Tuesday, March 11, 2014

Cái chết của sử gia Phạm Văn Sơn


Cái chết ca s gia Phm Văn Sơn

Văn Nguyên Dưỡng
pvs1K t đó, có thêm hàng trăm tù nhân đi trên nhng chuyến tàu đnh mnh này đã ngã xung các tri tù min Bc, vĩnh vin không còn thy được nhng chuyến tàu xuôi Nam…Trong s nhng người này có S gia Đi Tá Phm Văn Sơn.

DCVOnline gii thiu đến bn đc bài “Cái Chết ca s gia Phm Văn Sơn” ca Văn Nguyên Dưỡng.

Tác gi tên tht là Nguyn Văn Dưỡng, t Vĩnh Đnh cu SVSQ TĐ8/ĐĐ2/BB/ Khoá V-Vì Dân/Th Đức cũng là người tng cng tác vi S gia Phm văn Sơn, b giam 13 năm trong các tri tù CSVN t Nam ra Bc, đã ghi nhn v nhng ngày cui cùng ca ông Phm Văn Sơn ti Tri K2/Tân Lp.

Bn đc có th xem “The Death Of Historian Pham Van Son”, cùng tác gi tại đây.

Sau khi ra khi các tri tù CSVN năm 1988, Văn nguyên Dưỡng sang đnh cư Hoa Kỳ năm 1991. Ông cũng là tác gi ca quyn sách viết bng Anh ng v mươi năm Chiến Tranh Vit Nam “The Tragedy of the Vietnam War: A South Vietnamese Officer’s Analysis” do McFarland & Company xut bn năm 2008.
Một số tác phẩm của nhà sử học Phạm Văn Sơn
Mt s tác phm ca nhà s hc Phm Văn Sơn. Ngun: OntheNet
Trước năm 1975, min Nam, ông Phm Văn Sơn là mt trong rt ít nhng v viết s. B s được nhiu người biết đến nht ca ông là b Vit S Tân Biên.

Tôi hân hnh được làm vic dưới quyn ch huy ca ông t năm 1958 đến 1960. Thi gian này ông mang cp bc Thiếu tá, gi chc v Ch huy trưởng Trường Quân Báo & Chiến Tranh Tâm Lý Cây Mai; tôi mang cp bc Trung úy, là hun luyn viên và sĩ quan an ninh ca Trường. Chính trong thi gian này, ông đã tu chnh b s nói trên và cho tái bn.

Nhng thì gi nhàn ri, tôi đã tình nguyn giúp ông. Tôi được ông gii thiu đến gp ông Lê Ngc Tr, công chc làm vic Thư Vin Quc Gia –lúc đó còn nm trên đường Gia Long– đ nh hướng dn sưu tm tài liu. Ông Lê Ngc Tr còn là mt hc gi, ging sư Ng hc ca Đi hc Văn khoa Saigon, đã ch dn cho tôi tìm được khá nhiu tài liu và sách viết bng tiếng Pháp v thi Trnh Nguyn phân tranh. 

Các tài liu này cũng như nhng tài liu quí giá khác, giúp cho ông Phm Văn Sơn tu chnh Vit S Tân Biên. Thi gian làm vic vi ông, tôi đã hc được ông nhiu điu v viết lách.

Năm 1961, trường Cây Mai đi tên, ch còn là trường Quân Báo. Ngành Chiến Tranh Tâm Lý tách ra riêng, đuc dy riêng mt trường ca ngành này, mi thành lp, mt đa đim khác; do đó, Thiếu tá Phm Văn Sơn cũng được thuyên chuyn v ngành Chiến Tranh Chính Tri… Sau đó không lâu, ông được b nhm vào chc v Trưởng Ban Quân S ca Quân Lc VNCH, thuc B Tng Tham Mưu. Ông ln lượt được thăng đến cp Đi tá và gi nhim v này cho đến trước ngày min Nam sp đ.

Tôi nghĩ rng, vi kh năng ca ông và và dưới s ch đo ca người viết s s trường và kinh nghim như ông, hn là Ban Quân S Quân Lc VNCH đã viết được nhng b s chiến tranh VN cn đi quí giá, nht là binh s thi kỳ sau năm 1954 tr đi. 

Tôi nghĩ như vy vì tôi biết ông Phm văn Sơn rt thn trng, không th khinh xut trong nhim v ca mình và càng không th đ cho thuc cp khinh xut. Ngày trước ông thường bo tôi: “Phi c gng làm sao cho mc đ trung thc và chính xác cao chng nào tt chng đó, như vy nhng điu mình viết v s mi mong có thêm mt chút giá tr. Vic sưu tp nhng s kin, chng tích, tài liu có đ xác tín cao nhiu chng nào thì vic so sánh, nghiên cu, lượng giá, đi chiếu… d chng ny”. 

Đó là l li làm vic nghiêm cn, thn trng ca ông. Vì vy sau này, năm 1972, tôi đã không ngc nhiên khi chiến trường An Lc còn đang sôi đng vi nhng trn đánh đi tuyến ch cách nhau có mt con đường, giành nhau tng góc ph –gia các đơn v VNCH và quân CS Bc Vit– khi nhng cơn pháo kích d di ca đch quân chưa gim, khi không mt chiếc trc thăng nào đáp xung An Lc mà không s tan xác, tôi đã thy ông hin din chiến trường này đ tìm hiu s tht viết v trn chiến khc lit đó.

Quân Chiến Trường An Lc– ca tướng Lê Văn Hưng, đã cung cp cho Đi tá Phm văn Sơn nhng tài liu, s kin “sng” nóng bng, chính xác và đy đ. Tuy nhiên, mun viết cho trung thc hơn, ông đã li trong hm chng pháo vi tôi mt đêm thc trng đ nghe tiếng đn pháo ca đch quân rơi trên đu mình và xung quanh đâu đó, va hi tôi tht chi tiết v nhng s kin ghi trong nht ký hành quân (mi phòng ca B Tư Lnh Hành Quân đu có) k c tài liu, cung t tù binh ca đch bt được trong các trn đánh trước đó.

Sau khi ông ri An Lc, không bao lâu mt trn được gii ta, tôi đến B Tng Tham Mưu đ gp ông thì được biết ông đã ra Qung Tr (*) làm nhim v như đã làm An Lc. 

Như vy ông và nhng sĩ quan thuc cp trong Ban Quân S đã hin din khp chiến trường ln đ tìm s tht viết binh s… Tôi nêu lên nhng chi tiết trên đây mong các bn hình dung được tư cách kh trng ca mt người viết s chân chính, ông Phm văn Sơn, mt người đã thành danh trong gii trí thc VN, đ ri tôi xin k li nhng ngày cui cùng bi đát trước cái chết thm thương ca ông trong lao tù, dưới chế đ bt nhân, tàn đc ca CSVN.

Ngày 30/4/75, như mi người đu biết, Dương Văn Minh, mt tng thng phi hiến (**), tuyên b đu hàng CS Bc Vit vô điu kin, Quân Lc VNCH b bc t, buông súng, tan rã. Mt s tướng lãnh, sĩ quan cp tá, cp úy tun tiết. Tt c nhng sĩ quan còn li min Nam vào lúc đó, b dn vào các tri tp trung tm trong lãnh th min Nam, cùng vi các cp ch huy cnh sát, công chc cao cp, các nhà hot đng chánh tr trong các đng phái min Nam và các v tuyên uý Công giáo, Tin Lành và Pht giáo trong QLVNCH. 

Mt năm sau, CSBV đưa tt c nhng người mà h gi là có “n máu nhiu nht vi nhân dân” ra min Bc, giam gi và bt lao đng kh sai nhng tri giam trong rng sâu nước đc Thượng du và Trung du Vit Bc. Mt s sĩ quan và công chc khác còn b giam gi các tri ci to min Nam.
Tháng 6, năm 1976, đt tù nhân đu tiên b đưa ra Bc, trong đó có tôi, b dn cng dưới khoang ca nhng chiếc tàu thy cn duyên c nh, loi chuyên ch ca quân đi CSBV. Sau 4 ngày 4 đêm, tàu cp Bến Thy thuc Vinh. T đó vào na khuya, chúng tôi b chuyn vào b, ln này thì b dn vào các toa tàu ha dùng đ ch súc vt, lên phía Bc. 

Ngày 15/6/76 — ngày duy nht mà tôi nh sut 13 năm tù– đúng mt năm sau ngày tôi đưa đu vào cùm trường Don Bosco Vp, trên chuyến tàu ha nói trên, qua mt k h tht nh ca toa tàu, tôi đã nhìn thy nhà thương Bch Mai và ga Hàng C, nhng đa danh ca Hà Ni mà tôi đã được đc qua trong các tác phm ca T Lc Văn Đoàn thu tui hc trò. Hai sĩ quan tù nhân cp Tá đã ngp th chết trong toa ch súc vt, quãng gia đường Vit Trì – Yên Bái. K t đó, có thêm hàng trăm tù nhân đi trên nhng chuyến tàu đnh mnh này đã ngã xung các tri tù min Bc, vĩnh vin không còn thy được nhng chuyến tàu xuôi Nam…Trong s
nh
ng người này có S gia Đi Tá Phm Văn Sơn.
Sử gia Phạm Văn Sơn, cựu Đại tá Đại tá Phạm Văn Sơn là trưởng Khối Quân Sử, một bộ phận của phòng 5/ Bộ Tổng Tham Mưu/ Quân lực VNCH. Nguồn: OntheNet
S gia Phm Văn Sơn (1915-1978), cu Đi tá trưởng Khi Quân S (Nghiên cu), phòng 5, B Tng Tham Mưu, Quân lc VNCH. Ngun: OntheNet

Mt s tù nhân trên dưới mt ngàn người trên các toa tàu này được đ xung ga Yên Bái; tôi cũng nm trong s “tù” này. T ga Yên Bái, b đi CS dùng xe quân s Molotova chuyn chúng tôi theo đường b lên Sơn La giam gi các tri giam “quân qun” dành cho các sĩ quan min Nam. Tôi đó được mt năm ri b chuyn sang tri giam công an, cũng Sơn La, trong 2 năm na.

Năm 1979, trước cuc chiến ngn ngi gia Trung Cng và CSVN không bao lâu, tt c chúng tôi — nhng tù nhân chính tr nhng tri giam trên các tnh biên gii phía Bc và Tây Bc được chuyn v các tri giam vùng Trung Du và các tnh phía nam, tây nam Hà Ni, như các tri giam Tân Lp (Vĩnh Phú), Nam Hà (Nam Đnh), Thanh Phong (Thanh Hóa, Ngh Tĩnh)… S chuyn dn tri như vy làm cho đi sng lao tù chúng tôi đã cơ cc càng cơ cc hơn, ăn đã đói càng đói hơn, mi người không có được đến 4 tc chiu ngang đ có th nm nga, phi nm nghiêng chen chúc ln nhau mà ng sau mi ngày lao đng nng nhc, nên phòng giam nào cũng hôi hám, thiếu ánh sáng, thiếu không khí đến ngp th. Bao nhiêu chng bnh ngt nghèo nguy him đã bc phát trong anh em chúng tôi, thuc men không có đ tr bnh. Mng sng ca mi người b T Thn rình rp tng ngày, tng đêm.

Đa s anh em chúng tôi được đưa v tri giam Tân Lp do công an qun chế, bây gi đt dưới s ch huy ca Trung Tá Công an Nguyn Thùy. Tân Lp là mt h thng tri gm mt tri chính và nhiu phân tri thường được gi là K, đánh s t K1 đến K7, nm ri rác hai bên b mt nhánh sông bt ngun t sông Lô, chy qua xã Tân Lp, tnh Vĩnh Phú. Tôi đến Tân Lp ngày nào năm đó, đã không còn nh na, ch nh là lúc đó tri đã bt đu tr lnh… Dù vy, sau mi bui lao đng vn phi theo mi người ra nhng bãi vng trên sông này đ tm trước khi v tri. Chính các bãi tm này chúng tôi mi thy hình hài khn kh ca nhau, vì mi người đu trn trung. 

Trong khi s tù nhân t Sơn La mi chuyn v, người ngm còn chút tht da, thì, nhng anh em tù đã tri giam K2/Tân Lp t my năm trước thân th ch còn da bc xương… Đến hai bên mông là nơi lý ra phi còn có chút tht, cũng ch thy có xương xu nhô hn lên, trông tht thm não. Khi tm ai cũng rét run, vì cái lnh ca tri và nước làm cho mi người thu but rut gan…bi trong người không còn năng lượng đ kháng nào na.

Tôi nói lên nhng điu này đ ch rõ chế đ qun chế, đi x vi tù nhân chính tr ca tri giam Tân Lp cay nghit hơn bt c tri giam nào mà chúng tôi đã tri qua trước đó, mc dù chúng tôi biết rng vi chế đ tp trung ci to, tri giam là nơi CSVN giết người kín đáo nht, ít đ máu nht, bng áp đt kh sai vt sc, bng b đói trường kỳ… khiến cho tù nhân chết mi mòn vì kit sc, vì bnh hon hay vì nhng lý do m ám khác na. 

Không mt ai trong chúng tôi, lúc đó, thoát khi s thách đ ca đnh mnh, ca cái chết đến bng nhiu cách bt c lúc nào. Tân Lp, Trung tá Nguyn Thùy và cán b Công an tri giam đã làm hơn nhng điu chúng tôi đã nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính tr chết trong các phân tri Tân Lp nhiu hơn bt c nơi nào khác. Riêng phân tri K2, my tháng mùa đông cui năm 1979, đu năm 1980, mi ngày ít nht cũng có 1 đến 2 tù nhân chết; con s tù nhân đến bnh xá (không có mt th thuc men nào đ tr bnh), hng ngày hơn 200 người, mc đích không phi là đ xin tr bnh, nhưng đ được khám, chng nhn là là “có bnh”–khi đi lao đng– được ngày nào đ ngày đó, mc du h là nhng người bnh thc s cn phi được điu tr và min làm vic… ch đng nói là lao đng nng.

Ti K2/Tân Lp, trong hoàn cnh chung như vy, tôi đã gp li Đi tá S gia Phm Văn Sơn. Tôi đã nhìn thy tn mt nhng ngày sng bi đát cui cùng ca đi ông.

Chng mt tháng sau khi đến K2, mt bui trưa, tôi và mt người bn tù khác cùng đi đến phiên phi lên phn xá gánh cơm v cho anh em trong đi ăn sau bui lao đng; trong khi ch đến lượt mình nhn cơm, tôi đã vơ vn đến bên ngoài hành lang ca mt căn phòng nh cnh phn xá. Tôi thy mt người, nhn ra ông, mà c ng đôi mt mình đã nhìn lm. 

Ông chính là Đi tá Phm Văn Sơn, v ch huy trưởng ngày xưa ca tôi. Ông ch còn là cái bóng âm thm, mt cái xác sp mc nát, bt đng, câm nín sau chn song st, bên trong ca s ca căn phòng “cách ly”. Duy đôi mt hin hòa thì vn tinh anh như thu nào. Rõ ràng ông đang hin hu như mt tĩnh vt có linh hn sáng sut, đang nhìn ngm mi s vt đi thay, quay cung điên đo vi nhng nhn đnh xuyên sut, nhng ý nghĩ sâu sc, cao xa nào đó mt cách hu thc… Vì chính đôi mt nhìn lng sâu và sáng kia là “ca s linh hn” cho tôi biết điu đó v ông.

Tôi nhìn ông và ông nhìn tôi.
Trong mt thoáng, quá kh như chi dy; không biết vì mng r hay vì ng ngàng xúc đng, tôi cht but ming gi lên:
- Thy!
Ch mt tiếng ri lng thinh. Tôi còn biết nói gì hay làm gì hơn khi mà… ai cũng biết rng mình bt lc trước hoàn cnh bt hnh nào riêng ca mi người. Mt ông hình như sáng hơn, ông đã nhn ra tôi. Trong gương mt đã biến dng, sn sùi ca ông, vi đôi môi kh chp đng, tôi đã nhìn thy mt n cười. 

Ông đã hiu rõ tâm trng ca tôi, tuy ông lng l không nói mt li nào.

Không mt du hiu, ông ri song ca s. Ch chưa đy mt phút sau, cánh ca ra vào ca căn phòng nh –đang khép h– m rng ra. Ông đng ngưỡng ca, thng thm như đng gia giang san ca mình, mt giang san thu hp đến tht nh nhoi, lnh lo, cô đơn… Vi thế đng vng vàng như vy, ông đã cho tôi ý nghĩ là, chính nơi này, nơi tht nh nhoi này, là nơi ông đã tìm ra nguyên y, phương trình gii quyết và kết lun cho mt nan đ khó gii quyết nht, hay ông đang p mt điu gì tht to tát trong tư tưởng ca ông

Nhn xét ca tôi không th nhm ln vì ngày xưa nhiu ln tôi đã nhìn vào mt và tư thế ca ông mà đoán đúng nhng gì ông đnh ra lnh cho tôi hay mun nói cùng tôi. ln gp li này, tôi cũng cm nhn được ý nghĩ ca ông như thu đó.

Tôi đnh bước vào hành lang, tiến đến gn ông nhưng kp thy ông nhìn tôi kh lc đu. Tôi dng li và ghi nhn đy đ hơn tín hiu ca căn bnh ghê gm đã và đang tàn phá cơ th ca ông. Ông đng thng, hai tay chp li đ trước người. Nhng ngón tay đan chéo vào nhau. Ch nhìn tôi không nói mt li nào. Ngày đó, tri vn lnh căm. Tuy nhiên, tôi nghĩ không phi vì tri lnh mà ông trùm kín đu bng mt chiếc khăn lông trng đã tr màu vàng, bn và lm tm nhng vt máu, m. Vòng khăn qun kín c ch cha có đôi mt, mũi, ming và mt phn rt nh hai bên má. Ông trùm kín mt như vy có l đ che bt đi nhng vết l lói trên mt mình, bi chng bnh nan y ca ông. Thân th gy gò nhưng cm lên vì mc nhiu lp áo qun bên trong. Bên ngoài, ông mc mt chiếc áo mưa màu nhà binh đã tht cũ, sn rách mt đôi nơi. Chân được bó li bng nhng mnh vi qun áo cũ xé ra, dính đy bi đt và nhng vết máu, vết m

Ch có mt phn mt mũi và hai tay ca ông l ra, các phn thân th khác không thy được. Và ch có vy thôi, tôi cũng nhn ra rng không phi ông mang chng l lói bình thường mà tôi đã tng thy, tng biết. Mũi ông đ ng, bóng; hai má cũng vy, cng thêm mt s vết l lói; lông mi mt đã rng. Hai bàn tay cũng có nhng vết l ty, nhưng các ngón tay đã co li, móng tay nhiu ngón đã b khuyết li hay mt hết: Ông b chng phong hi (leprosy) thi kỳ trm trng. Vì không có thuc điu tr và vì điu kin v sinh không th có được trong tù nên bnh phát trin rt nhanh. Đó là lý do ti sao ch mi đi tù trong vòng bn, năm, năm ông đã tr thành người tàn phế, b cách ly riêng bit. 

Có l người ta gán cho ông chng bnh l lói là đ tránh s loan truyn căn bnh cùi trong tri giam. V li ông b “cách ly” ch được ra ngoài vào nhng gi mi người đã đi lao đng, không còn ai trong tri, nên ít ai biết rõ. Nhưng chính ông, ông biết rõ bnh trng ca ông. Tôi nhìn ông tht lâu, trong lòng xót xa, không biết phi nói gì, làm gì. V sĩ quan cao cp chng mc vi quân phc chnh t trang nghiêm ngày xưa nay đã mang hình hài ca mt người tàn phế mà ai cũng có th gp đâu đó. 

Đôi mt tôi nói rõ s thương cm ca tôi đi vi ông. Và mt ln na ông cười, n cười nhăn nhún vi mt chiếc răng khnh trong môi, như ông mun nói vi tôi rng:
-Tôi chp nhn đnh mnh ca tôi, nhưng tư tưởng ca tôi đã vượt khi thân xác nh nhoi tàn phế ca tôi ri. Anh đng thương hi cho tôi.

Sau n cười là ánh mt nhìn tôi sâu hơn. Trong ánh mt đó, tôi đã ghi nhn được s thương xót ca ông đi vi tôi. Hình như ông đã nhìn thy li người sĩ quan thuc cp tr tui ca ông nhng ngày xưa, còn đc thân, mt còn non sa, nhưng sáng sa và nhanh nhn, đã tng lúc làm ông hài lòng, cùng tng khi khiến ông phi ch bo…Ngày nay, hn ta đã tr thành mt người cn ci, gy m, lam lũ vi áo qun chùm đp rách rưới, má hóp, mt thâm vì nhng ngày thiếu ăn, nhng đêm thiếu ng. Hơn thế na, hn ta còn chưa biết phi làm gì trong cnh tù đày và trong tương lai.

Tôi chưa biết nói gì thêm, làm gì thêm, bui gp li ông trong hoàn cnh khn kh đó, thì anh bn cùng tôi đi lãnh cơm, tìm được tôi, thy tôi đang đng “nói chuyn” vi Đi tá Sơn. Anh đến gi tôi vì cơm anh đã lãnh xong đ ngoài sân phn xá. Tôi tn ngn mt phút nhưng ri cũng phi theo anh tr li phn xá gánh cơm v cho anh em ăn. Chúng tôi chào t giã ông, không thy ông tr li. Tôi quay đi, mang theo ni bun tht ln. Anh bn nói vi tôi:
- Đi tá Sơn đó, ông ta b chng bnh nan y, va b suyn, bnh tim và lao phi. Ông không h nói chuyn vi ai.

Tôi tr li ngn:
- Ông là boss cũ ca tôi.
Sut ngày hôm đó tôi thn th vì nhng ý nghĩ miên man trong đu óc tôi. Đêm đó cũng không th ng được. Tôi suy nghĩ v ông và nhng ngày tù đày ca chính bn thân tôi. Qu tht, trong ln đi thoi bng mt bui gp li l lùng này, ông đã nói vi tôi tht nhiu v thân phn ca ông và ca tôi. 

Tôi biết rõ ông đã vượt khi cái thân xác bnh hon yếu đui nh nhoi ca con người, dn phn tâm linh ca ông đến mt cõi an bình nào đó, như mt tín đ công giáo tin tưởng s an bài ca Đng To Hóa v đnh mnh ca mình. Hơn thế na, trong tư tưởng, ông không ch còn là mt người viết s bình thường, mt sĩ quan bình thường, mà đã tr thành mt triết gia ln biết c ci ngun ca dân tc và t quc. Tâm trí ông đã đi ra ngoài thân th ông đ đến mt khung tri bao la nào đó, cao rng, hay ít nht cũng ph trùm trên b cõi VN. Rõ ràng ông đã tìm được cho ông mt li thoát, sau khi đã tri qua đau kh đến tt đ: th xác nt n, nhc nhi vì b gm nhm, rút ta bi con máu đc hi ca chng bnh nan y; b b đói khát lnh lo, cô đc trong mt nơi cách bit đến tr thành câm nín. Bao nhiêu tháng ngày đau đn on oi mà ông phi chu đng tng phút tng giây đó không đ đ ông tr thành mt triết nhân hay sao, v li ông là mt người thâm trm, hiu sâu hc rng…Dù sao thì ông cũng đã vượt thoát được đau kh và tìm ra cho mình mt con đường.

Mt ngày nào thoát khi gông cùm CS, nếu tm thân tàn phế ca ông còn hơi th, thì biết đâu khi óc phong phú và tĩnh đt ca ông s không giúp ông tr nên bt t trong lòng mi người, vì nhng điu cha đng trong đó s có th cho chúng ta nhng hiu biết v lch s Vit Nam — trong thế h chúng ta — mt cách xác đáng nht, tường tn nht, đáng suy gm nht vì sao chúng ta đã đau kh trin miên trong cuc chiến tranh tàn khc dai dng va qua. Hay xa hơn na, biết đâu ông cũng có th cho chúng ta mt triết lý nhân sinh rút ta t kinh nghim bn thân ông, kh dĩ giúp được nhiu người tìm ra s an bình trong tâm hn cuc sng nhiu đau thương này.

Tôi yên tâm phn nào v ông, vì tôi biết, dù ông là k chiến bi trong cuc sng, nhưng li là người chiến thng chính bn thân mình. Còn tôi, ông đã nói cho tôi biết bng ánh mt, là ông thương cm cho tôi, vì hình như ông biết rõ tôi đã và đang còn mù m, qu qung trong đáy ngc, trong lưu đà Tôi chưa nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn là phi s lao đng nng nhc sáng nay hay s b đói lnh chiu nà Tâm trí, tư duy ca tôi là mt th bòng bong.
Tôi phi gp li ông, tôi phi hc tm gương ca ông, phi biết nhn chu cái đau but tn xương ty, đ nghin ngm v l sng và tìm cho mình mt con đường thích hp nht mà bước đi. T ngày đó tôi đnh bng hôm nào thun tin tôi s đi tìm ông, vì ông phòng “cách ly” không phi lúc nào cũng t tin mà đến được. 

Cán b Công an tri giam cm ngt mi tù nhân đến đó. Trong my ngày lin, sau các bui lao đng xong v tri, tôi đi theo các bn lãnh cơm lên phn xá, lng vng đến gn căn phòng cách ly mong nhìn thy ông đ đến gp, nhưng ln nào cũng tr v không. Ri mt bui chiu tôi tr li đó, t xa tôi đã thy ông sau song ca s, mt đang nhìn ra xa xôi… cao hơn b tường rào ca tri trước mt ông. Tôi mun nhìn ông cho rõ hơn nên bước thêm my bước na ri dng li. 

Mt chp rt lâu, ánh mt ông vn thế, không thay đi hướng. hướng đó, mt tri chiu đã xung thp, nng đã nht, my áng mây tht mng, ráng hng, còn vơ vn, ri bng như b gió git xé, tan ra. Tôi cht thy ông rùng mình. 

Tôi t nghĩ: “Chng l mình nhm hay sao khi nhn xét v ông bui đu tiên?” Không do d na, tôi bước đến gn, đng ngoài sân, trước hành lang, chào ông và kh hi:
- Chào Thy, hôm nay Thy có kho hơn không?

Ông quay li nhìn tôi, nh gt đu nhưng không tr li. Đôi mt ông li hướng v góc tri có mt bóng mây va tan, mt thoáng như m đi, như nghĩ ngi, ri cht sáng hn ra nhìn thng hơn vào mt tôi.Thy.Thy ơi! Tôi đã hiu ri. Tôi đã hiu trong lòng Thy nghĩ gì và Thy mun gì tôi. Lòng tôi trong mt phút cm thy đau điếng.Tôi có nên nói đến nhng điu này cho các bn nghe hay không? Liu các bn có tin rng tôi nói bng s tht, bng tm lòng ca tôi hay không? Thôi thì tôi c nói.

Ông đã cm nhn được đnh mnh ca ông ri. Hơn ai hết, ông hiu rõ tình trng sc kho ca ông. 

Ông ch s mình như ráng mây mong manh kia, s phi tan rã mt đi vi vàng. Thi gian quí báu không còn na đi vi ông, ngn đèn ht hiu trong tim ông sp tt, nhưng ngn la ln trong óc ông, đang rc sáng, không có ch thoát ra. Bn bc tường ca nhà giam này tht cay nghit; cái hoài bão ca ông, nim p đã hình thành trong tâm não ông cũng s tan biến mà thôi. 

Ông không s bn thân ông b tiêu hy, ông ch s nhng điu đó b tiêu dit, tôi nghĩ như vy. Vi ánh mt nhìn thng vào mt tôi, tôi nhn ra hình như ông mun y thác cho tôi mt vic gì đó sau này — khi tôi ra khi bn bc tường ca tri giam– chng hn như s thay ông viết lên nhng gì mà ông mun đ li cho nhng thế h tương lai. 

Nếu qu tht điu này tôi đoán đúng, tôi cam đành chu s tht l đi vi ông. Dù tôi hiu ông, nhưng làm sao tôi có th hiu tường tn nhng gì tách bch đnh hình trong tư tưởng ca ông. 

Ông đã nghĩ gì, ông đã biết nhng gì –hn nhiên là phi rng ln và khúc chiết– ông mun viết nhng gì, làm cách nào tôi có th biết được. V li, nhng th y là nhng điu mà ông phi phn đu tht cam go vi bnh tt, vi chính mình bao nhiêu năm tri, chu đng vô vàn đau đn ti nhc t th xác đến tâm não mi có được. Nó là ca riêng ông. Làm sao tôi có th cm nhn được hết, khi mc đ thương đau ca tôi có hn; làm sao tôi có th viết nhng điu y thành li.

S năng ca ông là viết s. Ngay công vic này, nếu tôi có hiu biết mt đôi điu, thì vi kh năng ca tôi, tôi cũng không th thay ông mà viết ni hết cái cao xa rng ln ca ông, cái sâu sc phong phú ca ông, cái chiết trung tinh túy ca ông, cái kinh nghim di dào ca ông v nhng gì phc tp nht, nhiêu khê nht, khut lp nht ca lch s thi đi nhiu nhương này. 

Nếu tôi cn thi gian đ có được nhng ưu đim trên đây như ông, thì s bao lâu. Có l sut đi đến khi nhm mt, tôi cũng không có được. Hôm trước tôi gi ông bng “Thy” đ tránh tiếng gi cp bc đã tr thành “không thích hp” na. Hôm nay, tôi cũng gi ông bng ch đó, cùng nghĩa. 

Xét cho cùng, tôi chưa đáng là hc trò ca ông trên nhiu phương din. Tôi đành cam chu s bt lc ri. Cái hy vng gi được cuc sng ca ông tht mong manh, cái hy vng gi s hiu biết trong trí não ông cũng không th có… Ri cát bi s tr v vi cát bi mà thôi…Bng nhiên tôi nghe my git nước mt lăn trên má tôi.

Ông nhìn tôi lng l th dài ri quay đi…

Tôi tr v phòng giam ca mình vi tâm trng bun bã, mt mi. Tôi mun làm vui lòng c nhân, mun làm tròn bn phn vi mt cp ch huy tôi quí trng, nht là khi ông đang trong hoàn cnh khn cùng, nhưng tôi biết tôi kém tài, thiếu kh năng đ kh dĩ hoàn thành sy ca ông.

Sau bui chiu đó, li mt đêm và nhiu đêm khác na tôi mt ng. Dù ông mun hay không, tôi cũng thương cm cho ông, xót xa cho ông. 

Nim trc n ca tôi không ngoài vic tôi biết ông cm thy sc kho ca ông đã cn, ông biết ông s không th — bng cách nào đó, ph cp được nhng gì đó tht hu ích đã kết tinh trong não ty ca ông qua nhng tháng ngày đau kh. Nim hy vng cui cùng là ký thác nhng điu đó cho mt ai đó có kh năng, cũng đã b gip tt. S cô đơn ca ông bây gi đã hoàn toàn.

 Tt c đã quay lưng li vi ông. Bên ông có l ch còn Thượng Đế là v an i, là v cu tinh cui cùng mà thôi. Con người đã không còn trong tm mt và nim hy vng ca ông na, mãi mãi…

Sau đó không lâu, mt bui ti, bn cán b tri t chc bui chiếu bóng ngoài tri cho tt c tù nhân xem cái sân rng ln gia tri. Đêm y, tri đy trăng sáng trong sương đêm loang loáng ca mùa Đông. Hơn mt nghìn tù nhân được xếp hàng ngi theo đi ca mình trong sân. 

Tuy nhiên, mi người khi cn thiết cũng có th tách ra đng lên đi tiu mt vài nơi mà cán b tri giam CS đã ch đnh trước. Mt nơi như vy nm bên trong b tường ca phn xá. 

Đây là cơ hi may mn cho tôi. Khi phim chiếu được chng mt gi –phim gì đó, tôi không còn nh– tôi đng lên đi v phía b tường vào phn xá, đến ch đi tiu. 

Nhìn không có ai, tôi bước thêm my bước na, dng li. Ch tôi đng ch còn cách căn phòng nơi ông không đy mươi bước. Tôi không có ý đnh gp ông, ch mun nhìn thy ông mà thôi, và tôi đã nhìn thy. 

Ông đng bên trong ca s, đó có ánh đèn le lói ht ra, đang nhìn lên khung tri đy ánh trăng bàng bc trong sương. Gi đó cũng gn khuya, ông vn thc, đng nhìn trăng, nhìn tri. 

Tôi đã hiu rõ hơn tâm s ca ông. Tôi đng nhìn ông mt lúc khá lâu, ri s b bn cán b bt gp, tôi quay tr ra v ch ngi ca các bn cùng đi và không xem gì được na nhng thước phim tuyên truyn còn li. 

Tôi lơ đãng ngm nhìn nhng vì sao xa xa, ngm vn trăng nhàn nht trên nn tri nhiu sương lành lnh, diu vi, bun man man.

Đêm trăng là khung tri ca Hàn Mc T, vng trăng và ánh trăng là thơ ca Hàn Mc T, không phi ca ông. 

Ông không là mt thi nhân, ông là mt nhà viết s. Trăng đã thc trong máu đ Hàn Mc T làm thơ và ngâm thơ. Trăng đã thc trong máu ca ông, ch đ ông thy ni cô đơn ca ông thm đm hơn mà thôi. Hàn Mc T, nhng ngày cui cùng ca cuc đi, còn nói lên được, còn viết lên được nhng điu mun nói, nhng điu mun viết, trong s yêu chìu an i ca mt người đp yêu ông. 

Ông ta tht có dim phúc so vi nhà viết s Phm Văn Sơn. V s gia ca tôi trong nhng gi phút cui cùng này còn có ai đâu. Ông b cách ly thân th, b chi b tình cm, tuyt ngun tâm s đến trơ tri c linh hn. Ngày xưa, vua Hezekiah ca Do Thái –trong Thánh Kinh– hơn mười my năm b phong hi cũng không cô đơn bng ông, vì ông vua này vn sng trong hoàng cung lng ly vi hng trăm cung tn m n hu h

Có l ch mt người chu s cô đơn như ông là mt vc sĩ nào đó — mt nhân vt có tht — trong tác phm “K Đc Hành” (Man Who Walks Alone) ca mt nhà văn M, tôi đã quên tên, đã hy sinh sut quãng đi đp đ nht ca mình, tình nguyn đến mt phương tri xa, phc v mt tri hi đ cha tr bnh nhân bng s hiu biết và lòng tn tâm ca mình, cho đến mt ngày chính ông ta b truyn nhim chng bnh nan y này. 

Khi tr li quê hương, ông li b ht hi, b b quên, cô đơn như mt k đc hành trong cõi đi tưởng chng như hoang vng. Dù sao v bác sĩ đó cũng đã làm tròn thiên chc ca mình, đã hưởng được s t do đ suy gm v cái triết lý ca cuc sng và đã không ung công viết li được hi ký v cuc đi nghit ngã ca mình. Còn ông, nhà viết s ca chúng ta, ông đã cô đơn bn b kiếp con người. Loài người dưới đt quên lng ông, trăng sao trên tri xa l vi ông.
Ông là k cô đơn nht trong loài người… nhng gi phút sau cùng ca đi người.

Đêm trăng này hay bao nhiêu đêm trăng na s cho ông nhìn thy gì, hay ông ch nhìn thy s hoang mc đến tn cùng ca cuc đi ông trong nhng ngày còn li. Hay hơn thế na, ông s nhìn thy ni tuyt vng va nhen nhúm trong tâm s ông, v s không th làm tròn thiên chc ca mình, s ln dn lên, s còn đày đa ông không biết bao lâu na. Đêm không ng dưới trăng kia có ích li gì cho ông không?
Thì ra tâm s con người tht phc tp trước nhng s kin tưởng chng như vô tình nht, gin d nht. 

Ln đu tiên sau khi gp li ông, tôi tưởng ông đã yên tâm vì đã tìm cho mình được mt con đường, mt chân lý, đến đ khi nhìn ông tôi cũng cm thy yên tâm. Hôm nay, bi nhng s kin mi m tưởng như vô tình, tôi mi biết ông vn còn ưu tư khoc khoi, nên lòng d tôi xn xang vô cùng. 

Tôi đã ngu mui và tht thà bui chiu hôm trước, vì vô ý thc, tôi đã đy tình trng cô đơn ca ông đến cao đ nht, bi s phn ng t nhiên, chân tình bng my git nước mt di kh, non nt, rơi không đúng ch, đúng lúc… Mt git nước đã làm tràn ming bát.

Đáng l tôi phi tế nh gi nó li, tìm cách an i ông. Biết đâu nim hy vng vn còn là ngn la, tuy nh nhoi, cũng sưởi m lòng ông đ ông cm thy mình vn còn người tri k, không cô đơn, còn có ý nghĩa vi mi người.

 Biết đâu như vy s làm cho ông yên tâm hơn. Dù cái chết có đến vi ông, bng cách nào đi na, ông cũng cm thy m cúng trong tâm hn. Nim trc n xn xang này đã tr thành s hi hn trin miên trong tôi sut nhiu năm qua, chưa có dp bc l cùng ai. Tôi tht kh tâm.

Lúc đó, tôi thm cu nguyn Thượng Đế xui khiến cho nhng người CSVN thy rõ chng bnh vô cùng him nghèo, nguy ngp ca ông mà tha cho ông ra, cho ông được tr v vi gia đình. Đó là con đường duy nht cu được ông, cu được cái hoài bão mà ông tng ôm p bao nhiêu năm qua. Tôi đã tht vng, ý tri không phi là ý người. CSVN ch hy dit nhng nhân tài đi lp, không bao gi nh tay vi mt ai…

Ri vic gì phi đến, đã đến.

Mt ngày, chưa hết mùa đông, đu năm 1980 (tôi không nh chính xác ngày tháng), bui sáng sm lt pht mt cơn mưa phùn nh, tri lnh và đc, người ta đã đánh kng tp hp tù nhân các đi ra ngoài sân đ tun t cho xut tri đi lao đng như thường l. By gi tôi trong đi cưa x g súc ca Tri K2/Tân Lp. 

Đi chúng tôi ra hin trường làm vic — à hai dãy nhà lp tranh, ch cách cng tri vài mươi bước– trong vòng my phút. Mi cp cưa gm 2 người, t đng vào giàn cưa ca mình và x nhng thân g ln thành nhng tm ván dày hoc mng dùng đ đóng bàn ghế, vách nhà, sàn nm trong tri, hay đóng hòm chôn tù nhân, chết bi nhiu cách, đa s là chết vì bnh và kit sc. 

Chng chín gi rưỡi hay mười gi hôm đó, tôi đến nhn phn sn ph tri (đi cưa x thuc loi lao đng nng, có thêm mt phn ăn ph tri gi gii lao, nhưng bt thường) va đnh quay v giàn cưa mình thì anh bn hôm trước đi lãnh cơm vi tôi, hôm nay va đi lãnh sn nhà bếp, nói nh vào tai tôi:
- Tin bun!
Tin bun có nghĩa là trong anh em ca chúng tôi có thêm mt người vĩnh vin nm xung, cũng có nghĩa là đi ca chúng tôi phi x thêm nhng tm ván đ đóng chiếc hòm tm b bc xác bn bè, mt điu không ai mun, nhưng ai cũng tình nguyn làm đ biu l lòng thương xót vi người đã ra đi. Biết đâu ri ngày nào cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa đoan là thế đó.
Tôi nghe anh nói xong, đnh hi xem là ai, nhưng anh đã bo tôi:
- Đi đi..!
Tr v ch, va ngi xung đã thy anh theo đến, ngi sát bên, nói va đ cho tôi nghe:
- Đi tá Sơn, “boss” cũ ca anh, chết ri!
Tôi sng s, tưởng chng như ai tt mt gáo nước lnh vào mt, hi li anh:
- Anh nói… ai chết ri, ti sao, hi nào?

Anh bun bã thut li câu chuyn anh va nghe nhà bếp:
- Sáng nay, sau khi các đi đã xut tri hết, ‘ti nó’ ra lnh cho ông đem gi ra sân mang than đá vào bếp tri như nhng ngày trước. Không biết ông bưng vác đến gi th my thì kit sc, hc máu tươi, ngt xu bt tnh. Khi chúng hay được cho mang ông lên bnh xá thì ch my phút sau ông mt; c người nhy nha máu me, hình như bao nhiêu máu m trong các phn thân th l lói tuôn tràn ra hết…
Anh nói tiếp:
- Gi này có l h đã đem ông xung nhà xác ri!
Anh lng l b đi, không nói thêm gì na. Tôi như mt k mt hn. Tôi đã hiu…
Tác giả Văn Nguyên Dưỡng.
Tác gi Văn Nguyên Dưỡng.

T lâu nay, thnh thong chúng tôi thy mt chiếc xe ti ch vào tri loi than đá vn vo thành viên tròn to như nhng trái “poids” ln, dùng làm cht đt bếp. Mi ln như vy, h đ than đá phn sân ngoài bc tường, trước ca vào nhà bếp. Bn cán b ra lnh cho ông hng ngày dn dà chuyn hết nhng đng than đá đó vào bếp, tr trường hp tri mưa, phi chuyn gp, chúng cho người ph. Như vy, mt người bnh trm kha như ông vn b chúng vt sc lao đng đến git máu cui cùng. 

Hôm nay ông đã ngã xung như trăm ngàn nn nhân khác dưới ch trương giết người siêu dã man này trong các tri giam CSVN.

Sau bui gii lao, tt c anh em trong đi cưa x đu biết v cái chết thm thương ca ông. Ông đã mt ri, đã v cõi thiên đường, đã mang theo s chu đng và s hiu biết ca ông vn dĩ không h tưởng là đã có trong con người mang nhc th. Cái gì ca Thượng Đế tr v cho Thượng Đế.

Người ta ra lnh x g đóng quan tài cho ông. Tôi nhn vic y vi nhng git nước mt chy dài trên má. Ch còn mt chút đáp đn này thôi, c nhân ơi…

Ngun: T sách Tiếng Quê Hương
DCVOnline
(*) “Văn Nguyên D
ưỡng ca tng người ch huy cũ ca mình là đúng. Chính trong cách nhìn như thế, Văn Nguyên Dưỡng cho rng sau chuyến đi An Lc, đi tá Sơn li tiếp tc đi ra Qung Tr đ quan sát, ghi nhn và thu thp tài liu ca mt trn vùng gii tuyến. Nhưng điu này hoàn toàn sai lm vì đi ra mt trn Qung Tr, ch có trung tá Lê Văn Dương và tôi.” (Trích, Huỳnh Hu y, Vài điu tn mn nhân đc bài viết “Cái chết ca s gia Phm Văn Sơn”, Din đàn Thế k. Ch Nht, ngày 22 tháng 4 năm 2012).

(**)  Tng thng Dương Văn Minh, hp hiến hay không hp hiến?
Điu 39 Hiến pháp Vit Nam Cng Hòa (1967) ghi rõ Quc hi không có thm quyn bu mt tng thng.

Đi
u 56 ca Hiến pháp 1967:
Nhim kỳ ca Tng Thng và Phó Tng Thng có th chm dt trước hn kỳ trong nhng trường hp:
a- M
nh chung.
b- T
chc.
c- B
trut quyn.
d- B
bnh tt trm trng và kéo dài không còn năng lc đ làm tròn nhim v. S mt năng lc này phi được Quc Hi xác nhn vi đa s ba phn tư (3/4) tng s Dân Biu và 
Ngh Sĩ sau các cuc giám đnh và phn giám đnh y khoa.

Tt c nhng trường hp a, b, c và d đu không áp dng được vi Tng thng Trn Văn Hương. Trut phế Tng thng là thm quyn ca Tòa án đc bit được quyết đnh bi các Điu 85 và 87. Như vy, hành đng ca Quc hi c Tướng Dương Văn Minh thay thế Tng Thng Trn Văn Hương vào ngày 26 tháng tư năm 1975 có th được coi là không hp hiến.

[Tài liu tham kho: Text of the New Constitution, Vietnam Perspectives. Vol. 3, No. 1 (Aug., 1967), pp 24-40. 
Mt phiên bn tiếng Vit ca “Hiến Pháp Vit Nam Cng hòa 1967” có th xem được đây: http://snipurl.com/24o4sn5]

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết