Tuesday, April 22, 2014

Tại Sao Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Không Hoan Nghinh, Đón Nhận Bùi Tín ?



From: sanduyle
Date: Mon, 21 Apr 2014 15:08:07 -0700
Subject: HAI BÀI VIẾT RẤT HAY CỦA NHÀ BÁO BÙI TÍN "DÙ VIỆC ĐÁNH TRÁO CÓ HAY KHÔNG?" & Ô. CHU CHI NAM "THẾ TẤT THẮNG CHO CUỘC ĐẤU TRANH CHO NHÂN QUYỀN DÂN CHỦ VN "

 




KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TAU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)

LS Lê Duy San

Ông Bùi Tín sinh năm 1927. Ông là con của cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng Thư Bộ Hình của triều đình Huế, sau theo Việt Minh được làm Chủ Tịch Quốc Hội nước VNDCCH. Ông Bùi Tín theo Việt Minh ngay từ đầu khi Việt Minh cướp chính quyền từ tay của chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 8 năm 1945. Ông được kết nạp vào đảng Cộng Sản nhớ các thành tích ám sát, thủ tiêu người quốc gia. Nhờ có khả năng viết lách, ông trở thành nhà báo, phóng viên chiến trường với bút hiệu Thành Tín và được phong quân hàm Đại Tá. Sau chiến tranh, ông giải ngũ, tiếp tục viết báo, làm đến chức Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật.

Cuối năm 1990 ông Bùi Tín sang Pháp dự hội nghị hàng năm của báo L'Humanité (báo của đảng Cộng Sản Pháp), rồi quyết định xin tỵ nạn tại Pháp với lý do là để đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN.

Thực ra, nếu ông không xin tỵ nạn thì cũng bị cho về vườn vì ông thuộc phe thân Liên Sô, nhưng Liên Sô đã xụp đổ, phe thân Tầu thắng thế, nên đã tìm đường chạy trước và trở thành người bất đồng chính kiến. Ông phê phán đường lối hiện hành của Đảng Cộng sản Việt Nam là đã xa rời lý tưởng cộng sản. Dần dần, ông phê phán luôn cả chế độ cộng sản Việt Nam và lý thuyết xã hội chủ nghĩa. Ông đòi hỏi một sự đổi mới có tự do dân chủ “thật sự” cho Việt Nam. Có thể nói những bài viết của ông có lợi cho Việt Cộng thì ít mà có hại cho chúng thì nhiều, nhưng ông vẫn không được người tỵ nạn Cộng Sản đón chào mà còn bị coi là cò mồi, là chống đối cuội. Lý do là vì:

·  Bùi Tín là kẻ có tội với nhân dân.
·  Bùi Tín vẫn chưa thực lòng xám hối tội lỗi.
·  Bùi Tín vẫn tôn thờ Hồ Chí Minh và không công nhận cờ vàng.

1/ Bùi Tín là tội đồ của dân tộc.

Ngay từ khi gia nhập Mặt Trận Việt Minh, ông Bùi Tín đã được trao phó nhiệm vụ ám sát, thủ tiêu những thành phần đối nghịch với Cộng Sản, đặc biệt là các đảng viên VNQDĐ. Chính ông Võ Tử Đản đã cho biết ông Bùi Tín đã giết cha ông là Võ Bào, đảng viên VNQDĐ, 2 người chú của ông là Võ Sỏ, Võ Liêu và một số người dân Quảng Trị vào năm 1947, 1948. Ông Võ Tử Đản kể: “Mặc dầu tuổi đời đã 82, tôi vẫn không bôi xóa được cảnh tượng ghê rợn, thê thảm trong một đêm trăng nhiều mây mù của trung tuần tháng 3 năm 1947, tại làng Nại Cửu, xã Phong La (nay là xã Triệu Đông), quân Triệu Phong. Ông Bùi Tín, với đôi mắt rực lửa căm thù, dùng báng súng Sten đập mạnh vào người ông thân sinh tôi 5 lần đến gục ngã, sau khi 2 tên tự vệ của Bùi Tín dùng mã tấu chém xối xả vào thân, vào mặt. Biết cha tôi đã chết, Bùi Tín dùng chân đá xác ông xuống sông Vĩnh Định, nơi này cách chỗ cư ngụ của cha tôi khoảng 100 thước ………..

Hiện tại, ngoài tôi ra còn có hai nhân chứng đã mắt thấy, tai nghe lời kết án và hành động sát thủ dã man của Bùi Tín. Họ vẫn còn sống, ông Võ Di ở tại làng Nại Cửu và ông Trần Cận (một trong 6 tên tự vệ đã cùng đi với Bùi Tín đêm hôm đó) ở tại Thị xã Đông Hà, Quảng trị.”

Khi bị chính ông Võ Tử Đản tố cáo và hạch tội, ông Bùi Tín đã phủ nhận và nói rằng với chức vụ Đại Đội Trưởng của ông, dưới ông còn có nhiều người, ý muốn nói ông đâu cần phải đích thân ra tay như lời ông Võ Tử Đản nói. Nhưng theo ông Việt Sĩ thì lúc bấy giờ ông Bùi Tín mới gia nhập Việt Minh và tuổi đời thì mới 19, đâu đã có công trạng gì mà có thể được phong cho làm Đại Đội Trưởng? cùng lắm là Trưởng Ban ám sát. Như vậy, lời tố cáo của ông Võ Tử Đản. Ông Võ Tử Đản rất đáng tin cậy. Hơn nữa, ông Võ Tử Đản còn nêu cả tên 2 nhân chứng vẫn còn sống là ông Võ Di và Trần Cận.

Ngoài ra, ông Bùi Tín còn là cán bộ Cải Cách Ruộng Đất. Với chức vụ này, chắc chắn ông Bùi Tín gây ra không ít tội ác trong thời kỳ đấu tố địa chủ, nếu không làm sao ông có thể được phong cho quân hàm Đại Tá?

2/ Bùi Tín vẫn chưa thực lòng sám hối tội lỗi.

Mặc dầu đã từ bỏ đảng CSVN, mặc dầu ông đã viết nhiều bài chỉ trích nặng nề đảng CSVN và Chế Độ Xã Hội Chủ Nghĩa VN, nhưng ông vẫn chưa thực lòng sám hối tội lỗi của mình cũng như xác nhận tội lỗi của Hồ Chí Minh và bè lũ Việt Cộng. Trái lại, ông còn cho rằng chỉ có VC mới yêu nước, mới có chính nghĩa, Ông nói: “Trước nhân dân cả nước Việt Nam, trước dư luận quốc tế, quả thật là có nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy (Quân Đội VNCH) những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa”, khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt Nam. "

Thật không thể hiểu nổi, một quân đội, quân đội VNCH đã hy sinh mấy chục binh sĩ để bảo vệ Hòang Sa và Trường Sa thì ông Bùi Tín cho rằng thật khói dành cho quân đội ấy những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa” trong khi đó quân đội Việt Cộng (Quân Đội Nhân Dân VN) theo lệnh quan thầy Nga Tầu đem quân đi cưỡng chiếm miền Nam VN để thực thi nghĩa vụ đệ tam quốc tế và chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN dâng cả đất, cả biển cho Tầu Cộng thì ông Bùi Tín lại cho là “yêu nước”, là có “chính nghĩa”?

Đối với ông Hồ Chí Minh, ông Bùi Tín vẫn tin rằng ông HCM là người yêu nước. Để trả lời câu hỏi của Trà Mi, phóng viên đài Á Châu Tự Do (RFA), ông Bùi Tín nói:

“Theo tôi, khi ông Hồ sang Pháp năm 1911 lúc đầu không phải vì mục đích đi tìm đường cứu nước. Lúc bấy giờ ông ta gặp phải một bi kịch gia đình. Ông cụ là tri huyện Bình Khê vì đánh chết nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại, tha phương ở phía Nam. Mất chỗ dựa, ông Hồ quyết định ra đi tìm kế sinh nhai và giúp đỡ gia đình.

“Nhưng đến khi sang Pháp, khi tiếp xúc với nhóm các ông như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, cụ Phan Chu Trinh, lúc ấy, tôi nghĩ ông ta là người yêu nước, nhất là khi ông ta đứng ra làm tờ báo Những người cùng khổ, bảo vệ những người dân thuộc địa để chống thực dân Pháp, tôi cho rằng hành động này là trên lập trường yêu nước.”

“Thế nhưng cho đến khi ông sang Maxcơva năm 1924, trở thành nhân vật của đệ tam quốc tế cộng sản, thì tôi nghĩ, lúc ấy ông vẫn là một người yêu nước, nhưng không phải là một người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia, mà theo chủ nghĩa cộng sản.”

Ông Bùi Tín xác nhận: “Cho đến khi chiến tranh kết thúc (30/4/75), tôi không hề có ý thức gì về tội ác của CSVN, tôi được học chính trị, chính huấn, học “khá kỹ”, nghĩa là học theo lối dậy dỗ, áp đặt, nhồi nhét, mà không hòai nghi, không tranh luận về chủ nghĩa Mác, Lênin, về tranh đấu giai cấp, về chuyên chính vô sản… cho nên chúng tôi chỉ thấy tội ác của thực dân, đế quốc, phong kiến, tư bản… Những tổn thất trong chíên tranh, tôi chỉ thấy những tội ác do kẻ thù gây ra và những hy sinh cần thiết về phía “ta” để dành chiến thắng.”

Những điều xác nhận trên của ông Bùi Tín đã chúng tỏ rằng ông là một đảng viên Cộng sản rất trung kiên, cuồng tín và chắc chắn ông đã thủ tiêu rất nhiều người trong thời gian ông còn là Trưởng Ban ám sát của Việt Cộng. Vậy mà ông vẫn ngoan cố, không biết hối lỗi, nhận tội.


3/ Bùi Tín vẫn tôn thờ Hồ Chí Minh và không công nhận cờ vàng.

Ông Bùi Tín dư biết ông HCM đã du nhập chủ nghĩa Mác Lê vào làm hại cả một dân tộc, làm đất nước VN thụt lùi lại cả gần nửa thế kỷ và giết hại cả triệu người vì muốn thi hành nghĩa vụ quốc tế, vì muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa, ông Bùi Tín vẫn công nhận ông HCM là thần tượng của ông. Mặc dầu những chuyện xấu xa của HCM như lấy vợ Pháp rồi bỏ để lấy vợ Nga, rồi bỏ vợ Nga lấy vợ Tầu, rồi lại bỏ vợ Tầu lấy vợ Việt là Nông Thị Xuân, rồi lại cho người giết Nông thị Xuân để tự do ngủ với người khác cũng như việc HCM lấy Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong, chuyện ông Hố Chí Minh bán đứng cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp v.v., ông Bùi Tín đều biết rõ nhưng ông chưa hề có bài nào kết tội HCM.

Ông Bùi Tín cũng gián tiếp không công nhận Cờ Vàng khi nói tránh ra là nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với ông ta là: “Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài.”

“Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam” là ai? Sao không thấy ông Bùi Tín kể ra? Chắc ông Bùi Tín thừa biết sự tham nhũng và thối nát của các viên chức của chế độ quân phiệt miền Nam trước kia dù ở múc độ nào đi chăng nữa, cũng không bằng 1% sự tham nhũng và thối nát của các quan chức trong chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay. Vậy sao ông Bùi Tín không phủ nhận Cờ Đỏ Sao Vàng?

Việt Nam Cộng Hòa tuy không còn nữa, nhưng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn là căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngọai. Ông Bùi Tín là người đã tỵ nạn tại Pháp, nhưng ông không phải là tỵ nạn Cộng Sản vì ông không công nhận Cờ Vàng. Vì thế chúng ta, những người Việt tỵ Nạn Cộng Sản không có lý do gì phải tiếp nhận ông như người cùng chiến tuyến.

Tóm lại, Bùi Tín có thể là người bất đồng chính kiến với giới lãnh đạo CSVN hiện nay, nhưng trước sau, ông ta vẫn là một tên Cộng Sản. Ông vẫn tôn thờ HCM, một tên tội đồ của dân tộc và chưa dứt khóat hẳn với chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không chủ trương phải lật đổ chế độ Cộng Sản mà chỉ muốn cải sửa chế độ đó và hòa hợp hòa giải với bọn lãnh đạo Hà Nội. Ông tuy là người tỵ nạn chính trị, nhưng ông không phải là người tỵ nạn Cộng Sản. Người tỵ nạn Cộng Sản là người tỵ nạn chính trị. Nhưng người tỵ nạn chính trị chưa chắc đã là người tỵ nạn Cộng Sản. Ông Hòang văn Hoan và ông Bùi Tín là những người ở trong trường hợp này, chỉ khác là ông Hòang văn Hoan thuộc phe thân Tầu nên đã chọn nước Tầu để tỵ nạn. Còn Bùi Tín thuộc phe cánh thân Nga, nhưng nước Nga lúc đó chế độ CS đã xụp đổ, nên Bùi Tín đành phải chọn nước Pháp để tỵ nạn chính trị. Mai mốt, nếu phe cánh thân Tầu thất thế, phe thân Nga hay thân Mỹ giành lại được quyền hành, chắc chắn Bùi Tín, nếu còn sống, sẽ trở về Việt Nam, dù chế độ Cộng Sản vẫn còn ngự trị đất nước Việt Nam. Ngòai ra, những đề tài mà ông Bùi Tín viết, đều là những đề tài mà người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đều biết cả, chỉ khác là do chính một một cựu đảng viên cộng sản nói ra mà thôi.

Đó cũng là câu trả lời cho những ai còn thắc mắc: “Tại sao trước kia, thời Đệ Nhất VNCH, chúng ta đã có cả một chính sách để chiêu hồi người Cộng Sản, bây giờ Bùi Tín, một người đã bất đồng chính kiến với Cộng Sản, tại sao chúng ta lại không đón nhận Bùi Tín?” Hơn nữa, chính Bùi Tín cũng không bao giờ tỏ ra ăn năn, hối hận về những tội lỗi của mình và cũng không bao giờ ngỏ ý muốn hồi chánh.

Lê Duy San
 



On Monday, April 21, 2014 2:47 PM, Thach Nguyen <> wrote:
 
Kính anh Vũ Huynh Trưởng,
   Anh chuyển bài của Bùi Tín với mục đích để "mở mắt người hải ngoại", nhưng thưa anh, tôi e rằng anh còn nhắm mắt kỹ hơn người hải ngoại nhiều đấy. Bùi Tín nhận định Hồ chí Minh như thế nào, anh thấy không?

Qua những lời tự bạch của Bùi Tín, người ta thấy hắn là một con người quá "chậm hiểu", đến nỗi hình như là dần độn. Nếu không đần độn thì đúng là một tên cộng sản incorrigible.
-  Khi Hồ phát động cải cách ruộng đất tại miền Bắc, giết hại hàng vạn nông dân chỉ có một vài sào ruộng (sào ta) thì nông dân đã hiểu Hồ Chí Minh là ai.
-  Khi Hồ đầy dọa những trí thức như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường ... bỏ tù văn nhân thi sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thì kẻ sĩ cả nước phần nhiều đã hiểu ra Hồ là ai.
-  Khi quân Trung cộng xâm chiếm đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì tờ báo Quân Đội Nhân Dân của Bùi Tín hí hửng viết: “Thà để người anh em Trung quốc giữ hộ còn hơn để bọn ngụy chiếm giữ.”
-  Trong khi nhân dân miền Bắc trông chờ miền Nam ra giải phóng họ. Họ khóc ròng khi nghe tin Saigon thất thủ. Chỉ có Bùi Tín lúc đó vui mừng và vênh váo nạt nộ và bắt Dương Văn Minh phải giơ tay đầu hàng: “Các anh không còn gì để mà bàn giao cả.” Vân vân và vân vân.

     Trong khi người dân cả nước biết rất rõ Hồ Chí minh là ai thì chỉ có bọn đặc quyền đặc lợi trong đảng CS, trong đó có Bùi Tín, vẫn không biết HCM là ai, vẫn khư khư ôm thần tượng Hồ Chí Minh mà tôn thờ.

     Cho đến khi ra nước ngoài, Bùi Tín phải tìm tòi hàng mấy chục năm ròng mới nhìn ra được một vài khía cạnh của cái thần tượng Hồ Chí Minh của hắn. Tuy nhiên cái đại tội của Hồ đối với Dân Tộc là tội bán nước, làm tay sai cho ngoại bang thì Bùi Tín đã nhìn thấy nhưng nhất định giấu nhẹm, không dám hở môi. Đó là cái lưu manh của những tên cộng sản gọi là phản tỉnh như Bùi Tín.

     Thế mà trong bài viết dưới Bùi Tín vẫn còn tự bào chữa: “
Như vậy nói tôi còn quyến luyến ông Hồ là không đúng, là oan uổng cho tôi.

     Oan cái nỗi gì nữa mà oan? Có phải không thưa anh Vũ Huynh Trưởng? Anh mở mắt ra xem tôi nói có sai không? Chỗ quen biết, tôi xin có vài lời mộc mạc với anh thôi. Những bọn mù lòa khác, dù là có học, tôi không nói. Uổng công.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

  
On Monday, April 21, 2014 1:34 PM, San Le D. <> wrote:
 


KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TAU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)
On Saturday, April 19, 2014 8:44 AM, Truong Vu <> wrote:
 

Cám ơn chị đã gửi.
Tôi xin chuyển đền những người ở Hải Ngoại chưa mở mắt, đặc biệt là những con vẹt cao cấp của Đảng VC trong nước.
Tôi nghe những lời của đám nhà báo ở Nam Cali và Nguyễn ngọc Lập nói năng nịnh bợ với Nguyễn thanh Sơn mà thấy tởm. Những tên đó hãy mở to mắt mà đọc những bài như thế này.   

VHT
On Saturday, April 19, 2014 7:58 AM, Thi Do PHAN <phanthido09@gmail.com> wrote:
HAI BÀI VIT RT HAY CA NHÀ BÁO BÙI TÍN "DÙ VIC ĐÁNH TRÁO CÓ HAY KHÔNG?" & Ô. CHU CHI NAM "TH TT THNG CHO CUC ĐU TRANH CHO NHÂN QUYN DÂN CH VN "
Trân trng kính chuyn đ QUÝ V, ĐNG BÀO trong ln ngoài nước tham kho, ph biến rng rãi hai bài viết rt hay nên đc ca :
- NHÀ BÁO BÙI TÍN (Paris) : DÙ VI
C ĐÁNH TRÁO CÓ HAY KHÔNG?
- và Ô. CHU CHI NAM (Paris) : TH
TT THNG CHO CUC ĐU TRANH CHO NHÂN QUYN DÂN CH VN,
vi hy vng tràn tr " MT NGÀY MAI NHÂN QUYN, T DO, DÂN CH SM VÃN HI TRÊN QUÊ HƯƠNG VIT NAM MN YÊU"
Kính mến,
Bs LÊ Th L

From: Pham Thi Kim Thanh <thienkimchanel@yahoo.fr>
Date: 2014-04-19 14:07 GMT+02:00
Subject: Mời đọc một bài rất hay/ phải có cái "tâm"... lành-chân-tâm để hiểu, để ghét để thương...
Le Samedi 19 avril 2014 11h51, Khanh Nguyen-Kim
Một bài viết nên  đọc. Bài viết về con người HỒ CHÍ MINH do cựu đảng viên thức tỉnh ông Bùi Tín.
TK.

From: vinavid1
Date: Fri, 18 Apr 2014 18:44:23 -0700
Subject: [BTGVQHVN-2] Hồ Chí Minh: "Thần Tượng" Sụp đổ trong lòng người Cộng Sản: Dù việc đánh tráo có hay không…[HCM & Ho tap Chuong (Tau)

Huyền thoại về hồ-chí-minh như một cây kim dấu trong bao. Đã Lòi Ra, chân dung của một con người ít học, sống nhờ
vào sự xảo trá.

Bùi Tín nhờ đi và sống nhiều nên đã khám phá điều này. Sớm Hơn những người khác ở trong lòng chế độ trong đó có Tướng Vĩnh và Cù Huy Hà Vũ.

Không cần làm thầy bói, "Đế quốc" Mỹ sẽ cho Cù Huy Hà Vũ sáng mắt hơn về hồ-chí-minh.

Nhưng cũng không cần phải vội lạc quan hay bi quan, đất Mỹ cũng đã làm hư một số cựu sĩ quan của QLVNCH. Thế mớibiết, khi có cái "tâm" chẳng lành, thì ở đâu cái con người ấy cũng chỉ là một thứ ký sinh trùng, rút tỉa chất bổ từ môi trường nhưng lại thải ra nhiều chất độc cho những người chung quanh.

Đừng quên rằng những tên Việt-gian này thừa biết rằng "không có gì quí hơn Độc Lập Tự Do" nhưng đối với họ "đồng tiền vẫnlà trên hết", nhưng họ không nề hà gì dùng những lời nói và hành động của họ theo lệnh của đồng tiền để duy trì một chế độ vô-nhân đang thống trị và áp bức đồng bào "ruột thịt" của họ.

Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi!

Trong bài viết dưới đây, Bùi Tín đã chia sẻ rất chân thành về sự Thay Đổi của ông đối với "thần tượng" hồ-chí-minh

Tường Giang.


CU H ĐI LÀM “KÁCH MNH”

Cu H quê Ngh An
Con đường “kách mnh” Cu làm được chi?
Gii ngh đy t, cu li
Cho lũ Nga Cng, lm lì Tu Mao
Cu bp dân đến thế sao?
Thiên đàng xã nghĩa, ch nào h Cu?

@@@

Cu H quê Ngh An
Cu đi “kách mnh” hi  làm được chi?
Cu tr tr nói: “Ơ thì
Hết theo ông Xít, ri thì “ông” Mao
Hi Cu xã nghĩa ra sao
Thiên đàng xã nghĩa, ch nào h Cu?
Cu gãi đu, Cu lu bu
Mt Cu ng đ, tiên sư nhà mày!

Da Cau Bong


Friday, April 19, 2013
17/04/14 | Tác giả: Bùi Tín
Dù vic đánh tráo có hay không…
Sau bài viết ‘’Cuộc đánh tráo không thể có’’ trên VOA, tôi đã nhận được một số ý kiến tán đồng, một số ý kiến phản đối. Đây là chuyện bình thường. Tôi rất coi trọng những ý kiến phản đối để điều chỉnh nhận thức của mình, may ra được tiếp cận thêm chân lý. Đó là điều tôi cho là hệ trọng nhất.

Tượng HCM

Tôi cám ơn bạn Mai Linh và bạn Phan Châu Thành đã phát biểu trên báo Thông Luận và mạng Dân Làm Báo (ra ngày 6/4/2014), phản biện những ý kiến của tôi, cho tôi là “ấu trĩ”, “lập luận chưa chặt chẽ”, thậm chí còn cho rằng tôi vẫn bị niềm tin ở ông Hồ chi phối nặng nề do cái tệ sùng bái cá nhân nhiễm phải khi còn ở trong đảng CS nên đã mất sự sáng suốt cần thiết.
Trong tranh luận tôi luôn tự nhủ phải giữ thái độ trung thực, lương thiện, không tự ái, chủ quan, phải biết phục thiện, công nhận lẽ phải. Chính do thái độ ấy mà sự đánh giá của tôi về ông Hồ đã có những bước thay đổi dần, chắc chắn, trong cả quá trình từ khi ra nước ngoài năm 1990 đến nay, nghĩa là gấn 25 năm.

Trước đó tôi còn tiếc rằng khi kết thúc chiến tranh năm 1975 thì ông Hồ đã mất nên những người lãnh đạo kế thừa không có đủ bản lãnh để thực hiện hoà giải hòa hợp dân tộc, có những chính sách sai lầm dại dột, bỏ tù hàng loạt viên chức – quân nhân của VN Cộng hòa, gây thêm thù hận, chia rẽ, làm hại cho việc xây dựng lại đất nuớc.

Tôi chủ quan nghĩ rằng ông Hồ luôn tỉnh táo, thường khuyên dân “thắng không kiêu, bại không nản”, ông Hồ khôn ngoan, không đến nỗi tệ như Lê Duẩn.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, cả phe XHCN tan vỡ, tôi có dịp trở lại các nước Nga, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, tiếp xúc với nhiều nhà báo, nhà văn các nước này, trao đổi về lý luận, về chủ nghĩa Marx – Lenin, về CHXH hiện thực … thì sự đánh giá của tôi về ông Hồ thay đổi hẳn.

Trong những chuyến thăm Hoa Kỳ, tôi thường ghé qua Thư viện Quốc hội để đọc, ghi, chụp không biết bao nhiêu tài liệu hiếm quý, từ đó tôi hiểu rõ thêm về lý thuyết CS đã sai lầm tận gốc rễ, cả về nhân sinh quan và phương pháp luận. Tôi cũng nhận rõ thêm bộ mặt của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và hàng loạt lãnh đạo CS khác.

Từ 1998 đến 2004, tôi có dịp gặp một số nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu quan tâm đến tình hình VN, viết sách về VN. Ở Paris tôi có dịp gặp, trao đổi ý kiến khá sâu với ông J. William Duiker, cô Sophie Quinn Judge, giáo sư Pierre Brocheux đều là những người viết kỹ nhất về tiểu sử của ông Hồ.

Qua những cuộc thảo luận ấy tôi hiểu rõ ông Hồ hơn, nhất là thái độ của ông Hồ sùng bái mù quáng Stalin, Mao Trạch Đông ra sao, thiếu quan điểm độc lập, tự chủ, bị Trung Quốc ép nên cam chịu chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17 ra sao. Ông được đào tạo là nhân viên tình báo được KGB trả lương.

Tôi hiểu rằng muốn thay đổi chế độ độc đảng tai hại, chuyển đổi sang hệ thống chính trị đa nguyên – đa đảng, nhất thiết phải xóa bỏ hình tượng sùng bái ông Hồ, giải ảo – démystifier – cái ảo thuyết coi ông Hồ là lãnh tụ vĩ đại, thậm chí là vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, để thuyết phục được cả xã hôị ta sớm từ bỏ sự ngộ nhận ấy. Tôi cũng hiểu việc này khó khăn lắm, cần kiên trì nhẫn nại, không thể nóng vội.

Tôi đã cố gắng tham gia vào công cuộc giải ảo cực kỳ hệ trọng này. Ngay từ năm 1991 tôi đã viết bài chỉ rõ ông Hồ đã dùng ngòi bút mang tên Trần Dân Tiên để tự ca ngợi mình trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tự xếp mình ngang các anh hùng dân tộc Lê Lợi, Quang Trung, rồi tự xưng là Bác với nhân dân, trong đó có các cụ già cao tuổi hơn, là những điều không thể chấp nhận.
Tôi bị ngay báo QĐND trong nước phản pháo bằng bài báo ‘’Bùi Tín đi sâu vào con đường phản bội khi xúc phạm bác Hồ ‘’.

Năm 1994 tôi được anh Đỗ Nam Hải từ Úc hỏi về chuyện có thật ông Hồ được Liên Hiệp Quốc công nhận là Anh hùng dân tộc và Danh nhân Văn hóa thế giới không, tôi đã ghé qua trụ sở UNESCO ở Paris, tìm ra những tài liệu gốc để nói rõ không hề có một nghị quyết nào của LHQ như thế, rằng UNESCO chỉ thông báo là nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông Hồ, phía VN có ý định tổ chức kỷ niệm nên LHQ thông báo để mọi thành viên tùy nghi tham gia, nhưng về sau do quá nhiều phản đối nên LHQ không chủ trương tham gia nữa. Đến ngày kỷ niệm, ở Paris cũng như ở Hà Nội, không có một đại diện nào của UNESCO, LHQ tham gia. Hà Nội đã xuyên tạc sự thật, nói dối không biết ngượng. Sau đó, chính quyền không còn dám ba hoa về chuyện này nữa.

Tôi đã nghiên cứu lại hồ sơ Cải cách ruộng đất và thấy rõ thêm thái độ vô trách nhiệm của ông Hồ trong vụ giết bà Nguyễn Thị Năm cũng như việc sửa sai rất tùy tiện giả dối. Chính ông Hoàng Quốc Việt kể cho tôi nghe rằng ông đã vội đến gặp ông Hồ báo tin người ta sắp xử tử bà Năm, ông Hồ hứa sẽ can thiệp, nhưng rồi ông ta lờ đi. Mà chính ông ta còn viết bài ‘’Điạ chủ ác ghê‘’, kể tội ác của bà Năm.

Sau hơn 20 năm nghiền ngẫm, năm 2012 trong một cuộc họp tôi đã công khai nói rõ rằng “trong lòng tôi, ông Hồ không còn là một nhân vật tích cực, có đóng góp gì cho lịch sử VN ; theo tôi, nếu như không có ông Hồ thì lịch sử VN sẽ khác, nhân dân ta có thể không bị chiến tranh tàn phá, không thành một con tốt trên bàn cờ chiến tranh lạnh, có thể không ở trong cái thế chia rẽ, rã rời, phân hóa giàu nghèo khủng khiếp như hiện nay. Cho nên nếu cho điểm, tôi sẽ cho ông Hồ điểm âm, là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử”.
Như vậy nói tôi còn quyến luyến ông Hồ là không đúng, là oan uổng cho tôi.

Tôi đã nói với các bạn trẻ,
cái giờ phút bi thảm của dân tộc có thể là vào một đêm nào đó ở ngõ Compoint (Pháp), người thanh niên non nớt Nguyễn Tất Thành ôm bản Luận cương Lenin vào lòng la toáng ‘’Chân lý đây rồi‘’, từ đó thành người Cộng sản và dắt toàn dân theo chủ nghĩa CS đến nay.

Thưa ông Phan Châu Thành và cô Mai Linh, đây là điều quan trọng nhất tôi muốn nhấn mạnh để đáp lại 2 bài phản biện tôi vừa nhận được. Để nói rằng tuy tôi vẫn chưa tin rằng trong lăng Hồ Chí Minh là xác một người Trung Quốc mang tên Hồ Tập Chương, nhưng điều đó không hề thay đổi về sự đánh giá của tôi đối với nhân vật từng đứng đầu đảng CS VN và chế độ VN Dân chủ Cộng hòa từ năm 1945 đến năm 1969. Đó là một nhân vật tiêu cực, có hại, với đường lối bế tắc, sai lầm, độc đoán.

Với tôi, đó là một quá trình vận động trí tuệ và tình cảm gay go, thú vị đi tìm sự thật, đạt đến kết quả cuối cùng là từ chỗ coi ông Hồ là lãnh tụ vĩ đại, sáng suốt, dấn thân vì nước vì dân, sống giản dị, vào tù ra khám, được cả nước kính yêu, thế giới ngưỡng mộ … thật ra chỉ là một nhà hoạt động cơ hội, thiếu kiến thức chính trị cơ bản, mù quáng theo chủ nghĩa Lenin và Stalin, sùng bái Mao, khinh thường luật pháp và các thể chế dân chủ, dẫn dắt đất nước vào con đường độc đảng tối tăm, dấn sâu mãi không còn có đủ nghị lực để quay lại con đường sáng của thế giới dân chủ, ngay cả khi tuyệt đại đa số các nước cộng sản cũ đã phải quay lại với thế giới dân chủ thì những kẻ kế-thừa ông vẫn ù lỳ vì lòng tham.

Theo tôi việc chưa đạt được đồng thuận thật cao là trong lăng Hồ Chí Minh hiện tại là người Việt hay người Tàu, là Hồ Chí Minh hay Hồ Tập Chương, không ảnh hưởng gì đến việc đánh giá nhân vật lịch sử này , và việc đánh giá hiện nay đang trên quá trình vận động, thay đổi, nhất là trong lực lượng tuổi trẻ, không bị tác động bởi bộ máy tuyên truyền áp đặt của chính quyền.

Riêng với một bộ phận khá đông đảng viên CS lâu năm, theo kinh nghiệm bản thân tôi, các bạn nên ra sức thuyết phục bằng lý lẽ, không nên nóng ruột vội vã chụp mũ là “ngu lâu”, là “ngoan cố”, vì từ bỏ một nhận thức sâu, tình cảm đậm, nuôi dưỡng vài chục năm không dễ dàng.

Con người ta có lúc kỳ lạ vậy đó; cổ xúy dân chủ, lên án độc tài, nhưng vẫn coi ông Hồ là thần tượng. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh là thế. Luật sư Cù Huy Hà Vũ là thế ; ông coi Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại, cũng coi đại tướng Võ Nguyên Giáp là kiệt xuất. Tướng Vĩnh lên án quyết liệt chế độ tham quan ô lại hiện tại, xuống đường sát cánh cùng anh chị em dân chủ thế là đáng quý rồi. Rồi dần dà tướng Vĩnh, luật sư Hà Vũ cũng sẽ nhận ra.

Kẻ trước người sau, khi đã có thiện chí, có tư duy độc lập, có lòng yêu nước thương dân mách bảo, sớm muộn sẽ nhận diện đúng ông Hồ, và khi đã nhận ra là như đinh đóng cột, như Galilê thuở xưa, trước dàn giáo hỏa thiêu vẫn dứt bỏ nhận thức cũ, nói lên chân lý: quả đất vẫn quay!

Tuy đánh giá ông Hồ là một vấn đề then chốt, hệ trọng ,nhưng không nên coi đó là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá một con người, sẽ tự mình làm yếu hàng ngũ đấu tranh. Nên có cách nhìn thoáng rộng, bao dung, thuyết phục và chờ đợi. Bạn mình chưa hiểu ra là do ta chưa thuyết phục nổi.

Sau các bài phản biện của 2 bạn Mai Linh và Phan Châu Trinh, tôi vẫn chưa được thuyết phục rằng trong lăng ở Hà Nội là một người Trung Quốc được đánh tráo một cách trọn vẹn; rồi đây có thể việc khám nghiệm ADN của con cháu 2 người đó, hiện còn sống ở Đài Loan và Hà Nội, có thể cho một kết luận đáng tin cậy. Dù sao tôi rất biết ơn sự phản biện ấy, cho tôi dịp nghĩ đi rồi nghĩ lại…

Công cuộc đánh giá đúng con người cầm quyền cao nhất ở VN từ 1945 đến 1969, giải ảo sự sùng bái mù quáng dai dẳng lãnh tụ vẫn là một việc làm cần thiết, bằng những chứng cứ, lập luận vững chắc , tài liệu lịch sử đáng tin cậy, với thái độ bình tĩnh bè bạn chứ không thể bằng sự công kích, chia rẽ, lên án nặng nề, chỉ gây nên phản tác dụng, khi lực lượng dân chủ VN đang cần phát triển và đoàn kết.

Bùi Tín (VOA)

From: hung vu <
Date: 2014-04-19 15:33 GMT+02:00
Subject: [VN-TD] THẾ TẤT THẮNG CHO CUỘC ĐẤU TRANH DÂN CHỦ - NHÂN QUYỀN VIỆT NAM
To: Dien Dan Cong Luan <

 
           THẾ TẤT THẮNG CHO CUỘC ĐẤU TRANH
           DÂN CHỦ - NHÂN QUYỀN VIỆT NAM
 CHU CHI NAM (PARIS)

   Trước sự đàn áp của bạo quyền cộng sản đối với những nhà đấu tranh dân chủ - nhân quyền, với thời gian 30 năm qua, nhiều người bi quan cho rằng cuộc đấu tranh vì dân chủ - nhân quyền rồi cũng sẽ đi đến thất bại. Có phải thế không ?

   Thật ra không phải thế. Ba mươi năm là dài so với 1 đời người, nhưng không là bao so với dòng dài lịch sử của một dân tộc ; nhất là với dân tộc Việt có cả 4 000 năm lịch sử, đã từng đánh Tống, bại Chiêm, kháng Minh, đuổi Thanh. Cuộc đấu tranh cho dân chủ - nhân quyền Việt Nam đang có nhiều thế tất thắng, nếu chúng ta nhìn toàn bộ và theo chiều dài lịch sử Việt.

   - Thế tất thắng thứ nhất đó là sự thật càng ngày càng được phơi bày, chứng tỏ chế độ cộng sản chỉ là một cuộc lừa đảo lớn nhất của thế kỷ 20, như một nhà sử gia đã nói ; kẩu hiệu cộng sản đưa ra : «  Chế độ cộng sản là chế độ đại diện cho thợ thuyền, bảo vệ và đấu tranh cho công nông « ; nhưng thực tế, người dân dưới chế độ này bị bóc lộ nhất. Hình ảnh hai chế độ Bắc Hàn và Nam Hàn cho chúng ta thấy rất rõ. Nam Hàn hiện là cường quốc kinh tế thứ 10 trên thế giới, sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 15 000$ ; trong khi đó người dân Bắc Hàn dưới chế độ cộng sản, thì đang chết đói. 

Người cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo, như chính cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên sô, ông Mikhail Gorbatchev tuyên bố : «  Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản. Nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng người cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Người Nga có câu : «  Sự thật nặng hơn quả địa cầu «  , và chính câu nói này đã được những người dân chủ dùng làm khẩu hiệu cho công cuộc đấu tranh giật sập chế độ độc tài, nói láo cộng sản Liên Sô, vào cuối thập niên 80, đầu 90. Nó đã được coi như một trong những lý do chính đưa đến thắng lợi của những người đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Nga. 

Thật vậy, sức mạnh của bạo lực, của dối trá, tuyên truyền có thể thắng trong ngắn hạn ; nhưng sức mạnh của dài hạn vẫn là sức mạnh của sự thật. Trở về lịch sử để chúng ta nhìn rõ hơn. Cách đây 2006 năm, nước Do Thái bị đô hộ bởi đế quốc La Mã, dân Do Thái bị lầm than, chính vì vậy mà có cuộc nổi dậy của Đức Chú Jésus. Viên toàn quyền La Mã lúc bấy giờ là ông Ponce Pilat dẹp hoài không xong, bị triệu về Rome hạch hỏi. Ông đã thẳng thắng trả lời : «  Thưa César ( Bệ hạ), tôi có thể chiến thắng tất cả ; nhưng tôi không thể nào chiến thắng lời nói sự thật và việc làm nhân đạo của Jésus. » 

Hành động của cộng sản Việt Nam, ăn gian, nói dối, gian manh quỉ quyệt, không có một chút gì là lương tâm, lương tri con người ; ăn uống, chơi bời hả hê, thừa múa, đánh những canh bạc cả triệu đô la ; trong khi đó thì đại đa số dân không có một đồng để sống, ngay cả những người đã hy sinh cho đảng cộng sản, bị tật nguyền ; những hành động đó, nếu «  chiến thắng », thì cũng chỉ là nhất thời, sớm muộn sẽ phải nhường chỗ cho sự thật, cho lương tâm, lương tri, cho tình con người. Đó mới là chiến thắng lâu bền.

   Một trong những sai lầm lớn của K. Marx khi ông cho rằng ý thức con người là do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Và từ đó, những người cộng sản tin rằng có thể dùng hoàn cảnh và thông tin tuyên truyền nhồi sọ để thay đổi sự suy nghĩ, nhận xét của con người. Nhưng thực ra, con người khi sinh ra nó đã đuợc Trời phú cho lương tâm, lương tri, tất nhiên cũng có những trường hợp thiểu số, ngoại lệ. Với lương tâm, lương tri, con người dù trong hoàn cảnh nào chăng nữa, nó vẫn có thể phân biệt đâu là phải, đâu là trái, cái gì là thiện, cái gì là ác, cái gì nên làm, cái gì không nên làm, đâu là dối trá, đâu là sự thật. 

Ở đây tôi chỉ lấy một vài thí dụ cá nhân điển hình, nổi tiếng để dễ hiệu : Trường hợp nhà bác học Sakharov, cha để của bom nguyên tử Liên Sô, hai ba lần đưọc giải thưởng Lénine ; quả là một người con cưng của chế độ. Nhưng rồi ông thấy chế độ làm những điều sai trái, phản dân chủ, phản nhân quyền, ông đã thẳng thắn chống đối, đến nỗi phải vào tù. Những người như ông Gorbatchev và Etlsine, một người là Tổng Bí Thư, một người là Ủy viên Bộ Chính trị, đặc trách đảng ở Moscou, những người này, nếu bảo là do hoàn cảnh, giáo dục và tuyền truyền làm nên, thì họ là hoàn toàn như vậy, không những họ bị nhồi sọ, mà họ còn là người nhồi sọ kẻ khác. Nhưng đến một lúc lương tâm thức tỉnh, lương tri trở lại, họ sẵn sàng từ bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi, đứng dậy nói lên tiếng nói của lẽ phải, của sự thật, của lương tâm, lương tri ; như câ u :«  Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo ( Gorbatchev), «  Làm gì có tự do dân chủ dưới chế độ cộng sản. 

Ngay ở trong đảng, khi ông Tổng Bí Thư dơ tay là mọi đảng viên phải răm rắp dơ theo. Nếu không thì bị khó dễ hay bị bỏ tù sau này. Đối với đảng viên còn vậy, hưống chi đối với người dân » ( Etlsine). Không nói đâu xa, chúng ta trở về Việt Nam, những người như ông Hoàng minh Chính , cựu Viện Trưởng Viện Mác Lê, đại tá Phạm quế Dương, nhà văn Dương Thu Hương, đây cũng là những người do hoàn cảnh, giáo dục và tuyên truyền cộng sản nhào nặn lên. Nhưng đến một lúc, trước cảnh đảng đi ngược lại lòng người, trái với lòng dân, phản sự thật, không còn tình người, họ can đảm đướng lên chống đảng, nói lên tiếng nói của sự thật, của lương tâm, luơng tri.

   - Thế  tất thắng thứ nhì, đó là cuộc đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền đang đi hợp lòng dân, lòng người, đi đúng chiều hướng của lịch sử Việt, mặc dâu bị đàn áp, nhưng những ngưới đấu tranh chống lại bạo quyền càng đông và càng được dân hậu thuẫn.

   Một khi sự thật càng ngày càng được phơi bày, người dân càng ngày càng thấy rõ bản chất thật của người cộng sản, của chế độ, thì họ càng hưởng ứng đông. Có một nhà báo hỏi một vị Đại Sứ Tây phương ở Lỗ Mã Ni ( Roumanie) vào cuối thập niên 80, khi chế độ độc tài của 2 vợ chồng Ceausescu bị sụp đổ : Tại sao một chế độ với một cơ quan công an, tình báo, cơ quan tuyên truyền mạnh như vậy mà sụp đổ một sớm một chiều. Vị đại sứ không ngần ngại trả lời rằng khi sự thật được phơi bày, khi sự sợ hãi đã đổi chiều, người dân không còn sợ hãi nửa, thì chế độ sụp đổ. Có lẽ đây là qui luật để đưa đén sự sụp đổ tất cả mọi độc tài, vì bất cứ một chế độ độc tài nào cũng dựa trên hai cột trụ chính : bộ máy thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật, bộ máy công an kìm kẹp dọa nạt làm cho người dân sợ phải theo. Khi hai cột trụ này bị gãy, thì chế độ sụp đổ.

   Chính vì vậy mà vào năm 1978, khi mới lên ngôi, Đức Giáo Hoàng Jean Paul I I, trở về thăm Ba Lan, còn dưới chế độ độc tài cộng sản, Ngài đã tuyên bố : «  Hãy can đảm !Đừng sợ sệt. Và hãy hy vọng !" Câu nói này là một trong những nguyên do chính đưa đến sự sụp đổ chế độ cộng sản Ba Lan sau này.

   Thật vậy, dân Việt ngày hôm nay muốn thoát khỏi chế độ độc đài để có hy vọng sống một cuộc sống tự do, tốt đẹp hơn thì hãy can đảm đứng lên đấu tranh. Đấu tranh chống lại những bất công mà mình đang chịu, như việc cướp đất đuổi nhà, như việc bị quan quyền địa phương ức hiếp, bị xiu cao thuế nặng, không đủ tiền nuôi thân, nuôi gia đình, cho con đi ăn học. Can đảm đứng lên và càng đông càng tốt thì sự sợ hãi sẽ đổi chiều.

   - Thế tất thắng thứ ba đó là thế giới độc tài cộng sản đã sụp đổ, những nuớc độc tài cộng sản còn lại trong đó có Việt Nam chỉ là những cành khô, củi mục chôi lềnh bềnh trên đại dương dân chủ - nhân quyền thế giới.
   Cộng sản Việt Nam, đã từ xưa thường ca tụng : «  Liên Sô thành trì cách mạng cộng sản. Đông Đức thiên đàng cộng sản.  Hiện tại của Liên Sô, của Đông Đức là ngày mai, là tương lai của Việt Nam. » Nay Liên Sô, Đông Đức sụp đổ, cộng sản Việt Nam mất định hướng, phải bám vào Trung Cộng, mặc dầu trước đây hết lời chửi rủa Trung Cộng : «  Kẻ thù liền sông, liền núi, liền trời và liền biển. Kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam. »

Cộng sản Việt Nam hiện nay và Trung Cộng là 2 kẻ « Đồng sàng dị mộng « . Trung cộng từ ngàn xưa vẫn là kẻ bành trướng, xâm chiếm và không bao giờ quên lời của Đặng tử Bình : «  Cộng sản Việt Nam là kẻ ăn cháo, đái bát », sẽ tìm cách lợi dụng, lấn đất, cướp biển càng nhiều càng tốt. Vì vậy, dân Việt nhìn thấy rất rõ ngày hôm nay là ngày nào còn chế độ cộng sản, ngày đó chủ quyền quốc gia không còn, và càng bị lệ thuộc Trung Cộng. 

Tuy nhiên cả 2 chế độ cộng sản này cộng với Cu Ba và Bắc Hàn, ngày hôm nay, chỉ là những cành khô củi mục trôi lềnh bền trên đại dương dân chủ, chỉ là một thiểu số lành đạo cai trị dân bằng khẩu súng và cái còng, «  Danh là bá thiên hạ ; nhưng thực là mất lòng mọi ngườỉ « , sớm muộn sẽ bị sóng đại dương nhấn chìm. Nói như Đức Trần hưng Đạo : «  Quân như thuyền và dân như nước. Nước có thể chở thuyền ; nhưng nước cũng có thể làm đắm thuyền. »

 - Thế tất thắng thứ 4 đó là chế độ càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn tham nhũng, hối lộ, nội tình đảng Cộng sản Việt Nam đang phân tán, chia rẽ trầm trọng.
   Sự thật càng ngày càng được phơi bày, chứng tỏ đảng cộng sản lệ thuộc ngoại bang, tham nhũng hối lộ, tạo nên một xã hội vô cùng bất công, không chỉ với người dân thấp cổ bé họng, mà ngay với cả những thương binh, quả phụ đã bỏ cả cuộc đời đấu tranh cho cộng sản, nghĩ rằng cộng sản là công bằng ; nhưng trên thực tế, cộng sản là bất công, phẩm trật, quan liêu, phong kiến nhất. Chính vì vậy mà nhiều quân cán chính cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ, hay nếu không, thì trong lòng cũng không còn tin gì nơi chế độ. Trường hợp ông Hoàng Minh Chính, Phạm quế Dương là trường hợp điển hình và nhiều người biết tới, nhưng còn cả bao nhiêu người khác nữa, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay qua báo chí, mạng internet, thông tin, cộng sản không dễ dàng bưng bít như xưa,  nói dối sẽ bị giới trẻ lật tẩy dễ dàng ; và như tôi đã nói ở trên, dù hoàn cảnh thế nào, nhưng trong thầm kín, tâm tư mỗi con người, đều có lương tâm và lương tri. Lương tâm và luơng tri này đã làm cho phần lớn dân Việt, bằng cách này hay cách khác, công khai hay âm thầm, đều bất mãn chế độ.

Thêm vào đó chế độ càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn hối lộ, tham nhũng. Hối lộ, tham nhũng như bệnh ung thư của một chế độ xế chiều, nếu chữa nó, thì phải cắt dần cắt mòn những bộ phận của cở thể, đến lúc kiệt sức rồi cũng chết. Nếu không chữa, nó ăn dần ăn mòn cơ thể, rồi cũng chết. Chúng ta cứ nhìn cảnh chợ chiều, chúng ta sẽ rõ : ai cũng vội vã bốc hốt, giành giựt, bán tháo, bán đổ để về nhà. Lịch sử chúng ta có thể nhìn dưới nhiều con mắt khác nhau ; nhưng chúng ta cũng có thể lấy quan niệm lịch sử lập lại, khi ta nhìn sụp đổ của những đế quốc hay triều đại. Triều đại nhà Tống bên Tàu ; dù có dùng Bao Công, một ông quan tòa xử án công minh đến đâu chăng nữa ; nhưng càng xử án, đưa cả phò mã, con rể vua ra xử, càng làm chế độ yếu dần đi, cho đến lúc sụp đổ. Ở Việt Nam, cuối thời nhà Trịnh, cuối thế kỷ thứ 18, bệnh kiêu binh, bệnh hối lộ đã là làm tiêu tan nhà Trịnh. Gần đây, nếu chúng ta quan sát sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên Sô, thì ai cũng đồng lòng rằng tham nhũng hối lộ là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chế độ sụp đổ. 

  - Thế tất thắng thứ 5 đó là cuộc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam đang đi đúng chiều hướng tiến bộ của văn hóa văn minh nhân loại.
   Nếu chúng ta nhìn lịch sử một cách lâu dài, theo một số sử gia và nhà một số nhà kinh tế, nhân chủng học, thì lịch sử nhân loại chia ra làm 5 nền văn minh : Văn minh trẩy hái lúc đầu, con người hái cây quả, săn bắn xúc vật quanh hang hốc của mình để sống. Nhưng rồi từ từ cây trái, xúc vật cũng trở nên khan hiếm, con người phải đi xa để kiếm ăn, con người bước sang nền văn minh du mục. Văn minh du mục tiêu biểu là đế quốc Mông Cổ thời Thành cát Tư Hãn. Dù đi xa, cây trái và xúc vật cũng không còn nhiều một cách tự nhiên, con người phải nuôi xúc vật, trồng cây để sinh sống, con người bước sang văn minh định cư, nông nghiệp. Văn minh định cư nông nghiệp tiêu biểu và to lớn đó là văn minh ai Cập, Ấn Độ, phát xuất từ châu thổ những con sông lớn, vì đất phù sa phì nhiêu, sông có nước để tưới cây, cho xúc vật và người uống. Với nền văn minh này, con người đã có thể thỏa mãn những nhu cầu cần thiết. Một khi nhu cầu cần thiết được thỏa mãn, con người nghĩ đến nhu cầu xa xỉ, như khi nó có thể dệt vải để mặc, nhưng nó thích mặc lụa, thì nó trao đổi với người dệt lụa. Đó là văn minh thương mại.Con đường Tơ Lụa nối liền đông tây là một trong những di tích của thời đại này.

Trong thời kỳ văn minh thương mại, con người đã phát minh ra máy hơi nước, máy nổ, téléphone, rồi máy điện tóan. Với téléphone và máy điện tóan, con người không cần đi xa để trao đổi buôn bán, con người bước sang nền văn minh tri thức điện tóan, chính là văn minh ngày hôm nay.

Thật vậy, con người đã thóat khỏi 4 thời kỳ văn minh trước, để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ nhất bằng cách dùng máy hơi nước, để khai thác tài nguyên thiên nhiên, cách mạng phương thức sản xuất, từ đầu thế kỷ thứ 18 tới cuối thế kỷ thứ 19. Sang thế kỷ 20 và vào giữa thế kỷ này, con người dùng máy nổ để tăng cường sản xuất. Cuộc cách mạng thứ 3 là cuộc cách mạng hậu công nghiệp, bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 cho tới ngày hôm nay, với phát minh máy điện tóan, thô sơ lúc ban đầu, được dùng trong quân sự, rồi được thu nhỏ, hoàn hảo hơn và được dùng trong kinh tế và ngay cả tư nhân, như chúng ta thấy ngày hôm nay. 

Ở thời kỳ văn minh tri thức - điện toán này, sản xuất kinh tế đã được chuyển từ sức mạnh bắp thịt lên trí não ; yếu tố quyết định trong sản xuất kinh tế không còn là nhân công đông hay hầm mỏ nằm trong lòng đất, mà chính là nằm trong đầu óc con người, với những phát minh sáng kiến. Chính vì vậy mà nền văn minh này đòi hỏi một mô hình tổ chức xã hội thích hợp, đó là tự do, dân chủ và kinh tế thị trường ; vì chỉ dưới chế độ dân chủ con người mới có thể trao đổi dễ dàng những ý kiến, tư tưởng, những công trình nghiên cứu, và từ đó mới dễ phát minh. Quốc gia nào có mô hình tổ chức nhân xã dân chủ nhất, tôn trọng tự do, nhân quyền nhất, giúp con người có nhiều phát minh nhất, quốc gia đó có sức mạnh sản xuất kinh tế tốt nhất.

-         Thế tất thắng thứ 6 đó là cuộc đâu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam đang được cộng đồng người Việt và cộng đồng thế giới yêm trợ càng ngày càng mạnh.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại, trong những thấp niên qua còn bị bận rộn về việc định cư, sinh sống, nay việc này đã tạm ổn, thêm vào đó, đã thành công trong việc dạy giỗ con em ăn học, nắm nhiều vai trò quan trọng trong những chính quyền địa phương. Và với cái nhìn tự do, dân chủ, đúng chiều hướng của văn minh nhân loại, phản lại độc tài, những con em này là những tiếng nói hữu hiệu cho cuộc đấu tranh dân chủ - nhân quyền Việt Nam đối với những chinh quyền quốc tế sở tại.

   Đó là những yếu tố thuận lợi khách quan. Còn yếu tố chủ quan tùy thuộc ở mỗi người Việt, mỗi tổ chức đấu tranh cho dân chủ - nhân quyền, ở quốc nội cũng như hải ngoại, có thể nắm bắt được thời cơ thuận tiện này hay không . Để nắm bắt thời cơ này, tất nhiên cần phải nhiều yếu tố ; nhưng hai trong những yếu tố căn bản, đó là sự thật và can đảm. Nói như Đức Giáo hoàng Jean Paul I I : «  Hãy can đảm ! Đừng sợ xệt !  Và hãy hy vọng ! « Can đảm đứng lên đấu tranh, nói lên tất cả những bất công, từ việc cướp nhà, cướp đất, cuộc sống cơ cực, bị bóc lột bởi tư bản đỏ trong nước, thông đồng với tư bản trắng quốc ngoại, trả nhân công rẻ mạt, đối xử tàn tệ với anh chị em công nhân Việt ; nói lên xiu cao thuế nặng, làm không đủ sống, không có tiền đi bác sĩ, nhà thương, hay cho con đi học ; trong khi đó thì đảng đoàn cán bộ tiêu tiền vứt qua cửa sổ. Can đảm đứng dậy, càng đông, càng tốt, nói lên sự thật, không những cho chính mình, mà cho nghững người chung quanh mình, cho con cháu thế hệ mai sau ! Chỉ như vậy thì công cuộc đấu tranh cho dân chu – nhân quyền mới sớm thành công, dân tộc, đất nước mới sớm thoát khỏi độc tài, khỏi cảnh nghèo đói, lầm than !
                                 

                                                      Chu chi Nam


On Wednesday, April 16, 2014 9:17 PM, Dac Le <dac.le2012@gmail.com> wrote:

Kính chuyn tiếp đơn xin ân xá ca HCM 
Lê Ðc




  Kính Lạy Oan Hồn Của 7.000 đồng bào vô tội ở Huế bị thãm sát trong biến cố Tết Mậu Thân 1968! Kính Lạy Oan Hồn Của 10.000 Đồng bào Quảng Trị bị ĐẠI PHÁO CỦA BỘ ĐỘI GIẢI PHÓNG CHÚNG CON nghiền nát trên Đại Lộ Kinh Hoàng vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972! Kính Lạy Oan Hồn Của 2.000.000 Đồng Bào đã chết oan trên biển cả trên đường đi tìm tự do sau năm 1975! 

Kính Lạy Các Chư Vị Sỹ Quan và Binh Sỹ QLVNCH đã vị quốc vong thân! Kính lạy hương linh của hàng triệu đồng bào Việt Nam đã bị những người cộng sản chúng con tàn sát ! 

Con là Hồ Chí Minh, một đại tội đồ của dân tộc và tổ quốc Việt Nam: Nay con đã thấy ra được tội ác tày trời của con đối với tổ quốc, với dân tộc rồi, con xin ăn năn tội lỗi cùng chư vị và toàn thể đồng bào Việt Nam, Xin đồng bào và chư vị hãy tha thứ tội lổi trời không dung đất không tha đó của con, Con xin thành kính cảm ơn chư vị! "  
Con Cháu Của Chư Vị 
     Hồ Chí Minh
Ti li con làm tht dã man,
M
u Thân sát hi vn dân oan. 
Năm T
ư đu t đu rơi cht ! 
B
y my xua quân bn th dàn. (1972) 
Karl Marx, Lenin hèn ra l
nh, 
Con nay h
i hn kính xin van. 
H
con cáo li xin ân hê, 
Mong đ
ược khoan hng khi b giam. 

H
Chí Minh (ký tên)
Lê  Ðc (sao lc)


HYFRYDOL-ALLELUIA! SING TO JESUS


No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết