Ha!
ha! ha! ha! ha! ha! ha! ha! ha! ha...
Sư Cu việt cộngTrần
quang Diểu lại diểu dở nữa, và lại tiếp tục tuyên truyền cho Chế độ thái thú
Tàu CSVN...
Khi Giặc Tàu bắt đầu
cướp và xâm lăng Việt Nam (phải kể cả hai thế lực là Tàu Trung Cộng và Tàu Đài
Loan) từ Hoàng Sa đến Trường Sa...Thì chế độ thái thú thực dân Tàu CSVN im lặng
mà "Bán nước Ngầm". Như chuyện Hoàng Sa, và Trường Sa, nhà nước thực
dân Tàu ta im thim thiêp từ Bộ chính trị trung ương Đảng cướp CSVN...và cả nguyên
cái bộ Các Cu Lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ loài người hóa vượn cũng nín im...
Rất tiếc là việt cộng
Vanesaa Nguyễn có cố gắng bênh vực thiếu tá Hồ Quang, thì ai cũng biết hắn là
thiếu tá giăc Tàu Hồ Quang. Tên giặc Tàun này, theo tướng Lữ hán vào giải giới
quân đội Nhật ở miền Bắc, và tên này đã âm mưu Hán hóa, cướp chánh quyền của
Vua Bảo Đại, và chánh phủ Trân1 trọng Kím ở Hà nội...Có ai mà không biết... Cho
dù đảng cướp CSVN có thay đổi lịch sử thì nó cũng vô giá trị mà thội...Vì những
sử gia này khogo dáng tin cậy trong Chủ nghĩa Xã Hội Bịp của bò tót Phấk cu Hồ
(HCM)...
BẬT MÍ
TẦU CỘNG CÔNG BỐ HỒ
CHÍ MINH CHÍNH LÀ THIẾU TÁ HỒ QUANG THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN TRUNG
QUỐC !
Báo Cương Sơn (冈山) loan tải hình Hồ Chí Minh tham gia đấu tranh chống xâm lược.(ghi chú: Hồ Chí Minh có chữ x màu trắng và dấu chấm đỏ).... Nguồn: Quân ủy Cương Sơn (CPC).
Thiếu tá Hồ Quang (Hồ Chí Minh) phục vụ trong Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc, tại quân khu Quảng Châu, Vũ Hán.
Nguồn : Lưu trữ Quân ủy Trung ương Trung Quốc (CPC).
Báo Cương Sơn (冈山) loan tải hình Hồ Chí Minh tham gia đấu tranh chống xâm lược.(ghi chú: Hồ Chí Minh có chữ x màu trắng và dấu chấm đỏ).... Nguồn: Quân ủy Cương Sơn (CPC).
Thiếu tá Hồ Quang (Hồ Chí Minh) phục vụ trong Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc, tại quân khu Quảng Châu, Vũ Hán.
Nguồn : Lưu trữ Quân ủy Trung ương Trung Quốc (CPC).
Rồi chuyện giặc Tàu cướp
biển Đông Nam Á, cướp không phận, cướp Hải phận, đảng ta vẩn không hiểu, nên
vẫn im lặng và bắt bớ đân Việt Nam yêu nước VN đi biểu tình chống giặc Tàu xâm
lăng.. Cái chuyện giàn khoan đã được kéo đi từ hơn nửa năm nay, thì tìnhbao2 VN
cũng lờ đi...Và khi đã thành công và cắm vào thềm lụ địa VN, thì Thủ tướng độc
tài độc đảng Nguyễn tấn Dũng là bộ thông báo việc cắm dùi nạy... Thế giới phản đối
và chờ xem VN phản ứng như thế nào...
Thế là VN đành phải lên
tiếng cho dân VN đi biểu tình và nhân tiện hốt và bắt hết những người VN nào
dám đứng ra đi biểu tình chống 1 giặc Tàu....Hai thế lục tư bản Tàu, Tàu Đài
Loan, và Tàu Trung cộng choảng nhau dành quyền lợi... Nhân tiện đốt phá lẫn
nhau... Thực dân Tàu hổn loạn bỏ chạy về nước...Nhân tiện giặc Tàu chính thức
cho 5 chiến hạm vào Sài gòn để đón 5,000 công nhân Tàu về nước và chở thêm hàng
trăm tấn "Vàng", bọc bằng đất sét hóa trang thành gạch ống, khai thác
ở Bình Dương mà mấy năm nay chưa chuyển về nước Tàu một cách chính thức như
vậy....
Giặc Tàu giả bộ đùng
đùng nổi giận cho 300 trăm ngàn quân, đi chuyển xuống biên giới Miền Băc để giả
bộ xâm lăng Việt Nam. Và đưa thêm 400 trăm tài chiến ra bảo vệ giàn khoan để
giả bộ tấn công Việt Nam. Và làm ra vẻ xung đột ở trên biển Đông Nam
Á....Cứ nhìn thấy Quốc Hội VN do chủ tịcH tàu Là Nguyễn sinh Hùng và cả tổng bí
thư Nguyễn phú Trọng cư 1bình thản yên lặng xem cả nước VN sẻ làm gì, và ngoại
quốc sẽ làm gì???
Đám lãnh tụ CSVN thì
bính chân như vại, không dám phản đối, không dám lên tiếng, không dám chống
đối, và chỉ biết cho Công An đi bắt những ai dám phản đối và chống lại sư xâm
lăng của giặc Tàu...Giặc Tàu không thấy ai phản đối mạnh, cứ tiếp tục in thêm bản
đồ mới, chiếm hết vùng Biển Đông Nam Á của Việt Nam luôn cả Hải Phận thế giới
và dự định đưa thêm 3 gian khoan nữa định làm nguyên cả các thành phố nổi để
chãnc đường hàng hải quốc tế qua vùng biển Đông Nam Á....
Trước việ đảng cướp CSVN
im lặng và chấp nhận không kiện nước Tàu...Quốc Hội đảng cướp thái thú thực dân
Tàu VN, làm như mọi chuyện đã xong như Hoàng Trường Sa, và giặc Tàu đang hồ hởi
và phấn khỏi vì đàn em việt cộng, đã quy thuận 100 phần trăm..Thế là con đường
Hán hóa vầo năm 2020 như dễ như bàn tay....
Thế là Tô giới Tàu Vũng
Ánh ở tỉnh Hà Tỉnh ngang nhiên gởi văn thư lên xin phó thủ tướng Tàu là Hoàng
trung Hải đang cai trị 9 tỉnh miền Bắc, xin tự trị và tách rời ra khỏi nguồn
máy của đảng CSVN....Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng, TBT Nguyển phú Trọng, chủ tịch
Trương tấn Sang, và quốc Hội VN cũng không dám mở miệng phản đối, vì thực dân
Tàu không coi đám đỉnh cao trí tuệ loài người hóa vượn VN ra gì...Chuyện bán
nước Ngầm thành ra Công khai một cách trắng trợn, mà không người VN Từ các đám
trí thức như Huỳnh tân Mẫn, ở Sài gòn(HCM), các đảng viên(yêu nước Tàu), các
đoàn viên, quân đội nhân dănyeeu nước Tàu), cá tướng lãnh VN (yêu nước Tàu),
các mặt trận thanh niên cứu quốc (Tàu) đều im lặng và âm thầm biến thành
"phản quốc Việt nam" hiện dần trên tráng của họ...Giặc Tàu lại chuyển
thêm 5,000 công nhân Tàu trở lại Việt Nam và vào Trà Vinh....Các chủ tich xã,
quận huyện, tỉnh ủy, lại hân hoan chào đón giăc Tàu vào, mà quên đi Việt Nam
đang bị giặc Tàu, xâm lăng...
Quốc Hội VN,vẫn tiếp tục
không biết chuyện gì xãy ra, và tiếp tục học chữ "Dâng (cho) Chủ"
Made in China, chứ không phải là chữ(dân chủ) của các nước Tây Phương...
Nhưng không ngờ, thế
giới bắt đầu hành động...Nước Nhật được quốc Hội Nhật thông qua cho quân đội
Nhật được tham chiến và bảo vệ đồng minh của Họ như: Hoa Kỳ, Úc, Phi-luật- Tân,
Mã lai, Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pháp, Đức, Anh, Ấn(India),
Gia-nã-Đại(Canada), Tân gia Ba(Singapore).... Nước Nhật được quyền chế tạo, sản
xuất vũ khí, và bán cho tất cả các nước đồng Minh của Hoa Kỳ và của Nhật...
Ấn độ, Úc, Nhật lập
thành khối trục bao gồm Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương... Pháp gởi chiếm hạm
vào Ấn độ Dương để thế Hoa Kỳ chuyển một phần hạm đội qua Đông Nam Á... Nhật và
Phi ký kết quân sư...Philippine bỏ ra gần 2 tỉ để mua thêm chiến hạm, vũ khí,
Tầu Ngầm, Tầu đổ bộ, và chiến đấu cơ...va2 cho phép quân đội Hoa Kỳ xữ dụng 10
căn cứ quân sự gồm không quân và hải quân trong vòng 10 năm.
Nga âm thầm đưa 3 chiến
hạm chở vũ khí giao cho Hà nội ở Cam Ranh...Chiến hạm của Nhật cũng chở quần
đội Úc, Mỹ, và Nhật cũng vào Đà năng...
300 ngàn quân, 1/3 quân
đội của giặc Tàu trong chiến tranh 1979-1989 biến mất dần dần không ai nói
đến....Hoa Kỳ âm thẩm chế tạo thêm 50 oanh tạc cơ B52 kiểu mới, 10 B1, và 10
B2, thêm 1 hàng không Mẩu Hạm mới, hỏa tiển chống hỏa tiển...
Và rồi nước Mỹ tằng
hắng, yêu cầu nước Tàu đưa 400 tầu chiến của hạm độicướp biển, cướp lãnh thổ
của biển đông Nam Á, và gởi giàn koan ra khỏi thềm lục địa VN, bắt giặc Tầu
phải tuân theo luật biển quốc tế, và trả lại đường hàng Hải và không phận Quốc
tế mà giặc Tàu ngang nhiên ăn cướp của thế giới một cách công khai với bộ mặt
vô liêm sĩ.
Và rồi Lưỡng Viện(Quốc
Hội Hoa Kỳ), cả hai đàng Dân Chủ và Cộng Hòa, đều bỏ phiếu thuận, chông 1lị
việc giặc Tàu xâm chiếm Hải Phận Quốc tế ở Biên Đông Nam Á, và phía Đông Bắc
Thái Bình Dương......
Giàn khoan ăn cướp và
hạm đội của giặc Tàu tạm thời rút lui, vì dân Mỹ và Quốc Hội mỹ nổi giận...Thế
là giặc Tàu vội vả út giàn khoan, vì thấy Mỹ chuyễn nguyên một phi đoàn phi cơ
thám thinh bay trên đầu Giàn khoan và chuyển một phi đội chiến đấu cơ vào
Indonesia...
Ha! ha! ha! ha! ha! ha!
ha! ha! ha...
Dân chúng Việt Nam thì
mừng, còn thái thú thực dân Tàu thì lại càng im hơn nữa...và sư cu Trần quang
diểu là tìm cách giải thích "lòng yêu nước Tàu" của đảng cướp thái
thú thực dân Tàu CSVN...Và chúng bắt đầu lo sợ, vì cơn thịnh nộ của Toàn dân
Việt Nam đã thấy Chủ Nghỉa Buôn dân Bán nước và cầu vinh của dảng cướp CSVN quá
trắng trợn...90 triệu người VN cũng đã chuẩn bị 180 triệu bom xăng. Thì chỉ
trong một ngày là có thể tiêu diệt tất cả các đồn công an Côn đồ và phát xít
của đảng cướp Thái thú Tàu CSVN.
Ngày phán xét của Chủ
Nghĩa Xẫ hội Bịp đã đến...Toàn dân đang muốn phục hưng và đựng lại Nền Đệ Tam
VNCH...Hỡi người Viẹt Quốc gia tị nạn chính trị trên khắp thế giới...Xin Quý Vị
hạy thành lập đại diện chánh phủ VN lâm thời tại từng Quốc gia trên khắp thế
giơi.., Đẻ chúng ta bắt đầu tham dự vào Hội nghi Qqoo1c Tế và đòi khôi phục lại
chủ quyền VN mà đảng CS thái thú thực dân Tàu CSVN, một chi bộ của đảng CS giặc
Tàu đang xé nước Việt Nam từng mảnh và dâng "Ngầm" cho giặc Tàu ...
Nói cho cùng, chỉ có Lá
cờ Vàng Quốc Gia VNCH, và Chánh phủ lưu vong VNCH mới có thế lấy lại tất cả
những vùng đất và hải phận VN đã bị từng tên Chủ tịch buôn dân bán nước cho
nước Tàu mà cả nước VN không hề hay biết...Những cá nhân bán nước cho giặc Tàu
thì phải giao lại cho giặc Tàu để giặc Tàu dòi đất đòi tiền..>Và ngược lại
giặc Tàu phải bồi thuờng chiến tranh, cướp lảnh thồ, cướp quần đảo, Hải phận và
xâm phạm chu4 quyền VN ít nhất là lên tới 500 tỉ mỷ Kím cho tất cả các nạn nhân
chết vì chiến tanh VN do đảng cộng sản Tàu gây ra....Và nhất là cái nước nhỏ bé
Đài Loan cũng phải trả hàng tỉ mỹ kim khi xâm chiếm tài nguyên và hải đạo của
VN ở Hoàng Trường sa... Nhất là tội buôn bán cho gái nô lệ VN..>Những tên
này phải bị kết tội tử hình thì đúng nhất...
Ha! ha! ha! ha! ha! ha!
ha! ha! ha! ha ha....
Thanh Pham
From: "Vanessa Nguyen
Sent: Saturday, July 19, 2014 1:29 AM
Subject: [Daploisongnui] Hồ Chí Minh Ông là ai? Họ Nguyễn hay họ Hồ?
Sent: Saturday, July 19, 2014 1:29 AM
Subject: [Daploisongnui] Hồ Chí Minh Ông là ai? Họ Nguyễn hay họ Hồ?
Hồ Chí Minh Ông là ai? Họ Nguyễn hay họ Hồ?
Dưới đây là trích đoạn phần cuối tiểu luận của một trong
những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc
Vượng , công trình nghiên cứu về gia thất của Nguyễn Sinh
Coong ( tức Hồ Chí Minh ) qua đấy chúng ta một phần nào biết tại sao Nguyễn
Sinh Coong không lấy tên chính Cha sinh Mẹ đẻ đặt tên cho mình mà lại
lấy tên: Hồ Chí Minh { Môt tiểu luận cần tham khảo về tiểu sử HCM }
---------------------------------------------------------------
Người dân Kim Liên kể rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".
Trần Quốc Vượng
________________________
Nguyễn Tất Thành: Tôi thấy hai bạn Hoang Viet , Nam Việt rất là vớ vẩn ... tựa
bài đăng QLND Hồ Chí Minh Ông là ai ? Họ Nguyễn hay họ Hồ ? là một câu hỏi ,,
thông qua trích đoạn của ông Trần Quốc Vượng ,,,, vậy trọng tâm là tham khảo
để tìm câu trả lời cho Ông Hồ họ Hồ hay họ Nguyễn ,, đơn giản chỉ có vậy mà 2
bạn hình như có "Vấn đề" .. 2 - Ông Vượng là người ghi chép Sử thông
qua những gì Ông nghe và đi tìm ,, còn lại tùy mỗi cá nhân tự có câu trả
lời....nên thế Ông không có nhiệm vụ phải Kết luận..vì một nhà Sử học mà đưa ra
kết luận dễ xa vào cái nhìn cá Nhân bao gồm { cảm tình, Thiên vi, vv vả vv,,,)
còn trong bài ghi chép có thiếu sót.. thì 2 bạn Bổ sung .. làm gì đã vội vả kết
luận là người ta kém không biết điều này điều nọ, mơ hồ , rồi bỏ ý chính... 2
bạn nên đọc lại và hiểu đây là một bài ghi chép nhé.... Khổ có thế mà cũng
không hiểu.. Câu hỏi to đùng "Hồ Chí Minh Ông là ai ? Họ Nguyễn hay họ Hồ
?"mả cũng không hiểu ý của người đăng bài
Hoang Viet: chẳng hiểu bài viết vì ý gì,nếu thuật chuyện thì lại bỏ những ý chính, như ông HUy đanh chết người sau này trốn pháp vào nam sống ở đồng tháp,,ai cũng biết chỉ người viết bài này ko biết
Nam Việt: Bài viết mơ hồ, không chặt chẽ, cả cái việc ông Huy làm tri huyện đánh chết người bị cách chức cũng ko nói ra được. Kết thúc ko khẳng định điều gì.
Hoang Viet: chẳng hiểu bài viết vì ý gì,nếu thuật chuyện thì lại bỏ những ý chính, như ông HUy đanh chết người sau này trốn pháp vào nam sống ở đồng tháp,,ai cũng biết chỉ người viết bài này ko biết
Nam Việt: Bài viết mơ hồ, không chặt chẽ, cả cái việc ông Huy làm tri huyện đánh chết người bị cách chức cũng ko nói ra được. Kết thúc ko khẳng định điều gì.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết