khỏi chạnh lòng thương cảm về một giai đoạn lịch sử mà cả dân
tộc đã đắm mình trong máu lệ và khói lửa lan tràn trên mọi nẻo
đường, trong mọi thôn xóm, làng mạc, trong mọi phố phường hay thành
thị. Xa ở tận biên thuỳ Việt Bắc, tận rặng dãy Trường Sơn, tận vùng
đất mũi Cà Mau. Gần ngay ở giữa cố đô Hà Nội, giữa kinh đô Huế, và
giữa tân đô Sài Gòn. Ở đâu cũng có chiến tranh.
Ở đâu cũng có dấu
vết của tàn phá. Ở đâu cũng chỉ thấy giết chóc và huỷ diệt, thương
tâm và đau khổ. Là chứng nhân và nạn nhân của cuộc chiến đau lòng
đó, chúng tôi, hàng trăm ngàn chiến sĩ miền Nam đã ngậm ngùi chôn
vùi kiếp sống như con vật lao động trong tận đáy ngục tù ở núi rừng
Việt Bắc trong thời gian dài sau khi đã chôn vùi tuổi thanh xuân cho
một cuộc chiến không biết sẽ đưa dân tộc và đất nước đi về đâu…
Người ta nói quá nhiều trong tai chúng tôi về độc lập, về tự do và
hạnh phúc.
Dĩ nhiên thế hệ chúng tôi đã không tìm được những chiếc
bánh tưởng chừng như thơm ngon đó. Toàn là bánh vẽ. Chúng tôi đã
không bao giờ tìm thấy hay được hưởng hạnh phúc thực sự của những
con người trên một đất nước có thanh khí và ánh sáng. Cuộc chiến
diễn ra dài dẵng. Chỉ có sát khí đằng đằng, khói lửa trùng trùng
và máu lệ tuôn trào thuở ấy.
Chúng tôi không tin rằng đã đếm đủ bao
nhiêu lớp người của thế hệ chúng tôi đã khóc. Những con dân đau khổ
của miền Bắc khóc nhiều lắm. Đó là những ông bà mất cháu, những
cha mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những trẻ thơ mất mẹ cha,
những người tình mất nhau… Họ đã biết bao lần nhìn về miền Nam mà
tìm hình bóng người thân trên núi rừng thăm thẳm của các con đường
mòn Trường Sơn, ở Tây Nguyên, ở Bình Trị Thiên, ở Nam Bộ; hay ở Lào,
hoặc ở Miên? Mắt họ đã tràn lệ ngóng trông, lòng họ đã mỏi mòn
nhớ nhung, chờ đợi… những con người “sinh bắc tử nam”… đã ra đi và đã
mất. Mất cả thể xác lẫn linh hồn ở những chiến trường xa xôi đó.
Người ra đi đã trở thành những liệt sĩ, đem xương cốt mà đấp phù đồ
cho đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).
Chúng tôi cũng đã nhìn thấy không biết bao
nhiêu con dân miền Nam với những dòng nước mắt đầm đìa trong suốt
nhiều năm. Họ là các đấng sinh thành, là quả phụ cô nhi, là anh chị
em, bạn bè hay là người yêu của những chiến sĩ miền Nam. Những chiến
sĩ này đã hi sinh ở khắp chiến trường miền Nam. Ở biên giới, trên cao
nguyên, dưới duyên hải, ngoài biển cả, trong núi rừng, đồng ruộng,
nương rẫy, thôn xóm, thành thị, phố phường. Ở khắp nơi. Ở Cam Lộ,
Pleime, ở Đồng Xoài, Bình Giả. Ở Quảng Trị, Thừa Thiên, ở Pleiku,
Kontum! Còn ở đâu và ở đâu nữa? Buôn Mê Thuột hay Phước Long? Tây Ninh
hay An Lộc? Long Khánh hay Sài Gòn? Chương Thiện hay Cà Mau?
Ở đâu mà
máu người không đổ! Những chiến sĩ miền Nam nầy, thoải mái và ước
mơ nhiều hơn, cho rằng cuộc chiến nầy là để bảo vệ chế độ tự do
của miền Nam hay ít ra vì… mắt họ đã từng nhìn thấy những người bên
kia mang nhãn hiệu “giải phóng” cầm súng giết hàng nghìn người vô
tội, bất kể người già, đàn bà và trẻ con ở Huế –Tết Mậu Thân–
hoặc dùng đại pháo bắn banh xác nạn nhân trên các con đường chạy
giặc, mà động mối thương tâm, mang hùng khí mặc áo trận vào người?
Vâng, khi nhìn vào kinh thành cũ thấy xương người vô tội chất cao bằng
đầu và thấy trên các con đường đó máu đã chảy tràn lộ loang sông,
thây đã phơi mãng địa… lòng dạ nào không đau xót! Những chiến sĩ này
là những con người biết yêu, ghét, buồn, thương như những cán binh
Trường Sơn. Chỉ khác hơn là biết đầu ngọn súng… chĩa về đâu… Họ
không là những tấc sắt bị hút vào chiến trường. Nhưng ở chiều sâu
của cuộc chiến nhiêu khê đó, họ đã mặc nhiên thành những “chiến sĩ
dung nham” như một nhà thơ lớn miền Nam đã nói.
Thực ra, có thể nói hầu như tất cả những
cán binh miền Bắc hay chiến sĩ miền Nam đều là những người yêu nước.
Họ đánh nhau vì tấm lòng yêu nước đó đã bị… lợi dụng tạo nên chiến
cuộc mà chính họ không hề muốn. Và rồi nạn nhân của cuộc chiến đó
là con số không thể kiểm kê nổi, dù ở miền Bắc hay miền Nam. Quá
nhiều. Hàng triệu… triệu con người.
Chúng tôi, người Việt Nam trong
thế hệ chúng tôi chiến đấu bảo vệ đất nước và đã trở thành những
con người chịu đựng tất cả nỗi đau của kiếp người trên mảnh đất đầy
thương yêu nhưng cũng đầy bất trắc đó, nơi đã có những bậc đại anh
thư những bậc đại anh hùng và còn biết bao người nữa cầm vũ khí
chống giặc từ những vị vua, quan, sĩ phu, lãnh tướng đến những nông
dân áo vải, từ thày giáo đến học sinh.
Họ sẵn sàng quên sự nghiệp,
quên gia đình và hi sinh bản thân khi cần thiết. Họ thản nhiên ra pháp
trường như một Nguyễn Thái Học, một Phó Đức Chính, những ai và
những ai nữa. Kẻ thành công, người thất bại nhưng người dân Việt yêu
nước không ai có thể quên lời hịch tựa như lời sấm truyền “Nam Quốc
Sơn Hà”… đầy hùng khí như một tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc trên
lãnh thổ của mình hay quốc sách tối thượng giữ nước ghi rõ trong
Bình Ngô Đại Cáo hùng lược mà nhân hậu, thể hiện tinh thần dũng
liệt với trái tim cao cả yêu chuộng hoà bình của người Việt Nam.
Từ
nghìn trước dân tộc Việt đã là như thế. Đến nghìn sau, dân tộc Việt
sẽ cũng vẫn như thế, không bao giờ thay đổi. Đất nước và con người
Việt Nam sẽ trường tồn vì chúng ta thừa hưởng những truyền thống
quý báu của tiền nhân: hùng lược không thua một dân tộc nào mà nhân
hậu hơn nhiều dân tộc khác.
Thời gian trong hơn một thập niền gần đây,
không ít học giả và sử gia ngoại quốc có tầm nhìn xuyên suốt cho
rằng Chiến tranh Việt Nam 1945-1975 không là chiến tranh giành độc lập
cho Việt Nam do người Việt chủ động; ngược lại, đó là một cuộc
chiến mang tính “ý thức hệ”.
Trong khi đó thì tất cả những người
cầm súng Việt Nam nghĩ rằng mình chiến đấu vì độc lập và tự do cho
đất nước; vì tình yêu tổ quốc. Nhiều nhà nghiên cứu và biên soạn
Việt Nam chân chính đồng ý với quan điểm trên đây nhưng cho rằng nếu
đó là cuộc chiến “ý thức hệ” thì các thứ “hệ ý thức” đều do các
thế lực lớn mạnh ngoại bang mang vào… áp đặt trên con người của đất
nước mình, buộc phải theo như một cưỡng chế không chống lại nổi.
Tiếc thay, thế hệ chúng tôi lắm người không hiểu hết sự vận chuyển
của lịch sử thế giới và của đất nước.
Hoặc có hiểu biết nhưng bất
lực trước sự vận chuyển đó! Bởi vì những gì mà đại đa số những
người bình thường như chúng tôi đã nghĩ và đã làm là không tự chúng
tôi muốn mà bị buộc phải nghĩ và phải làm bởi các cấp lãnh đạo
và các… lãnh tụ, mặc dù không ít người trong chúng tôi có thể nghĩ
khác hơn. Chính cấp lãnh đạo và lãnh tụ Việt Nam –theo cách nói của
từng miền– là những người không đủ tri thức lãnh hội sự vận chuyển
lớn lao này nhưng có đủ… bản lãnh để dẫn dắt chúng tôi vào cuộc
chiến thảm hại như nó đã diễn ra. Nhất là cán, chính, binh và quần
chúng miền Bắc bị thúc bách theo từng bậc của hệ thống chính trị
đảng bộ CSVN. Đứng trên tất cả là những lãnh tụ đảng.
Trong giai đoạn lịch sử đó, Việt Nam không
có một tầng lớp lãnh đạo và lãnh tụ thực sự xứng đáng. Và nếu
có, những vị này cũng đã nhanh chóng bị loại ra khỏi quỹ đạo vận
hành của các thế lực cực mạnh của thế giới va chạm nhau vì quyền
lợi của họ. Đã có những lãnh đạo và lãnh tụ tưởng mình đã tạo
lịch sử trong khi vẫn biết, hay không biết.., chính những thế lực này
tạo nên họ và cho họ một thế đứng trong chế độ mà các thế lực này
dựng nên.
Tất nhiên, trừ thế hệ trẻ trong nước sinh sau khi chiến tranh
chấm dứt, và đa số những người còn quáng-gà mù mờ nào đó của bên
thắng cuộc, nếu là người VN ở mọi nơi trên địa cầu ai cũng nhận ra
những thế lực khuynh đảo thế giới ở thời điểm đó là những thế lực
nào và thứ “hệ” ý thức mà họ đưa vào… “hấp” cấp lãnh đạo và lãnh
tụ VN để những người này… “thụ” rồi thực hiện trên dải đất chiến
lược của dân tộc Việt Nam là những thứ “hệ” tư tưởng nào rồi. Nếu
nói rõ ràng hơn, những thế lực –thường được gọi là các cường quốc
mạnh về chính trị, quân bị và kinh tế Đông, Tây, ở thời điểm đó– như
là Nhật, liên quân Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ-Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐ/TH),
Liên-bang Xô-viết Nga, đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ), và thế lực
thực-dân-hầu-tàn là Pháp –đã trở lại Việt Nam sau Đệ II Thế Chiến.
Cuộc chiến từ Mùa Thu năm 1945 trên đất nước Việt Nam trở đi, được
những trí thức chính trị và những sử gia có uy tín thế giới cho là
một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm [a mandate war] nếu không nói nôm na là
một cuộc đánh mướn [a proxy war] của lực lượng địa phương cho “Chủ
nghĩa Cộng Sản Quốc tế” (CSQT) đang bành trướng giành đất đai và thị
trường, va chạm mạnh vào sự che chắn quyền lợi lãnh địa và kinh tế
của khối Thế Giới Tự Do (TGTD-Free World) ở Âu Châu lẫn Á Châu. Ở
khắp nơi. Ở đây chúng tôi không đề cập đến Liên Xô đã chiếm lãnh thổ
của các nước lận cận làm lãnh thổ của mình và nhuộm đỏ cả Đông Âu
sau Thế Chiến Thứ II và tiến sang Á châu. Nhiều người gọi là Cộng
Sản Quốc tế (CSQT). Một khi CSQT vào Lục địa Trung Quốc, nhất định
sẽ lấn xuống Đông Dương, Đông Nam Á và mon men ra Nam Thái Bình Dương.
Chiến tranh Đông Dương ở thời điểm đó là một thế chiến thu hẹp trên
phạm trù “ý thức hệ” trong vùng lãnh địa chiến lược này, quan trọng
nhất là Việt Nam. CSTQ thành công và lập chính quyền trên lục địa
rộng lớn này, nhất thiết chiến tranh vùng đất chiến lược Việt Nam
tất sẽ phải diễn ra dữ dội hơn và bản chất “proxy war” lộ diện rõ
ràng hơn. Và nó đã diễn ra. Đây mới chính là bản chất chính của
Chiến tranh Việt Nam.
Lãnh tụ và lãnh đạo Việt Nam của “cuộc
chiến uỷ nhiệm” này là những ai theo các dấu mốc thời gian; và, chế
độ họ dựng nên theo các quan thầy cộng sản và khối tự do trên các
miền đất nước Việt Nam diến tiến như thế nào? Xin viết như một tham
luận hay như một bài luận sử ngắn của một chứng nhân với ít kinh
nghiệm và nhận định riêng.
II. Các Thế Lực Ức Chế Và Sách Động
Chiến Tranh
Thứ nhất, Thế lực Thực Dân Pháp
Các thập niên sau của Thế kỷ XIX ba nước
Đông Dương Việt, Miên và Lào là thuộc địa của thực dân Pháp. Riêng
chế độ thuộc địa Việt Nam được ấn định rõ trong Hiệp ước Patenote
1884 ký kết ngày 6/6/1884 giữa Pháp và Triều đình nhà Nguyễn.Việt
Nam bị Pháp chia ra làm ba “kỳ”: Nam Kỳ tự trị, Trung và Bắc Kỳ bảo
hộ.
(1) Nhà Nguyễn vẫn giữ ngôi vị và chế độ quan quyền của triều
đình vẫn tồn tại ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhưng quyền chính trị, ngoại
giao, quân sự, kinh tế và hành chính Pháp nắm toàn bộ. Thực dân Pháp
đã đào tạo nên một lớp người mới trải nhiều thế hệ phục vụ cho
họ.
Dĩ nhiên tinh thần yêu nước dẫn đến những cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc diễn ra trong suốt tám mươi năm mất chủ quyền khởi đi
từ các vua, các quan đàng cựu, các lãnh tướng, sĩ phu, các nhà cách
mạng, sinh viên học sinh, binh lính và quần chúng nông dân Việt Nam từ
Bắc chí Nam. Tất cả đều bị Pháp đàn áp và triệt hạ, dù là các
cuộc nổi dậy công khai hay hoạt động tiềm ẩn của các hội kín. Hội
kín là các đảng cách mạng của người Việt quốc gia lẫn người Việt
cộng sản (do CSQT đào đạo trước và trong Đệ II Thế Chiến).
Trong các
thập niên đầu Thế kỷ XX, hầu hết các lãnh tụ các đảng Cánh mạng
Việt Nam đều được Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa bảo trợ và cho
lưu trú trong lãnh thổ. Một số nhà cách mạng khác ở Nhật và một
số ít ở các nước Âu châu. Trong Đệ II Thế Chiến, thế lực thực dân
Pháp ở Đông Dương bị Nhật khống chế, rồi đảo chính. Tuy nhiên chỉ ít
lâu sau khi Nhật đầu hàng, lực lượng viễn chinh Pháp đã trở lại.
Chiến tranh Việt Nam bắt đầu…
Thứ hai, Thế lực Nhật Bản
Nước Nhật, một thế lực mới ở Thái Bình
Dương, có một quân đội hùng cường, kỷ luật cao, tận trung với Nhật
Hoàng, trang bị vũ khí hiện đại và các hạm đội hải quân tân tiến
–với sách lược “Đại Đông Á”– chẳng những muốn làm bá chủ vùng trung
và nam Thái Bình Dương rộng lớn mà còn muốn chiếm đóng và thu thập
tài nguyên của cả Á Châu trù phú.
Ngày 7/12/1941 Nhật đột ngột tấn
công Trân Châu Cảng của Hoa Kỳ (trên đảo Oahu, quần đảo Hawaii, thuộc
Hoa Kỳ) gây chiến với Hoa Kỳ, trở thành một trong ba thế lực phe
“Trục”–Đức-Ý-Nhật.
(2) Trong ba năm, từ tháng 1/1941 đến tháng 1/1943,
Nhật chiếm một số quần đảo quan trọng ở vùng trung và nam đại dương
này, đánh nhau dữ dội với lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh địa
phương ở các vùng đó và tấn chiếm Phi Luật Tân, Nam Dương, Bornéo. Xa
hơn về phía Nam, tấn công lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông:
Singapore và Mãlai; chiếm nhiều vùng đảo chiến lược khác ở nam Thái
Bình Dương và tiến sang Ấn Độ Dương.
Trên Lục địa đông Á Châu, đánh
chiếm Mãn Châu, Đại Hàn, miền bắc Trung Hoa, quân CSTQ của Mao Trạch
Đông rút sâu vào Tây An và Thiểm Tây. Quân QDĐ/TH của Tưởng Giới Thạch
rút xuống Tứ Xuyên và Vân Nam.
Ở Đông Nam Á, Nhật chiếm Thái Lan, ép
chính quyền Pháp ở Đông Dương ký thoả ước để Nhật được tự do chuyển
quân trên toàn lãnh thổ thuộc địa này, sử dụng tất cả phi, hải cảng
Việt Nam, và đặt Bộ Tư lệnh “Vùng Chiến Lược Tài Nguyên Nam Á Châu”
[The Strategic Southern Resources Headquarters] của Thống Chế Terauchi
–Field Marshal Hisaichi Terauchi, tướng soái của tất cả lực lượng Nhật vùng
Nam Thái Bình Dương, Đông Á và Đông Nam Á– tại Sài Gòn.
(3) Đầu năm
1944, Nhật mở cuốc tấn công lớn thứ hai trên Lục địa Trung Hoa. Cánh
quân phía đông bắc gồm hơn 820,000 quân tấn công tuyến Dương Châu và Hán
Khẩu, cắt toàn bộ các tuyến tiếp vận tàu hoả miền đông bắc Trung
Hoa vào Trùng Khánh. Ở phía đông nam, hai cánh quân trên 300,000 quân từ
đảo Hải Nam tiến đánh Nam Kinh và từ Bắc Việt tiến đánh Quảng Đông.
(4) Một cánh quân lớn khác tấn công quân Đồng Minh Anh-Ấn-Miến và Hoa
Kỳ-QDĐ/TH ở Miến Điện (Burma). Cuối năm 1944, Nhật cắt đường tiếp vận
của Đồng Minh từ Miến Điện vào Côn Minh, lực lượng của Tưởng Giới
Thạch giữ Côn Minh đến Trùng Khánh. Tuyến phòng thủ đông nam từ Liêu
Châu, Nam Ninh đến Lào Kay, biên giới Việt-Hoa.
(5) Với sách lược Đại
Đông Á, với tham vọng làm chủ Thái Bình Dương, Lục địa Trung Hoa– lẫn
vùng Đông Nam Á, và các quốc gia khác thuộc địa của Anh, Hoa Kỳ và
Hoà Lan… tất nhiên Nhật, dù hùng mạnh, cũng lâm vào thế va chạm với
nhiều thế lực: Hoa Kỳ-Anh và các đồng minh ở Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương. Nguy hiểm nhất là Nhật đã đối đầu với thế lực Hoa Kỳ đang
phát triển mọi mặt: một sách lược chính trị “liên minh quân sự chặt
chẽ” trong thế giới tự do và một hoạch đồ tạo dựng thế hệ vũ khí
mới dựa trên khoa học kỹ thuật tân tiến nhất. Liên-Xô cũng chuẩn bị
tham chiến trong khối Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ ở Mãn Châu.
Thứ Ba, Thế lực Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ
Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn
Đông kiêm Tư lệnh Tối cao Liên quân Đồng Minh “Vùng Chiến trường Ấn
Độ-Miến Điện-Trung Hoa” (Supreme Commanding General of the China-Burma-India
Theater) là Đô đốc Sir Louis Mountbatten, lúc đó đặt Bộ Tư lệnh ở Ấn
Độ. Tư lệnh phó vùng chiến trường này, trên danh nghĩa, là Trung
tướng Hoa Kỳ (Lieutenant General) Joseph W. Stilwell, được Washington đưa
sang Trung Hoa làm Tham mưu trưởng cho Thống chế Tưởng Giới Thạch từ
tháng 3/1942 và là Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ ở đó. Sau khi quân
Nhật chiếm Miến Điện, Trung tướng Albert C. Wedemayer thay thế Tướng
Stiwell. Wedemayer đã giúp Tưởng cải tổ lực lượng QDĐ/TH, giữ vững
Trùng Khánh-Côn Minh và chận đứng sự tấn công vào tuyến của Tưởng
Giới Thạch từ Hán Khẩu xuống Liêu Châu đến vùng biên giới Lào Kay,
Việt Nam.
(6) Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ chia chiến trường Thái Bình Dương, Á
Châu và Ấn Độ Dương ra làm hai vùng chiến lược:
A. Vùng Chiến Lược Đông Nam Á, Nam Ấn Độ
Dương, Miến Điện và Ấn Độ do Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông trách nhiệm B.
Vùng chiến lược Đông Á, Thái Bình Dương và Lục địa Trung Hoa do lực
lượng Hoa Kỳ phụ trách.
Vùng chiến lược của Hoa Kỳ lại chia thành
ba khu vực trách nhiệm với ba Bộ Tư lệnh do các tướng lãnh lỗi lạc
của Hoa Kỳ chỉ huy.
1). Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ ở Lục địa Trung
Hoa do Tướng Joseph W.
Stiwell chỉ huy và kiêm nhiệm các chức vụ đồng minh như trên. Sau đó
là Tướng Wedemeyer.
2). Bộ Tư Lệnh vùng Đông Nam Thái Bình
Dương – Southeast Pacific
Area– bao gồm các nước và quần đảo nằm trong đại dương phía nam, kể
cả Úc Châu, New Guinea, Nam Dương, Sumatra và Phi Luật Tân, Đại tướng
(General) MacArthur làm Tư lệnh.
3). Bộ Tư Lệnh vùng Trung và Bắc Thái
Bình Dương – North and Central Pacific Area và tất cả
các khu vực khác không thuộc Tướng MacArthur chỉ huy đều do Hải Quân Đô
đốc (Admiral) Chester W. Nimitz, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương kiêm
nhiệm. Lực lượng Hoa Kỳ, Anh và đồng minh địa phương đánh nhau dữ dội
với các lực lượng Hải, Không và Lục quân Nhật hầu như khắp các nước
và quần đảo lớn trong Thái Bình Dương và trên Lục địa Trung Hoa, trừ
Đông Dương của Pháp, bị Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ cô lập và bị Nhật khống
chế. Cuối cùng, trong đêm rạng ngày 9/3/l945 Nhật “đảo chính” Pháp.
Chính quyền thuộc địa và quân đội Pháp ở Việt, Miên và Lào hoàn
toàn sụp̣ đổ, tan rã.
(7) Câu hỏi được nêu lên là tại sao Hoa Kỳ và
Anh kết liên minh chặt chẽ trong Đệ II Thế Chiến từ Âu Châu, Phi Châu,
sang Á Châu và trên các đại dương nhưng không liên minh với thế lực
Pháp ở Đông Dương? Có tài liệu cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D.
Roosevelt có mặc cảm với chính quyền thực dân Pháp ở đó. Tuy nhiên,
bên trong còn nhiều uẩn khúc. Nên tìm hiểu nguyên uỷ này mới hiểu rõ
hơn về chiến tranh Đông Dương và Việt Nam sau đó.
Ở mặt trận Âu Châu, từ ngày 10/5/1940, Đức
Quốc Xã tung ba Lộ quân A, B, C [Army Groups) và hai Tập đoàn Chiến xa
Panzer (Armored Armies) --tất cả hơn 3,000,000 quân-- tấn công Hoà Lan, Bỉ
và Pháp. Lộ quân B tấn ông chiếm Hoà Lan và phần lãnh thổ phía đông
nước Bỉ. Lộ quân A lớn mạnh nhất, tấn công tuyến phòng thủ của Pháp
vùng Ardennes. Lộ quân C chiếm Luxembourg và tấn công quân Pháp ở chiến
luỹ Maginot vùng Alsace-Lorraine.
Một cánh quân Ý tấn công quân Pháp
vùng núi Alpes (Alpine Mountains) phía đông nam Pháp. Ngày 20/5/1940,
tuyến phòng thủ của Pháp ở Sédan vùng rừng Ardennes, khoảng 140 dặm
đông bắc Paris bị các Quân đoàn Chiến xa Đức chọc thủng. Từ đó, một
Quân đoàn Panzer thuộc Lộ quân A tiến ra Pas-de-Calais vùng biển Manche
tấn công liên quân Đồng Minh gồm Tập đoàn I của Pháp, Lực lượng Viễn
chinh Anh và Quân lực Bỉ (French First Army, British Expeditionary Force
–BEF, and Belgian Army) và phối hợp với Lộ quân B ở đông bắc bao vây cô
lập Dunkerque và lãnh thổ còn lại của Bỉ.
Ngày 31/5/1940, Bỉ đầu
hàng. Từ ngày 4/6/1940 cả hai Lộ quân B và A của Đức và các Tập
đoàn Chiến xa Panzer tấn công dữ dội tuyến phòng thủ mới của Tướng
Maxime Weygand, Tổng Tư lệnh Quân lực Pháp, từ cảng Le Havre theo tả
ngạn sông Seine nối với chiến luỹ Maginot ở nam Luxembourg, phòng thủ
Thủ đô Paris và các tỉnh phía nam trong khi Lộ quân C Đức tiếp tục
tấn công tuyến Maginot. Ngày 10/6/1940 Chính phủ Pháp dời về Bordeaux,
phía nam. Ngày 13/6 Paris bỏ ngõ. Ngày 14/6 quân Đức chiếm Paris. Ngày
16/6/1940 Thủ tướng Pháp Paul Reynaud từ chức. Thống chế Henri Phillippe
Pétain lập chính phủ ở Vichy và điều đình với Đức. Ngày 21/6/1940
Đức Quốc Xã và Pháp ký hoà ước: Pháp đầu hàng. Quân đội Pháp hầu
như tan rã.
Trước đó, trong tuẩn lễ từ 28/5 đến 4/6/1940, Thủ tướng
Anh Churchill cho phép 850 tàu thuỷ Anh, đủ cỡ, cập bến cảng Dunkerque
di tản 338,000 dân Pháp và Bỉ sang Anh tị nạn, trong đó có gần 140,000
quân nhân Pháp và Bỉ rã ngũ. Thiếu tướng Charles A. de Gaulle, Tư lệnh
Sư đoàn 4 Chiến xa Pháp và mới được bổ nhậm Thứ trưởng Quốc phòng
trong Chính phủ Reynaud, bay sang Anh trong ngày 17/6/1940. Ở đó, ngày
18/6, de Gaulle tuyên bố thành lập Lực lượng Pháp Tự do (LLPTD -Free
French Forces) để giải phóng đất nước. Như vậy, thời điểm đó Pháp có
hai thế lực: Trong nước là Chánh phủ Vichy của Thống chế Pétain bị
Đức khống chế. Tuy nhiên hầu hết chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông
Dương và Bắc Phi theo chính phủ này. Ngược lại, LLPTD của de Gaulle ở
Anh quốc chừng 10,000 người.
Tướng de Gaulle với cá tính tự hãnh và
lòng yêu nước cực đoan, muốn LLPTD hoạt động độc lập và muốn LLPTD
được đối xử như một đồng minh ngang hàng với Hoa Kỳ và Anh quốc. Thủ
tướng Anh Winston Churchill tuy không thích de Gaulle, nhưng vẫn yểm trợ
LLPTD, trong khi Tổng Thống Franklin Roosevelt không thừa nhận de Gaulle.
Do những bất đồng chính kiến vớí Churchill và thiếu sự yểm trợ của
Roosevelt nên sau khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ phản công quân Đức ở
Bắc Phi tháng 11/1942, de Gaulle rời Luân Đôn, dời bản doanh LLPTD sang
Algers, thủ đô Algérie, tháng 5/1943. Ở đó de Gaulle được các nhà
chính trị và tướng lãnh Pháp trong nước và thuộc địa ủng hộ, trừ
chính quyền thuộc địa Đông Dương. Khi Đồng Minh đổ bộ Normandie
(Operation Overlord 6/6/1944), LLPTD của de Gaulle đã lên đến trên 400,000
người. Tuy nhiên trong cuộc đổ bộ này chỉ có 900 quân Nhảy Dù Pháp
cùng nhảy chung với Lữ đoàn Đặc biệt của Không quân Anh (the British
Special Air Service –SAS). Đó là đơn vị duy nhất của Pháp tham gia cuộc
đổ bộ Normandie.(8)
Roosevelt không công nhận de Gaulle với những
quyết định và hành động thấy rõ:
Thứ nhất, về kế hoạch Overlord đổ bộ Normandie của Đồng Minh,
Roosevelt khuyến cáo Churchill không cho de Gaullle biết. Tuy nhiên
Churchill cần sự tham chiến của LLPTD ở Âu Châu, đã mời de Gaulle sang
Luân Đôn hội diện ngày 4/6/1944 và cho de Gaulle biết.
Thứ hai, Roosevelt muốn đặt “lãnh thổ Pháp giải phóng” dưới sự
quản chính --hay uỷ trị-- của một Chính phủ Hành chánh Quân sự các
Lãnh thổ bị Chiếm đóng (Allied Military Government of Occupied
Territories) cho đến khi Pháp tổ chức bầu cử chính phủ mới. De Gaulle
nổi giận. Ngày hôm sau, 5/6/1944 Ông tuyến bố LLPTD sẽ lãnh đạo một
nước Pháp giải phóng.
Điều bất ngờ đã diễn ra chỉ hơn một tuần sau
cuộc đổ bộ Normandie làm thay đổi cục diện. Ngày 14/6/1944, khi các
cánh quân Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ đang đánh nhau dữ dội với quân Đức ở
cả khu vực Normandie, de Gaulle đột ngột về Pháp với các cấp lãnh
đạo LLPTD.
Ông đến thành phố nhỏ Bayeux, mới tái chiếm ngày 7/6/1944,
là nơi Tướng Sir Bernard Law Montgomery, Tư lệnh Lộ quân XXI (21st British
Army Group), Tư lệnh Mặt trận Normandie đặt BTL/HQ, cách bãi đổ bộ
chừng 5 dặm và thành phố Caen chừng 12 dặm. De Gaulle chỉ định sĩ
quan tuỳ viên là Francois Coulet thành lập chính quyền “Hành Chánh Dân
Vụ” --French Civil Administration-- tạm thời lấy Bayeux làm thủ đô, nên
gọi là “Bayeux Administration”. Sĩ quan và đơn vị Đồng Minh trong vùng
hành quân, lúc đó và sau đó, đều liên lạc với Uỷ viên Cộng hoà
Coulet --“Republican Comissionner”. (9) Pháp không rơi vào tình trạng bị
“uỷ trị”.
Điều quan trọng hơn là Đại tướng Dwight D.
Eisenhower, Tổng Tư lệnh Lực lượng Đồng Minh ở Âu Châu, nhiều lần tiếp
xúc riêng vớí de Gaulle, đã có những quyết định khác hơn Roosevelt:
để Tập đoàn I (French First Army) của LLPTD, mới tái lập, do Tướng Jean
de Lattre de Tassigny chỉ huy, cùng với quân Đồng Minh phản công quân Đức
ở Bắc Phi năm 1942 và tái chiếm Pháp ở mặt trận phía Tây –Western
Front-- cuối năm 1943. Eisenhower cũng đồng ý sẽ để cho LLPTD của de
Gaulle tiến vào Thủ đô Paris trước. Sư đoàn 2 Chiến xa (2nd Armored
Division) LLPTD do Tướng Philippe Leclerc de Hautelocque chỉ huy, đổ bộ lên
Normandie ngày 1/8/1944 phối thuộc Tập đoàn I Hoa Kỳ của Tướng Omar
Bradley tiến đánh Paris.
Ngày 25/8, Tướng Đức Dietrich von Cholitz, đầu
hàng. De Gaulle vào Paris với Tướng Leclerc. Hôm sau, ngày 26/8/1944,
LLPTD diễn binh ở Champs Elysées. Cuối cùng, ngày 29/8/1944, Anh Quốc
và Hoa Kỳ cùng thừa nhận LLPTD. Ngày 10/9/1944, LLPTD thành lập Chính
phủ Lâm thời Cộng Hoà Pháp Quốc với de Gaulle là Thủ tướng.
Sau đó, liên quân Đồng Minh tiến đánh vào
lãnh thổ Đức.
Ở mặt trận “phía Đông” quân Liên Xô Nga
tiến nhanh hơn quân Đồng Minh ở mặt trận phía “Tây”. Nằm trong cánh
quân này, Tập đoàn I Pháp hơn 320,000 quân của Tướng Jean de Lattre
chiếm nhiều vùng lãnh thổ của Đức. Quân Đức khắp các mặt trận thu
hẹp và tan rã dần. Chắc chắn sẽ chiến thắng, lúc đó Đồng Minh Hoa
Kỳ-Anh-Liên Xô Nga dự định họp ở Yelta để quyết định chia cắt nước
Đức và phân vùng ảnh hưởng và quản chính các lãnh thổ bị quân Đức
Quốc Xã chiếm đóng và của chính lãnh thổ Đức cho các lực lượng
Đồng Minh, đồng thời quy định cơ chế Tổ chức Liên Hiệp Quốc (United
Nations).
Thứ ba, dù là Thủ tướng Pháp, de Gaulle không được Đồng Minh
Hoa Kỳ-Anh-Nga mời tham dự Hội nghị Yelta tháng 2/1945. Trước đó,
Roosevetl yêu cầu Churchill và Stalin không mời de Gaulle vì sự hiện
diện của ông này chỉ thêm rắc rối và không thích nghi.
(10) Tuy vậy,
trong hội nghị này, Churchill viện nhiều lý lẽ giúp cho Pháp được
chia vùng quản chính một phần lãnh thổ nước Đức và Thủ đô Berlin
đồng thời trở thành một trong năm “Uỷ viên Thường trực”của Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc có quyền “phủ quyết”. Nhưng không lâu sau đó,
chính Churchill cho rằng de Gaulle là kẻ phản bội và là kẻ thù nguy
hiểm nhất của Anh quốc.
(11) Đầu tháng 5/1945, quân Đồng Minh bao vây
Thủ đô Berlin của Đức Quốc Xã, Hitler tự sát. Ngày 8/5/1945 Đức đầu
hàng vô điều kiện. Trước đó, ngày 12/4/1945, Tổng thống Roosevelt từ
trần. Người kế vị, Tổng thống Harry S. Truman cũng gặp phải sự đối
dầu cứng rắn của de Gaulle. Truman ngán ngẩm de Gaulle và dùng danh từ
nặng với ông này.
(12) Viện trợ cho Pháp theo kế hoạch Marshall cũng
hạn chế. Vì vậy, de Gaulle căm hận Hoa Kỳ lẫn Anh, chờ dịp trả hận.
Chính quyền Pháp ở Đông Dương tiếp tục bị cô lập. Thứ tư, ba cường
quốc Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp Hội nghị Potsdam tháng 7/1945 quyết
định về lãnh thổ Việt Nam sau chiến tranh, cũng không mời de Gaulle tham
dự.
Trong hội nghị, Đồng Minh quyết định chia đôi Việt Nam: Lực lượng
Quốc Dân Đảng Trung Hoa được uỷ nhiệm giải giới quân Nhật phía bắc
Vĩ tuyển 16. Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông phụ trách phía nam
vĩ tuyến này. Như vậy Đồng Minh quyết định chấm dứt vai trò Pháp ở
Việt Nam mà không cần cho Pháp biết. Điều này là một sĩ nhục lớn
cho Pháp làm de Gaulle nổi giận dữ dội. Ông này tuyên bố “Pháp đã
từng đổ máu trên chiến trường Việt Nam, nhất quyết Pháp sẽ trở lại
Việt Nam.”
(13) Chẳng những đã thực hiện lời hứa mà nhiều dịp sau
đó de Gaulle còn gián trả cho các... ân nhân Anh và Hoa Kỳ những đòn
chính trị và ngoại giao đau điếng mà các thế hệ kế tiếp không thể
quên. Chỉ riêng Việt Nam phải nhận chịu cuộc chiến đẫm máu sau đó.
Đất nước Việt Nam nhược tiểu nhiều lần bị các thế lực cường quyền
chia cắt. Dân Việt bị áp bức từ mọi phía, chia rẽ và thù hận nhau
triền miên.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết