Trung Tá Nguyễn Văn Vinh – Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù
tại Bắc Việt
Posted on September 27, 2015
by minhhieu854
Kính thưa quý chiến hữu thân
thương cùng quý dộc giã xa gần nội ngoại,
Dễ tưỡng niệm Ngày Quân Lực 19/6 VNCH,
chúng tôi sẽ fỗ biến tiếp tài-liệu:
Thân ái,
Matthew Trần
Chũ-trương hệ thống
BTGVQHVN-1,2&3 // HNN (2008)
Vài nét về hoạt động
của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt cũa
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
VNCH đã giữ vững được
cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian truân, máu và nước
mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.
Trong số những sự hy
sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc
Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng tổng kết sơ khởi
cho biết trong số những Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có 7 người đã bị CS
tuyên án tử hình và đã bị hành quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các
trại tù khổ sai miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người mất tích
khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư tại các nông trường
hay hợp tác xã miền Bắc. Đa số những người còn lại đều bị tra tấn dã man và bị
bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các
biệt kích thả xuống miền Bắc đã bị CS bắt?
Bài viết sau đây là
của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù
được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về tổ chức
các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều hành của cơ quan
tình báo Hoa Kỳ.
o O o
Vài nét về hoạt
động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân
của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu.
Đó là những bí danh của một cơ
quan tình báo chiến lược, được thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ
Tổng Thống và nằm trong mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH.
Cơ quan này được Hoa Kỳ yểm trợ
cả về tài chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không
quy ước chống miền Bắc CS.
Sau Hiệp định đình chiến Geneva,
vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên
nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp
lực của Hoa Kỳ, đã phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho
quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ.
Để đáp lại, quân đội Pháp đã
không nương tay, xóa sạch mạng lưới tình báo mà họ đã khổ công gầy dựng trong
nhiều năm tại miền Bắc. Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành tình báo non
trẻ của miền Nam.
Trong khi đó, CS đã để lại tại
miền Nam vô số cơ sở tình báo mà họ đã gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp,
trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào
đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân và Phong
kiến đã làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất
thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù vậy, ngành tình báo miền Nam,
tuy phải xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng
nồng nhiệt vì đa số người Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân
tộc thiểu số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đã thấy rõ bộ mặt
gian dối của CS.
Có người đã chứng kiến những
vụ tàn sát hay đấu tố dã man các thành phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng
chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó.
Ngoài ra, những tài liệu sống
động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đã gây được một ấn tượng ghê
tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam .
Nắm được các yếu tố thuận lợi
trên đây, Sở Bắc đã gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cư, liên lạc với
các vị lãnh đạo tinh thần cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các
thanh niên nhiệt tình yêu nước còn thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về
huấn luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.
Từ những năm đầu tiên đến năm
1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau
đây:
- Nhảy dù đêm vào vùng mục
tiêu.
- Xâm nhập đường biển bằng thuyền
mẹ, và từ đó sử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác.
- Xâm nhập vào vùng phi quân
sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân
đã nằm vùng, hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này
thường phải xử dụng “bona fides” để nhận nhau.
- Cử chuyên viên phục vụ tại
Tòa Đại Sứ của một vài nước thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong
Kong … rồi
từ đó tuyển mộ và huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái
vỏ bọc thích hợp cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc
hoạt động. Phương pháp này đã được nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng vì quá tốn kém nên
chỉ được thực hiện từng giai đoạn.
Tuy có nhiều hình thức xâm nhập
khác nhau như vừa trình bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập đến những toán
Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, vì đây là phần việc
mà chính tôi đã đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan tình báo chiến lược này.
Những chuyến bay đêm
Các toán Biệt Kích Dù thường
được thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác
này bắt đầu từ ngày mồng 10 – 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy
thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương
tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên
Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng tiểu
liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị
ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ còn phải đèo thêm các dụng cụ khác trên
20 món, nào bidon nước, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương
khô, đèn bấm, pamean, dao găm, túi cứu thương cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen
flare), đồng hồ đeo tay, radio v.v…
Các dụng cụ này thường được mua
ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhãn hiệu Hoa Kỳ hay miền
Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương
thực dự trữ dùng cho 3 tháng v.v…đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự
trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện
hàng số 1. Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng
của gió, bạt ra xa cách bãi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể
dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.
Thông thường, các nhân viên quê
quán vùng nào được thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công tác,
mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết trình vào giờ chót, trước khi lên
máy bay.
Các chuyến xuất phát trong những
năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ đã yểm trợ cho
các chuyến bay bí mật này và lộ trình duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất –
Đà Nẵng – Vùng mục tiêu.
Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối,
phi cơ cởi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân.
Phi cơ được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung
Hoa. Tuy nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số
sĩ quan có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam . Phó TT
Nguyễn Cao Kỳ hồi còn mang lon Đại úy, đã nhiều lần làm phi công chính thức cho
các phi vụ đặc biệt này.
Đến cuối năm 1966, Trung Ương
Tình Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan tình báo
quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi cường độ chiến tranh VN đi
đến giai đoạn khốc liệt nhất thì nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt
Kích Dù hoạt động phải được tăng cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ
được thay thế bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum,
một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay đón nằm ở phía Đông -Bắc
Thái Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để
bay băng qua lãnh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt.
Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.
Trực thăng là phương tiện xâm
nhập vừa rẻ tiền vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém an toàn nhất, vì tiếng
động cơ quá lớn, địch dễ phát hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên
nhân thất bại của công tác Biệt Kích tại miền Bắc?. Vấn đề này đã được phía VN
quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm
không quan tâm.
Số phận những con chim lạc loài
Đến cuối năm 1968, trong số gần
40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường bộ để hoạt động dài
hạn, chỉ con có 5 toán là còn giữ được liên lạc với Trung Ương, đó là các toán Tourbillon (1962),
Ares (1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963).
Theo đánh giá chung của các chuyên
viên hữu trách Việt – Mỹ thì cả 5 toán này hình như đã bị địch kiểm soát, nhưng
cá nhân tôi vẫn còn tin tưởng một toán, đó là toán Ares.
Sự tin tưởng này có thể đúng
vì lý do sau đây:
Vào những năm đầu ở trại “cải
tạo”, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp nào, đã thay
nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. Một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi
bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không còn
sức chịu đựng, tôi đã bị gục ngã vì tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi
về phòng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng đủ trò ma
giáo “hỉ, nộ, ái, ố”, … lúc thì mời tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc
có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng,
khinh bỉ. Họ chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đã dùng những lời
rất cộc cằn và thô lỗ để áp đảo tinh thần tôi.
Một điều làm tôi quan tâm hơn
cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên gì, quê quán ở đâu,
tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm gì,
những liên hệ gia đình, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v… Tôi thầm
nghĩ nếu Ares đã thật sự nằm trong tay họ thì mắc mớ gì họ phải hỏi tôi những
chuyện thừa thải ấy. Tôi có lý do để không trả lời họ, vì Ares đã xuất phát năm
1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin
nói ra đây những gì tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa
thể tiết lộ lúc này vì có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả
thật toán đó đến nay vẫn còn dấu được tung tích.
Ares hay Hạ Long có tên thật là …, một
cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ vì bất mãn. Anh đã theo đoàn
người di cư vào Nam năm … và được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô
Đình Nhu. Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau
đó, Sở Bắc đã cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc
hoạt động. Anh đã đồng ý và đã được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi
từ đó tiến dần về cảng Hải Phòng và nhà máy điện Uông Bí. Đây là 2 mục tiêu mà
anh có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực
trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đã mộ mến Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách khác thường. Hàng
năm, trước ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc
mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc.
Khi nghe tin TT Diệm bị giết
qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và sau khi được Trung Ương xác nhận, anh
đã tỏ ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một
cách chu đáo. Những chuyến tàu cập bến Hải Phòng, nhất là các tàu chở vũ khí
hay quân dụng, đã được anh theo dõi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên,
anh còn báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng
và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Phòng.
Để giúp anh thi hành nhiệm vụ
trong thời gian anh bị bị bịnh sốt rét, Trung Ương đã chấp thuận đề nghị của anh,
tuyển mộ thêm người em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh
thực hiện quan sát các mục tiêu ở xa. Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh
sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung Ương không tiếp tế cho anh được
vì địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đã bị lộ. Thêm vào đó,
vùng biển Hải Phòng bị Mỹ gài mìn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh
đều không thể thực hiện được.
Khoảng giữa năm 1968, do lời
yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đã tìm được kế hoạch tiếp tế cho Ares. Trung Ương
báo ngay cho anh tọa độ một số bãi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên
cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung Ương
đã hướng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như
dự liệu.
Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản
lực đã xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Phòng, cùng lúc đó một phản lực
cơ khác đã bắn một thùng “container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đã ấn
định và được Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đã chỉ thị. Cách tiếp tế
này đã được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong
muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo quần
còn có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến.
Ngoài các vật dụng trên, còn có 4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của
Trưởng công tác, còn 3 lá thơ khác được dán bì kín. Toán được chỉ thị dán tem
vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu
hiệu riêng mà toán không được biết lý do.
Chỉ trong một thời gian ngắn,
2 thơ có nội dung thường đã đến tay người nhận, thơ còn nguyên xi không bị mở,
nhưng thơ thứ 3 có “gài” một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người
nhận. 2 tháng sau, khi được Trung Ương hỏi về lá thơ này thì toán cho biết, trên
đường đi tới bưu điện, bị còi báo động, đương sự phải chạy tìm hầm trú ẩn, không
may đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đã không gửi. Lý do này đã
khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ lòng trung thành của Ares.
Nhiệm vụ mới
Đến năm 1968, sau đợt tấn công
của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lãnh nhận thêm rất nhiều công
tác ngoại biên với những toán mới được thành lập:
– Các toán STRATA là những toán quân
nhân được huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác đột kích hay phá
hoại các căn cứ địch nằm trên lãnh thổ Bắc Việt.
– Các toán PICK-HILL là những toán người
Miên gốc Việt hoạt động trong lãnh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá
hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lãnh thổ nước láng giềng Cam-bốt.
– Các toán EARTH-ANGEL, còn được gọi là
Đề Thám, là những toán được thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt
hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh
quy miền Bắc. Nhờ đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đã nhiều phen lập
được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đã gia nhập Quân đội
VNCH.
– Các toán SINGLETON hoạt động riêng
biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được
móc nối trở lại hoạt động nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba
Thu v.v… Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các
nhân viên này có nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt động địch và hướng dẫn phi cơ
oanh tạc lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt động như
trên, còn có chương trình công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi là chương
trình Borden, mà toán viên là những
tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang
bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam : một bản đồ, lệnh hành quân,
thơ giới thiệu v.v… Các thứ này được dấu kín trong áo nhảy và chỉ được trao cho
toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống vùng địch chiếm
đóng.
Các chương trình mới này đã đem
lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đã yêu cầu phía VN chấm dứt
liên lạc với 5 toán còn lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy tìm
cách xâm nhập qua Lào, trình diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam. Tuy
nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện.
Hướng về những người anh em kiêu hùng
Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đã
phải chịu đủ thứ cực hình. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng
đội. Thái độ cương quyết của họ đã phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ
là những người “không cải tạo được”. Mãi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị
chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích.
Người được trả sớm nhất đã phải
ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất trên 20 năm.
Khi họ trở về, chúng ta đã biết
thêm được nhiều chuyện đã xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn
còn một số toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Hòa làm trưởng toán
cùng với 4 toán viên.
Toán Ares mà tôi đã đề cập ở
trên và một vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất
tích này.
Phải chăng họ đã bị thủ tiêu
hay đã hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ.“Hy sinh trong bóng tối, tất cả vì Tổ quốc”, đó là phương châm hành động
mà mọi Biệt Kích đã chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.
Tôi còn nhớ năm 1970, các sĩ
quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đã được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH
vừa tịch thu được của bộ đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot,
Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại phiên tòa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt động tại vùng
Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là tay sai đế quốc Mỹ,
tay sai Ngô Đình Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền và phá hoại
tài sản nhân dân v.v…
Toán Jackson đã bị bắt toàn bộ
với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Lò. Hầu hết
toán viên đã lãnh án tử hình, chỉ 1-2 người lãnh án chung thân. Điều làm anh em
chúng tôi xúc động và hãnh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và bình
tĩnh của các toán viên khi bản án tử hình được tuyên đọc.
Theo lời một nhân chứng quê ở
Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 người lãnh bản án tử hình đã bị
bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ là:
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm ! Tổng Thống Ngô Đình Diệm muôn
năm !
Anh em chúng tôi là những người
đã đi qua nhiều trại “cải tạo” ở miền Bắc và đã được nghe nói rất nhiều về
những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục,
đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đã sống chung trại với các anh ấy. Ngoài
ra, các tù hình sự miền Bắc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ “bọn
hình sự”, vì phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm cướp, đâm chém, giết
người … khi được hỏi về anh em Biệt Kích thì họ tỏ vẻ rất khâm phục.
Họ nói với tôi: “Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại cũng
phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với nhau, họ thương nhau và giúp đỡ
nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay bị ốm, là các anh khác tìm cách
giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị
bệnh hay bị ốm. Đã có những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có
nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ
trại cũng đành phải làm ngơ …”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm
tù CS, đã không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ
quên những con người hào hùng cùng chung lý tưởng đã cùng chung sống với nhau
trong tình huynh đệ chân thành. Tôi là người đã từng sống chung với họ ở trại
huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác, tôi đã tiễn chân hoặc
nhiều khi đã cùng với họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẩy chào họ
khi họ rời máy bay … Những kỷ niệm đó khó quên được.
Những kỷ niệm khó quên
Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước
ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối
người bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên
đường Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy
vội vã bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quý báu còn
lại. Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên
tay anh còn mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người
yêu. Họ nhìn nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan
chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn. Xe chạy được một quãng đường, người thanh niên
ấy quay nhìn tôi, vừa nói vừa mở món quà: ”Đây, anh xem, quà cô ấy tặng em”.
Tôi liếc nhìn, thấy một nắm tóc
thề được gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về
trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi
cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đã đề
bì sẵn và nói:
”Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đã không dám
nói thật với mẹ em. Vì vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho mẹ
em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm”.
Tôi xúc động nhìn người thanh
niên ấy với tất cả lòng yêu thương và mến phục. Tôi đã nhận thơ anh giao và
hàng tháng, tôi đã đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà.
Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đã được trao mà “khóa học” của anh
vẫn chưa mãn.
Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi
vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cõi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù
CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh
Nguyễn Ngọc Trâm, còn người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vả
hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như bao nhiêu anh
hùng Biệt Kích khác còn ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai
này.
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Tiễu sữ cũa
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh (NVV):
Houston Sept. 04, 2011
Matthew Trần
Trung Tá
Nguyễn Văn Vinh (NVV) hơn tôi (MT) dộ 3,4 tuỗi và có bà con xa với tôi: Chúng
tôi cùng quê ỡ làng Dốc Sơ và nhà cách nhau một xóm. Làng Dốc Sơ nằm về hướng
Bắc cách thành fố Huế dộ 5,6 cây số, zọc theo quốc Lộ 1.
(Làng
Dốc sơ cũng kó giáo xứ Dốc sơ: Nơi mà sau nầy (1980?) dã một
thời gian, trỡ nên giáo xứ dược kai quãn bỡi linh mục dáng kính Tadêô Nguyễn
Văn Lý dối dầu với csVN trong vụ chúng ngăn cãn lần Cha Tadêô dưa dám thanh
niên trong họ di hành hương Dức Mẹ Lavang).
Vào tuỗi
niên thiếu, chúng tôi dều được gia-đình cho vào Huế dễ học. Chúng tôi không học
chung cùng trường nhưng khi “hè về”, chúng tôi dều trỡ về làng và thường gặp
nhau hàng ngày trong các trò tiêu khiễn cũa tuỗi trẽ như: câu cá, bắn chim..
Nếu dược sáp giữ trâu "mời" chúng tôi theo tụi vào các trò chơi ban
dêm thì chúng nó sẽ cho chúng tôi ăn trái cây mà chúng nó di "ăn
trộm" dược từ các vườn có trái trong làng như: thanh trà, bưỡi, mít, cam,
quýt ..vv. Những vườn nầy cũng thuộc các gia đình bà kon cũa chúng tôi cã !! Dó là thời vàng
son cũa tuỗi trẽ mà bây chừ chúng tôi không thễ níu kéo lại dược.
Hình như
anh NVV dược gọi nhập ngũ vào khóa 3 SQTB/TD (dầu 1953) thì fãi. Tôi dược gọi
nhập ngũ 6 tháng sau: Khóa 4 SQTB/TD (1953-54).
Suốt thời
gian trong quân ngũ, diều khôi hài là thĩnh thoãng chúng tôi gặp nhau, chúng
tôi nhận thức ra nhau là cã hai chúng tôi dều: dội mũ nồi (béret) xanh lục đậm,
với huy hiệu (logo) LLĐB, bằng Dù và mặc dồng fục bằng vãi zù hoa, cã 2 chúng
tôi dều tự nhận biết là cùng binh chũng LLĐB nhưng chúng tôi không biết là
người kia ỡ dơn vị nào, giữ chức vụ gì.
Trong
LLĐB chúng tôi “không” có thói quen tìm hiễu công việc cũa nhau. Chúng tôi vẫn
có những SQ mặc thường fục và dược zùng xe zân sự mang số ẫn tế. Thĩnh thoãng
chúng tôi gặp nhau trên các dường fố trong lúc lái xe ngược chiều thì chúng tôi
.. hoặc là nhìn nhau mĩm cười .. hoặc là dưa tay vẫy.. thế thôi.
Vào những
ngày zầu sôi lữa bõng trước khi VNCH bị tên fãn quốc: tướng Dương Văn Minh bán
dứng cho csBV (30/04/1975) bằng cách lên dài fát thanh ra lệnh cho chiến sĩ
khắp nơi dầu hàng dịch .. vào một hôm nào dó (April 28?/1975)
trên dường dến bộ TTM (giai doạn nầy tôi fục vụ ỡ Bộ TTM), tôi gặp Tr. Tá NVV
lần cuối cùng khi anh từ ngõ sân bay Tân Sơn Nhất lái xe nhà với gia đình ra,
chúng tôi có ngừng xe dễ noái chuyện vài fút. Đầu dề không ngoài việc hõi thăm
nhau về các quyết dịnh hệ trọng liên quan dến việc zi tãn khoãi Vietnam .
Anh NVV
có hõi tôi về quyết dịnh cũa tôi và anh cho biết là HK dã lo việc zi tãn cho
anh và gia dình trong ngày hôm nay (April 28?/1975) nhưng
anh & gia dình đã không vào fi trường dược !! Mọi ngã - ra vào - dều có xe
kẹt cứng hết .. nên anh & gia dình dang trỡ ra ..
Tôi cho anh hay là nhờ trong
thời gian trước dó, tôi đã dược fục vụ như là TVQL/ QLVNCH tại Đại Hàn, nên có
liên hệ tương dối mật thiết với DAO (VP TVQL/HK) và DAO có hứa sẽ giúp fương tiện
zi tãn. Nguyên thũy, gia-đình tôi được zự trù zi chuyễn bằng máy may, nhưng vào
ngày zự-trù, fi trường TSN bị địch fáo kích, vì vậy, cuối cùng, gia đình chúng
tôi được zi tãn bằng đường thũy (từ Tân Kãng, SG).
Thế rồi chúng tôi không gặp
nhau nữa cho dến …. năm 1992, khi tôi từ Mỹ về Vietnam dễ lo vấn dề riêng tư
gia đình và dã gặp lại anh NVV khi tôi di xem lễ ngày Chũ-Nhật tại DCCT ỡ dường
Kỳ Dồng, Sàigòn.
Vào giai doạn dó thì anh NVV
dã dược csVN trã tự zo. Gia dình anh có lập một cái tiệm cho thuê "băng"
chuyện film (lúc nớ chưa có DVD) bằng nhựa. Nó nằm đâu đó trên dường Trương
Minh Giãng. Business không dến nỗi tệ lắm.
Anh NVV hơi chán nãn khi nhận
thức là tôi vừa “về hưu” và đang về Việtnam lúc dó tôi vào 56 tuỗi thì anh NVV
trong zai đoạn chờ chực
dễ dược fõng vấn hầu dịnh cư tại HK. Anh khá lo lắng cho tương lai.
Trong thời gian chờ dợi dễ
dược HK fõng vấn, anh may mắn dược một cựu nhân viên dang dịnh cư tại HK, gỡi cho
anh một bài báo (lá kãi) có hình ãnh cũa anh & một dám nhân viên BK cũ. Bài
báo mô tã hoạt dộng cũa anh trong quá khứ. Vì vậy, cuộc fõng vấn cũa fía HK dối
với anh trỡ nên zễ zàng. Họ giúp dỡ gia dình Tr.Tá NVV tối da dễ dược zi chuyễn
sớm.
Thế rồi gia dình cũa Tr.Tá
NVV qua dịnh cự tại Baton Rouge ( Louisiana ) theo lời khuyến khích cũa một cựu
nhân viên cũa anh.
Vào lúc dó thì Tr.Tá NVV với
tuỗi dã trên zưới 6 bó, anh sống với sự trợ giúp cũa chính fũ HK. Nhân viên kũ
cũng hăng hái giúp dỡ trong khã năng. Các kon cũa anh thì vừa qua, họ chĩ kiếm
dược các công việc với dồng lương khiêm nhượng mà thôi.
Dộ 5, 6 năm sau, một cựu nhân
viên khác cũa anh, mời gia dình anh lên Denver (CO) dễ dịnh cư và người nầy hứa
là sẽ giúp dỡ cụ thễ hơn (chỗ ỡ free thì fãi).
Hình như người nầy may mắn hơn nên họ hoặc là thuê bao .. hay xây một ngôi nhà
đễ cho gia đình Trung Tá Vinh ỡ mà chẵng fãi lo zì về tiền thuê mướn ..
Thế là gia dình Tr Tá NVV lại
zi chuyễn một ngoai nữa. Koai bộ lần nầy cuộc sống tương dối được thoãi mãi hơn.
Thêm vào dó, một người rễ cũa anh (cựu giáo sư Anh
Văn bên VN) và người vợ nhân zịp Bưu Diện HK dang mỡ kỳ thi tuyễn. Không biết 2
vợ chồng chuẫn bị ra răng mà khi thi tuyễn vào, diễm cũa mỗi người là 100 % !!
Tối da !! Thế là kã 2 vợ chồng dều dược thu nhận vào các positions tốt. Lương
khá.
Mấy sáp
nhõ sau dó cũng dã lai rai bắt dầu ra trường. Thế là cuộc sống cũa gia dình Tr.
Tá NVV dược bão dãm. Anh Chị hằng ngày chĩ có chăm lo việc tinh thần (tôn giáo)
mà thôi.
Thế rồi
chuyện fãi dến dã dến. Chị Vinh dã qua dời vì một bạo bệnh ngặt nghèo. Tr. Tá
NVV cũng di theo chị dộ 3, 4 năm sau. Như vậy cũng dã kách dây hơn mười năm.
May God save their souls.
Mời
xem zi ãnh cũa Trung Tá Nguyễn văn Vinh ỡ fầh fụ đính
Matthew Trần
Houston, TX 2008
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết