BỆNH MÙ LÒA
Nguyễn-Châu
(San Jose).
Trước 30 tháng Tư 1975, tại miền Nam và tại Mỹ, Pháp v. v... đã có
khá nhiều người bị mù lòa mà thuốc men và kỹ thuật chữa trị của Thế Giới Tự Do
không chữa nổi. Chứng mù của một bộ phận trí thức miền Nam Việt Nam, của nhóm
phản chiến Hoa Kỳ, của một vài tài tử, ca sĩ, của một số triết gia Pháp, Đức,
của một số tu sĩ đầy vọng tâm... Bệnh mù của họ kéo dài gần ba thập niên, tưởng
đã trở nên kinh niên bất trị, nhưng không ngờ Cộng sản Việt Nam sau khi xâm
chiếm Nam Việt Nam khoảng hai năm, đã phát minh được phương thuốc chữa bệnh mù
cho hơn 20 triệu người miền Nam, cho hầu hết những người chủ trương phản chiến
hăng say nhất như Joan Baez, Jane Fonda... Bệnh mù của Kissinger và một số nhà
ngoại giao Tây Phương cũng được chữa lành. Họ được sáng mắt khi Cộng sản Việt
Nam thi hành chính sách man rợ đối với “đồng bào ruột thịt miền Nam” như lùa
hết quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù được mở ra dọc
theo núi rừng từ Nam ra Bắc, cưỡng bách dân miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới, thực
chất là một cuộc đày ải để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải của họ tại các
thành phố... Hàng triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi, cả triệu người bỏ
mạng trên biển Đông, trong rừng sâu, tại các vùng kinh tế mới “Khổ Thấy Mẹ”
(Kinh Tế Mới) và trong các nhà tù mang mỹ danh “cải tạo”.
Chính sách tàn bạo và thâm độc của Cộng sản nói chung và Cộng sản Việt Nam nói
riêng là một thần dược chữa chứng mù lòa cho những kẻ bị huyền thoại Giải Phóng
mê hoặc, cho những người mù lòa do tham vọng cá nhân, chức quyền bốc hỏa làm mờ
lương tri. Đa số những người mù lòa trước năm 1975 đã được sáng mắt để nhìn rõ
thực chất của Cộng sản, thấy rõ “tính ưu việt” của tập đoàn “sinh ra trong đói
nghèo; lớn lên bằng chiến tranh, giết hại; nuôi sống bằng sự dối trá và đang
hấp hối bởi sự bất tài, bất lực và tham nhũng”...
Tự nhận là đỉnh cao trí tuệ, sau 29 năm thống nhất lãnh thổ, xây dựng đất nước
trong hòa bình, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thực hiện được CÔNG VIỆC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO cho nhân dân, mặc dù tài nguyên đất nước vô cùng phong phú:
rừng vàng, biển “đô la” từ dầu mỏ và hải sản, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới cấp cho
chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo 54 triệu Mỹ Kim, và tiền Việt Nam Hải Ngoại
“chi viện không hoàn trả” cho thân nhân mỗi năm hơn 3 tỷ Đô la Mỹ. Tiền ấy đi
về đâu, mà đại đa số nhân dân vẫn đói nghèo đến độ mẹ phải bán con nhỏ, con lớn
9-10 tuổi qua Cam-Bốt làm điếm, nhà Nước thì bán hàng chục ngàn phụ nữ qua làm
vợ người Đài Loan, xuất khẩu nhân công, xuất khẩu con nuôi quốc tế? Trước tình
cảnh này, nhiều cán bộ cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số
trí thức Cộng sản cũng đã sáng mắt nhìn thấy rõ bản chất ác quỷ của Đảng ta, đã
liều thân lên tiếng và đã bị Đảng tru diệt không nương tay...
Thế mà tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn một số người Việt mang danh tỵ nạn chưa
được sáng mắt, vẫn mắc chứng mù lòa mà nguyên nhân chính là do lòng tham tiền
bạc, hoặc mơ ước chút danh vị nào đó từ phía Cộng sản. Trong số người mắc chứng
mù lòa này, ngoài một số cựu tù nhân chính trị đi theo thành phần “HO” không có
ý thức quốc gia, không lý tưởng, vừa mới qua Mỹ được vài tháng đã quay trở lại
Việt Nam làm việc cho kẻ đã muốn giết mình (Chu Tất Tiến – Sau 25 Năm Nhìn Lại
Việt Nam... trang 77), còn có một số luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, chủ báo,
nhà văn, nhà thơ, thương nhân... Số người này tìm cách len lỏi vào cộng đồng tỵ
nạn để tuyên truyền cho chế độ Cộng sản bằng cách này hay cách khác, thầm lén
hoặc lộ liễu. Họ lập ra những tổ chức “nhân đạo” với mục đích bòn rút tiền của
Việt Nam Hải Ngoại đem về trong nước nói là “Nuôi trẻ mồ côi”, “giúp người tàn
tật”, tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ cứu trợ “thương phế binh” không phân biệt
Bắc Nam, “xây trường học, sắm bàn ghế cho học sinh”, “mua thuốc và đưa các đoàn
y tế về chữa bệnh, chủng ngừa, chữa bệnh mù tại Việt Nam”... Người mù tại Việt
Nam được sáng, nhưng số người hải ngoại tham danh hám lợi này lại không sáng
mắt, cho nên họ đã hành động như nhà nước Cộng sản Việt Nam là một con số không
to tướng, vì tất cả mọi vấn đề từ ấm no, học hành, y tế, trẻ mồ côi người tàn
tật tại quốc nội đều do ngân sách của Việt Nam Hải Ngoại chi ra hết. Các viên
chức Đảng và Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khỏi phải bận tâm gì
đến đời sống nhân dân, để chăm lo bòn rút công quỹ cho đầy túi riêng, đưa Việt
Nam đạt vị trí thứ ba trong nấc thang tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á.
Số người hải ngoại tối mắt vì đeo kính hiệu Hòa Hợp Hòa Giải. HHHG là chiêu bài
của cái gọi là Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời sau 30-4-1975 có mục đích dụ dỗ
quân dân cán chính miền Nam đi trình diện để nộp mình vào ở tù một cách thoải
mái, Cộng sản khỏi đi lùng bắt, tránh sự rối loạn nguy hiểm. Bằng chứng là sau
khi đưa hết vào trại tù, thì Cộng sản không còn nhắc lại nữa, chỉ còn một số
người mù tại hải ngoại đứng đầu là Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng hô hào HHHG mà thôi.
Tháng 7 năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là tiếp tục con đường xã
hội chủ nghĩa và cảnh giác trước âm mưu “Diễn Tiến Hòa Bình”, vẫn bảo vệ chế độ
độc đảng bằng mọi giá, kể cả bỏ tù và triệt hạ các Đảng viên Cộng sản phản
tỉnh, phê bình sai trái của Đảng trong việc trị quốc. Hầu hết các thành viên
của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng bị uy hiếp, phải tìm cách trốn thoát ra
ngoại quốc. Các tay cầm cờ ba màu ra đón quân “Giải Phóng” vào Sài Gòn như Đoàn
Văn Toại, chẳng bao lâu sau đó bị Cộng sản bắt giam và đánh đập tàn nhẫn... Sau
khi được thả ra, Toại vượt thoát được sang Pháp, “bệnh mù”ø khỏi được một thời
gian. Sáng mắt, Toại tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trong cuốn “Le Goulag
Vietnamien” (Nxb. Laffont, Paris 1979). Trong nhà tù, Đoàn Văn Toại đã gặp một
cựu chiến binh Cộng sản 82 tuổi, cũng bị giam, mặc dầu cuối thập niên 1920, ông
ta là một trong những lãnh tụ và sáng lập viên của Đảng Cộng sản Đông Dương...
Ở Pháp một thời gian, không hiểu sao, Đoàn Văn Toại bị mù trở lại. “Bệnh mù tái
phát” làm cho Toại có luận điệu nịnh bợ Cộng sản và đã bị trừng trị đích đáng.
Từ thập niên 70 đền 80 Đảng và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi
những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách
mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc,
bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ Trưởng Y-Tế Nguyễn Thượng Nhân đã phát biểu
là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!
Thế nhưng đến thập niên 1990, thì Đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam đã gọi họ
là “Việt Kiều Yêu Nước” và một cách âu yếm hơn là “Khúc ruột ngàn dặm”. Lập
tức, trong những năm đầu của thập niên 90, ở Pháp, và Nam California, Hoa Kỳ,
bỗng nẩy sanh một khuynh hướng mong muốn Hòa Hợp Hòa Giải với chính quyền Cộng
sản Việt Nam. “Bằng những bài báo dùng ngụ ngôn bóng bẩy kêu gọi kết hợp trong
nước và ngoài nước, bằng những tập san xuất bản đều đặn với những bài xã luận
nói về hợp sông, hợp suối, hợp lưu, bằng cách cho đăng những bài viết của những
người Cộng sản đích thực như Trần Bạch Đằng, một nhà lý luận Cộng sản chuyên
nghiệp, hay của những người có nợ máu với dân chúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường,
nhóm chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải này mong muốn có quan hệ tốt với Cộng sản,
quên thù hận xưa, để cùng tiếp tay xây dựng đất nước. Một vài nhân vật nổi
tiếng trong giới Y khoa và báo chí cũng tuyên bố kêu gọi về nước làm chính trị
và xã hội.” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-90).
Những tổ chức tranh đấu trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại gọi nhóm này là cơ
hội chủ nghĩa, hoặc tay sai Cộng sản Việt Nam, thậm chí còn buộc tội họ là Việt
gian. Vì trên lý thuyết, nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thực tâm muốn cho
đất nước thoát nghèo nàn và lạc hậu, thực tâm quên hận cũ, thù xưa, chào đón
người Việt hải ngoại về cùng chung tay phục hưng đất nước, thì đó là một phước
lớn của dân tộc Việt. Nếu được như thế, thì sẽ không còn phân biệt LÝ LỊCH quốc
gia hay cộng sản, không còn tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm bị giam giữ,
tra tấn, ngược đãi trong các nhà tù; nhà cửa của người vượt biển được chính
quyền Cộng sản trả lại nguyên vẹn, vô điều kiện, người bất đồng chính kiến
không bị theo dõi, bắt giam hoặc hãm hại một cách bí mật...
Nhưng trên thực tế, người Cộng sản chỉ mong hải ngoại mang tiền về mà không
mang theo chính trị. Cộng sản Việt Nam chỉ dùng những người đem lại lợi ích
tiền của về trong nước và tuyên truyền chính trị cho họ ở hải ngoại mà thôi.
Những kẻ mơ mộng, thơ ngây hoặc những tay ham mê chút lợi danh, vội vã trở về
hợp tác với Cộng sản, chỉ sau một thời gian ngắn, đều phải “trở lại hải ngoại
sống âm thầm, xa lánh bạn hữu và cộng đồng”. Kinh nghiệm cho thấy khi một người
thân Cộng ở hải ngoại, đã lộ mặt, bị cộng đồng lên án, tẩy chay, khi họ không
còn chút uy tín nào nữa, thì người Cộng sản lập tức bỏ rơi. (Nhiều trường hợp
cụ thể, về nạn nhân của hòa hợp, giao lưu, thiện nguyện, cứu trợ vân vân...
được nêu rõ trong tác phẩm của Chu Tất Tiến, từ trang 92 đến 95).
Chủ trương “hòa hợp hòa giải” với Cộng sản Việt Nam của kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng
qua nhóm Thông Luận, nhóm Hợp Lưu Giao Điểm... đã bị hầu hết Cộng Đồng Người
Việt khắp nơi xem là ngây thơ và mù quáng, vì trên thực tế Cộng sản Việt Nam
không bao giờ chấp nhận đa nguyên, họ bảo vệ Đảng bằng bất cứ giá nào. Ngay cả
với người đã nằm xuống, Cộng sản Việt Nam vẫn nuôi mối hận thù và đã ngược đãi
họ. Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa đã bị phá, bức tượng Tiếc
Thương, một tác phẩm điêu khắc của Nguyễn Thanh Thu dựng trước cổng nghĩa
trang, đã bị Cộng sản Việt Nam tiêu hủy đi.
Một số người Việt hải ngoại gọi là Việt Kiều Yêu Nước tình nguyện về quê hương
giúp đỡ người dân tật nguyền, đau ốm, nghèo khổ... sau nhiều lần đi về tự do
thoải mái, họ đã bị nghi ngờ là nằm trong kế hoạch mà Cộng sản Việt Nam gọi là
“diễn tiến hòa bình” của đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội. Cuối cùng, họ gặp
khá nhiều phiền hà, như bị rút giấy phép, bị gọi đến trình diện, đến “làm việc”
với công an, với Thành ủy, nhận chỉ thị về các hạn chế sinh hoạt của họ vân
vân. Kết quả: họ phải tìm cách “bỏ của chạy lấy người”. Những công tác thiện
nguyện do người Việt hải ngoại hoặc người ngoại quốc thực hiện ở Việt Nam, nếu
chỉ trong giai đoạn ngắn, thì ít gặp trở ngại, nhưng nếu có kế hoạch lâu dài mà
Cộng sản chưa gài được người vào tổ chức, thì nhất định sẽ gặp khó khăn và nguy
hiểm. Giáo sư Chu Tất Tiến trong “Sau 25 năm nhìn lại Việt Nam...” trưng dẫn
trường hợp “ông Giám đốc Hãng Citroen Pháp Quốc, khi sang Việt Nam tìm thị
trường, lang thang đi mua những cái “name tag” (tấm thể bài) của lính Mỹ cũ bán
đầy ngoài đường, đã bị bắt giữ, vì nghi ngờ là gián điệp đi tìm tù binh! Ông đã
chán nản bỏ sang Thái Lan và chỉ bay qua Sài Gòn để làm việc trong ít ngày rồi
biệt luôn” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-92).
Những tên mù trong hẻm Hợp Lưu Giao Điểm ở California, khi về Việt Nam, những
tưởng được biểu dương, ưu ái, nào ngờ bị xem như chó ghẻ. Lý do đơn giản: Cộng
sản nghi ngờ bọn này là cò mồi của kế hoạch “Diễn Tiến Hòa Bình” mà chúng đang
hết sức cảnh giác đề phòng. Vì mù lòa cho nên nhóm này không thấy được rằng
Cộng sản Việt Nam không tin ai cả, ngay cả đồng chí với nhau ở Trung Ương cũng
chơi nhau sát ván, tìm cách hãm hại lẫn nhau, thì biết tin ai?
Đại Tướng Cộng sản Võ Nguyên Giáp nổi danh với trận Điện Biên Phủ, có số phiếu
cao nhất trong kỳ Đại Hội Đảng toàn quân tháng 9-1986, từng bị các đồng chí
ganh tị, phanh phui lý lịch, để tìm cách hạ bệ. Võ Nguyên Giáp bị nghi là tay
sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản
lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi
quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không
thể chấp nhận được đối với người cách mạng...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban
Ngày” tr.350).
Võ Nguyên Giáp, bí danh là “Văn” bị kết tội âm mưu lập “bè phái chống đảng” rồi
bị thất sủng... đã âm thầm chịu đựng hàng chục năm, nay 93 tuổi, kề miệng lỗ,
mới dám liều mạng viết Cáo trạng kêu oan, đòi “công đạo” “ (Thư của Võ Nguyên
Giáp ngày 3/1/2004).
Những người mù “bẩm sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam” như ông bà Vũ Đình
Huỳnh, thân sinh của Vũ Thư Hiên, đến năm 1967, mới được Đảng giải phẫu và sáng
mắt ra để nhìn thấy nguyên hình của Cộng sản Việt Nam: “... chúng nó đến, con
tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám nữa kia. Tay bố to, còng không
vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa cho bằng
được”. Đây là lời kể của bà Vũ Đình Huỳnh về cảnh công an đến nhà bắt ông Vũ
Đình Huỳnh, người đã nuôi dưỡng, cận kề chăm sóc cho Hồ Chí Minh. Vũ Thư Hiên viết:
“Trong lòng bà, ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt...” (ĐGBN, tr. 28).
Bệnh mù của gia đình Vũ Thư Hiên được chữa khỏi sau 9 năm bị Cộng sản tù đày,
cả nhà bị khổ đau, tan tác. Vũ Thư Hiên đã thấy và đã nói lên cho những người
khác:
“Nhờ
đảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình
nhìn rõ sự vật đến thế. Tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bên ngoài, lớp vàng
mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.
“Cũng
nhờ đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi
lại mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát
cánh cùng ông trong những năm gian khổ, bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm
nhiên không hề can thiệp, dù chỉ tìm hiểu ngọn nguồn?... (ĐGBN, tr. 456).
Một thí dụ cụ thể về “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải”: đó là
trường hợp một bác sĩ có tiếng ở Nam California đã có công đón tiếp một phái
đoàn cộng sản qua Hoa Kỳ tính toán làm ăn. Ông ta cũng cả gan thách thức cộng
đồng Người Việt bằng những lời cổ động cho việc hòa hợp hòa giải, rồi thách
cộng đồng nếu có 500 người biểu tình chống lại việc ông về Việt Nam hợp tác thì
ông sẽ bỏ ý định về. Lập tức Cộng Đồng Người Việt phản ứng bằng cách tập hợp
hơn một ngàn người trước cửa phòng mạch của ông cựu sĩ quan quân y “ngụy” này
và lên án ông quyết liệt. Tuy nhiên, ông bác sĩ “mù lòa” này đã nuốt lời, tiếp
tục việc về nước, đinh ninh rằng mình đã lập được công chống cộng... đồng hải
ngoại, sẽ được Đảng đón tiếp long trọng, sẽ mời ông vào phòng họp với cơ quan
Nhà Nước cấp cao. Có ngờ đâu, khi ông bác sĩ “mù” này đến phi trường chỉ gặp
được vài nhân viên cấp thấp đến chào hỏi mà thôi, không có một sự gọi là đón
tiếp nào. Tại Việt Nam, ông bác sĩ “mù” này phải mò mẫm tự mình đi xin xỏ, xin
giấy phép... khi muốn gặp một cơ quan nào cần giao dịch. Tại sao “Nhà Nước ta”
lại nhạt nhẽo với các “Việt kiều yêu nước này”? Điều này người sáng mắt thấy
được ngay. Đó là vì tên tuổi của ông bác sĩ này đã bị Cộng Đồng Người Việt xóa
đi, còn giá trị nào nữa để Đảng ta lợi dụng cho việc tuyên vận chiêu dụ hòa hợp
hòa giải. Ông bác sĩ này đã bị hải ngoại tẩy chay, thì trong nước dùng làm cái
gì? Ngoài ra, có thể Cộng sản Việt Nam còn suy luận rằng: nó là sĩ quan “Ngụy”,
làm bác sĩ, được Cộng Đồng Người Việt nuôi và giúp cho thành giàu có, thế
mà khi mê đắm công danh, nó còn phản lại Cộng Đồng, thì Đảng làm sao tin được
một tên đã công khai phản chủ nó là Cộng Đồng Hải Ngoại.
Cho đến nay, Cộng Đồng Hải Ngoại đã có ít nhất là ba bác sĩ mắc bệnh lòa. Ông
thì lòa vì lợi lộc, tiền bạc, ông thì lòa vì lời tâng bốc và hư danh... Ông Họ
Bùi ở Cựu Kim Sơn, từng theo Hương Dương Thu về Hà Nội yết kiến, lần thứ hai bị
Cộng sản bắt giam nửa năm vì tội giao lưu; ông họ Phạm Phụ Khoa, quận Cam thì
chẳng còn ai đếm xỉa; còn ông Nguyễn Lão Khoa xứ Cao Bồi bị thong manh, làm bồi
bút, đi yết kiến Nguyễn Đình Bin, về Việt Nam hứa hẹn nhiều giúp đỡ, có lẽ vì
lo sợ “không biết bỏ nắm xương tàn nơi đâu” trên đất Hoa Kỳ. Sau khi đi yết
kiến thượng cấp tại Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Lão Khoa về Hoa Kỳ, lại tìm cách
lân la với Cộng Đồng Hải Ngoại, không hiểu ông đã khỏi bệnh chưa?
Những người mù lòa nghèo khổ tại Việt Nam khi được sáng mắt ra thì có thể tự đi
kiếm cái ăn, cái mặc, khỏi phải làm thân khất thực nhục nhằn. Nhưng những người
trong Cộng Đồng Hải Ngoại mù vì lòng tham mà quên chính nghĩa dân tộc và hoài
bão của Cộng Đồng, khi được sáng mắt ra thì đã muộn màng. Xin anh linh các
Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa nhân ngày Quốc Hận, hộ phù cho những kẻ
mù lòa lương tri sớm được sáng mắt, trở về với chính nghĩa.
NGUYỄN-CHÂU,
San Jose.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết