Tuesday, May 20, 2014

VẾT THƯƠNG QUÁ KHỨ BỊ ĐÀO SÂU HƠN



From: "Bang Tran bangtran5

 
VẾT THƯƠNG QUÁ KHỨ BỊ ĐÀO SÂU HƠN
Võ Phương
Ngày 30-4-1975 Cộng đảng Hanoi cưỡng chiếm Sàigòn đã để lại vết thương tinh thần lâu dài cho tất cả các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vì tự nhận thấy mình không bảo vệ được Tự Do cho đồng bào miền Nam, cho nên những chiến binh năm xưa vẫn ôm một nỗi buồn muôn thuở. 

Đến nay đã 39 năm, vết thương ấy chưa lành, thì mới đây, ngày 3-5-2014 khi nghe tin giặc Tàu ngang ngược đặt dàn khoan HD981 bất chính vào vùng hải phận của Tổ Quốc Việt Nam để khai thác tài nguyên, lại dấy lên một niềm uất hận! Vết thương quá khứ bỗng dưng bị khoét sâu hơn!

Ai cũng hiểu, mặc dù người lính Việt Nam Cộng Hòa đã “gãy súng” không còn khả năng chiến đấu, không còn trách nhiệm vì họ đã bị nhiều thế lực, cả bạn lẫn thù kết hợp với nhau, loại họ ra khỏi vòng chiến từ khi hiệp định Paris được ký kết năm 1973. 

Nhưng dòng máu nóng yêu nước vẫn chưa nguội. Với danh hiệu “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” của năm xưa đến nay vẫn còn nguyên vẹn đã là nguyên nhân gây trăn trở khi nghe tin giặc Tàu ngang tàng, xấc xược tiến sâu vào vùng lãnh hải thiêng liêng của Tổ Quốc để thực hiện ý đồ xâm lăng mà chúng đã nuôi dưỡng từ lâu. 

Giặc Tàu (chúng tôi nói đến Giặc Tàu chứ không đả động đến nhân dân Trung Hoa) đã sử dụng lực lượng hải quân hùng mạnh tiến vào vùng biển của Việt Nam nhằm hỗ trợ cho dàn khoan, nơi dự đoán có chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận thế giới và coi thường Cộng đảng tay sai của họ ở Hanoi. 

Có thể chúng sẽ chiếm cứ vùng lãnh hải này lâu dài, tương tự như bán đảo Cremia của Ukraina bị Nga chiếm đóng hồi đầu tháng 3, vì cả Tàu lẫn Nga biết chắc là 2 khổ-chủ, không ai có khả năng đòi lại. 

Khổ chủ Việt Nam nói ở đây là toàn Dân Việt Nam trong và ngoài nước, chứ không phải Cộng đảng Hanoi, vì theo chứng cớ lịch sử, Cộng đảng Hanoi đã dâng đất và biển của Tổ Quốc Việt Nam cho giặc Tàu từ lâu rồi, rõ ràng nhất là công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt cộng ký ngày 14-9-1958; không còn gì để nói nữa. 

Việt cộng và Tàu cộng tuy là hai đơn vị, nhưng cùng một “tổ quốc cộng sản”, cùng một đường lối độc đoán, độc tài sắt máu cai trị dân. Họ cần có nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Vì thế, có dự đoán cho rằng, “sự kiện Biển Đông” chỉ là một trò hề, đánh lừa thế giới.

Mà cho dù có thật đi nữa thì cũng không ai ngạc nhiên về hành động ngang ngược của Bắc Kinh, vốn đã là truyền thống lâu đời của giặc Đại Hán (người Hán khác với giặc Đại Hán). 

Đặc biệt là nhân dân miền Nam, ngay từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1954-1963), đã được ông Ngô Đình Nhu cảnh báo: “…Nếu miền Nam rơi vào tay Cộng Sản miền Bắc thì nước Việt Nam sẽ rơi vào tay Trung Cộng…”(1) Bây giờ thì hiển nhiên như đã thấy. 

Do đó, nếu có ngạc nhiên chăng thì chỉ ngạc nhiên về phương cách hành động của giặc mà thôi. Và cũng do đó mà dân Việt Nam đã 39 năm nay, gọi ngày 30 tháng 4ngày mất nước hay ngày Quốc Hận, hoặc cứ đến mỗi tháng Tư hàng năm, thì danh từ “tháng Tư đen” lại xuất hiện trên các hệ thống truyền thanh, truyền hình, báo chí, trong lòng mỗi người tỵ nạn cộng sản,… mặc cho các thế lực tay sai của Hanoi ở hải ngoại cố tình biến đổi ngày này thành “ngày tự do”. 

Nhưng 39 năm đã qua, chưa bao giờ thế lực tay sai thành công và sẽ chẳng bao giờ thành công. Ngày “Quốc Hận” sẽ là quốc hận muôn đời. Thế nhưng ít ai quan tâm đến nguyên nhân sâu xa gây nên ngày Quốc Hận và đại thảm họa mất nước đã manh nha từ đâu, từ bao giờ?

Đại họa mất nước đã manh nha từ khi đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập ngày 3-2-1930 ở bán đảo Cửu Long, Hồng Kông, Trung Quốc, theo chỉ thị của “Cộng Sản Quốc Tế 3” do Nga và sau này có thêm Tàu chỉ đạo, mà người chấp hành chỉ thị này, không ai khác hơn là Hồ Chí Minh. 

Thế nhưng, cho mãi đến năm 1979, sau khi giặc Tàu “dạy cho Việt Nam một bài học” ở biên giới phía Bắc Việt Nam thì Cộng đảng Hanoi mới tức giận tiết lộ: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”

Sự thật đó là: Mao Trạch Đông đã khẳng định trong cuộc họp Bộ Chính Trị ban chấp hành trung ương đảng CS Tàu tháng 8-1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”(1).

Khi đọc lời khẳng định này của Mao thì phải thấy ngay 2 mưu đồ lớn: -Thứ nhất là Mao muốn  thực hiện giấc mộng bành trướng bá quyền to lớn, nên đã hướng mũi dùi tấn công về toàn cõi phương Nam. 

Đồng thời phải ngầm hiểu rằng, miền Bắc Việt Nam đã nằm gọn trong tay giặc Tàu ngay từ trước 1975, tức là trước năm Cộng đảng Hanoi chiếm được Saigon. -Thứ hai là Mao đã quyết định xóa bỏ “tinh thần Quốc Tế vô sản” giữa họ và khối Liên Xô-Đông Âu. Mao và những người kế vị ông ta chỉ nhắm đến quyền lợi riêng tư của đảng CS Tàu, chứ không quan tâm đến “đảng CS anh-em” nào khác ngay từ thời “chủ nghĩa xét lại” tái xuất hiện ở nước Nga vào thời của Khrushchev. Vào thời kỳ này (khoảng 1966,1967) một số đảng viên cs ở Hanoi bị bắt giam như: Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Thư Hiên và một số người khác bị cáo buộc là đi theo đường lối của “chủ nghĩa xét lại”.

Và như thế thì đã từ lâu, cả Nga lẫn Tàu đều nghĩ đến quyền lợi riêng tư của họ, chỉ có Cộng đảng Hanoi là ngu ngơ, đần độn, không biết gì đến thủ đoạn ma mãnh, đểu cáng của hai “đại ca”. 

Cho nên, trong lúc cả Nga và Tàu dùng chiêu bài “tinh thần Quốc Tế vô sản” để mưu cầu lợi ích riêng tư và lừa bịp các nước CS đàn em hy sinh cho họ, thì Hồ Chí Minh vẫn cứ dạy giỗ cán bộ: “Đệ Tam Quốc Tế là một đảng Cộng sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế, thì các đảng không được làm.” (2)

Cùng một phường với Hồ Chí Minh, vào thời kỳ chiến tranh xâm lăng miền Nam do Cộng đảng Hanoi phát động vào cuối năm 1960, Lê Duẩn, tổng bí thư đảng cũng hô hào một cách ngu xuẩn: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên-Xô và Trung Quốc”. Tại sao lại phải đánh cho Liên-Xô và Trung Quốc? Vì đần độn, chẳng hiểu thời thế ra sao, cho nên Cộng đảng Hanoi đã một thời cúc cung tận tụy làm tay sai cho cả 2 đế quốc đỏ Nga và Tàu, điên cuồng xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Họ dùng xương máu con dân miền Bắc “đi xẻ dọc Trường Sơn” để vào “giải phóng miền Nam khỏi sự kềm kẹp của Mỹ, Ngụy” !? 

Thật đáng buồn cười…ra nước mắt (!) miền Nam không cần những kẻ giải phóng đần độn. Mà hậu quả là hàng triệu sinh linh con em đồng bào ta bị hy sinh một cách vô ích trong cuộc chiến kéo dài suốt 20 năm, với núi xương sông máu trên toàn cõi quê hương. Hệ lụy là ngày nay dưới sự cai tri của Cộng đảng Hanoi, dân tộc Việt Nam đang sống trong vòng nô lệ giặc Tàu.

Sau cuộc chiến tang thương ấy, Cộng đảng Hanoi đã gánh một món nợ tinh thần với giặc Tàu kèm theo món nợ chiến phí khổng lồ từ Bắc Kinh đã cung ứng để xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 đến 1975, không trả được. Năm 1979, Lê Duẩn ngả theo Nga, phản bội Tàu cho nên Tàu nổi giận, đã nện cho Cộng đảng Hanoi một bài học ở biên giới phía Bắc. 

Hậu quả tai hại là một lần nữa, đồng bào miền Bắc lại lâm thảm cảnh núi xương sông máu, mất người, mất của, mất đất vào tay giặc Tàu, không lấy lại được. Thời gian ấy, bị Nga bỏ rơi, không còn ai nương nhờ được nữa, cho nên Cộng đảng Hanoi lại phải chịu nhục nhã, vuốt mặt, cử Võ Nguyên Giáp đi Bắc Kinh cầu hòa. Dĩ nhiên, đi cầu hòa như thế thì phải chịu lép vế, phải dâng đất, dâng biển cho quan thầy để chuộc lỗi và để trả bớt món nợ năm xưa.

 Thế là từ đó, dân tộc ta lại một lần nữa rơi vào vòng nô lệ giặc Tàu. Rồi đây, nếu không có sự thay đổi to lớn, thì đại thảm họa diệt vong sẽ đến với dân tộc Việt Nam là điều khó tránh. Theo đúng kế hoạch trường kỳ và nham hiểm đưọc soạn thảo từ Bắc Kinh, chúng đã và đang thực hiện.

Trong một bài viết được phổ biến trên internet ngày 22-9-2010, tác giả Nguyễn Trọng Vĩnh, một cán bộ ngoại giao lão thành của Cộng đảng Hanoi, đã 13 năm nhận lãnh trách niệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Bắc Kinh, cho biết (xin trích đoạn nguyên văn): “Thực tế thì hiện tại “độc lập không hoàn toàn”, vì trong đất nước ta hiện có không ít tô giới của nước ngoài: Trên rừng thì có những nơi bị bán (cho thuê dài hạn), vị trí chiến lược thì bị chiếm đóng, ở đồng bằng thì có những công viên vui chơi giải trí do nước ngoài làm chủ, ở biển thì có khu ăn chơi, đánh bạc và những dải trồng đất cây sinh thái… Những tô giới đó người dân Việt Nam tuy là chủ đất nước nhưng không được tự do đặt chân đến. Trên biển thì quần đảo bị chiếm đoạt, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế bị xâm phạm, ngư dân Việt Nam không được tự do đánh bắt hải sản.”

Danh từ “tô giới nước ngoài” trong bài viết này phải hiểu là tô giới của giặc Tàu, nhưng tác giả đã tránh né, không dám “vuốt râu hùm”, tương tự như danh từ “tàu lạ” trên Biển Đông được báo chí đề cập đến trước đây, chính là tàu (ship) của giặc Tàu trên Biển Đông, nhưng “đảng ta” sợ “phạm húy” không dám động đến, phải nói là “tàu lạ”. “Đảng ta” hèn, nên bắt ngành báo chí của đảng và dân chúng cũng phải hèn theo.

Bài viết trên đây của ông Vĩnh được phổ biến từ năm 2010, đến nay là năm 2014; chỉ cần ước đoán trong vòng 4 năm gần đây, mức độ xâm nhập bí mật của giặc Tầu vào Việt Nam nhằm thâu tóm từng ngõ ngách, khai thác tài nguyên bừa bãi, vô tội vạ, có thể nói: quê hương ta chẳng khác nào như một vùng đất hoang vu không có chủ!

 Nếu đề cập đến số người Tàu xâm nhập vào Việt Nam và số của cải mang về Tàu, thì có thể ước đoán là con số rất lớn.

 Tuy không một người Việt Nam nào biết rõ là bao nhiêu vì không ai được phép nhòm ngó, và cũng không ai được phép chống giặc Tàu; nhưng chắc chắn lòng tham vô đáy của giặc kết hợp với lòng tham danh lợi của các quan thái thú Hanoi sẽ chẳng bao giờ ngừng lại, cho phép chúng ta dự đoán là số lượng ấy rất lớn. Quê hương bị đục khoét liên tục cho đến khi “Việt Nam sẽ không còn là Việt Nam” là điều khó tránh!

Trước hoàn cảnh đó, giả sử, ngày nay nếu có tổ chức kháng chiến nào của người Việt Nam yêu nước, bắt chước tiền nhân xưa kia, đi tìm một mật khu bí mật, ẩn náu tạm để chiêu binh mộ lính, chờ thời cơ thuận tiện, xuất quân lấy lại giang sơn gấm vóc, thì cũng rất khó khăn vì mọi ngõ ngách, từ rừng đến núi, từ thành thị đến đồng bằng, không một nơi nào mà không có bóng dáng giặc Tàu và tai mắt của bọn công an nhân dân Việt cộng.

Trở lại hiện tình Biển Đông, chúng ta hãy đọc lại chính sách “ba không” của Hanoi: -Không tham gia các liên minh quân sự. -Không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào. -Không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia; đã được Thứ trưởng Bộ quốc phòng Việt cộng Nguyễn Chí Vịnh nhắc lại trong chuyến viếng thăm Tàu cộng ngày 22-8-2010. 

Như vậy, Tàu cộng quá yên tâm khi khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng “lưỡi bò”, không sợ bị ai phiền hà quấy nhiễu về mặt quân sự.

 Những sự kiện tàu hải giám của Việt cộng cố tiến sát vào dàn khoan, trong lúc tàu hải giám của Tàu cộng phun nước, hay cố tình đâm thẳng vào tàu đối phương… diễn ra trong mấy ngày qua chỉ là những màn kịch trong “vở kịch quốc phòng”, chẳng đi đến đâu.

Cũng căn cứ vào chính sách “ba không” nêu trên, tuy Việt cộng tự ràng buộc vào những điều kiện có lợi cho Tàu cộng, nhưng vẫn chưa đủ làm giặc Tàu tin tưởng và hài lòng, cho nên dàn khoan HD981 mới được cắm xuống thềm lục địa Việt Nam để thử nghiệm lòng trung thành của tay sai Hanoi đối với chủ Bắc Kinh.

 Kèm theo là những nghi vấn về “hội nghị Thành Đô” năm 1990, tuy không được phổ biến nhưng được dư luận bàn tán nhiều về nội dung của hội nghị này là sẽ biến Việt Nam thành một phần đất của nước Tàu, trong một tương lai rất gần! 

Từ những sự kiện đó, có thể giải đoán: tại sao chính quyền Việt cộng không dám hành động như chính quyền Philippines là đưa vấn đề Biển Đông ra trước Tòa Án Quốc Tế. Chỉ vì chính phủ Phi có đồng minh quân sự rõ ràng. 

Còn Việt cộng thì không có ai ngoai trừ giặc Tàu.

 Đã thế, Cộng đảng Hanoi lại nhu nhược, đần độn, thái độ thì nửa nạc nửa mỡ, không dứt khoát lập trường, chập chờn như ma trơi, mà còn bị ràng buộc vào những thỏa thuận bán nước…ngầm như đã nêu trên, cho nên không dám hành động, sợ bị giặc Tàu “dạy cho bài học thứ hai”. 

Tâm lý các quan thái thú ở Hanoi rất sợ bị giặc Tàu thanh trừng.


Nhìn tổng quát vào những cuộc bìểu tình chống giặc ngoại xâm do quần chúng phát khởi vào sáng ngày 13-5 vừa qua, thì thấy còn rời rạc, chưa xác định rõ mục tiêu, chưa đủ lực để làm thay đổi hiện tình đất nước. 

Nó cần phải được thực hiện liên tục, đông đảo, trật tự và đồng bộ trên quy mô toàn quốc. Đặc biệt là ở thủ đô Hanoi và Saigon, trước hết, phải nhắm vào mục tiêu rõ ràng là lật đổ bạo quyền Hanoi vì chính các thủ lãnh Việt cộng ở đây là nguyên nhân làm suy yếu đất nước. 

Mục tiêu thứ hai mới là Tàu cộng. Cần hiểu rằng, những tên đầu sỏ Việt Cộng đã sử dụng bạo lực để nắm quyền cai trị dân, thì chỉ có bạo lực của toàn dân mới đem họ xuống được mà thôi. 

Những thế lực khác từ bên ngoài, nếu có, chỉ là lực phụ. Những cuộc biểu tình vừa qua, tuy chưa mang lại dấu hiệu phấn khởi nhưng dù sao cũng phải coi đây là ánh lửa cần thiết soi rọi vào truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta mà bóng tối Mac-Lê-Mao-Hồ đã bao phủ từ 70 năm qua. 

Hiện tình đang là cơ hội tốt, nếu không lật đổ được bạo quyền Hanoi, thì không thể giải quyết được vấn đề Biển Đông, Việt Nam sẽ bị giặc Tàu cai trị vĩnh viễn.

(1) Chính Đề Việt Nam của Ngô Đình Nhu
(2) Nhà xuất bản Sự thật, Hanoi 10/1979
(3) Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, tập 4
Võ Phương
17-5-2014


No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết