Trước năm 75 tại ngã tư Hồng Thập Tự
& Lê Văn Duyệt Sài Gòn có tấm bảng dựng hình ảnh nữ liệt sĩ Phạm Thị Thàng tại góc ngã tư này.
Bảy Hiền
Phạm Thị Thàng: Nữ Anh Hùng đất
Gò Công
Tác
giả: Phạm Phong Dinh
Chị Thàng đã chọn một
cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh
chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt.
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong
cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo
quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng
miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất mờ nhạt đằng sau
chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ thì hình ảnh những người chị vô danh
ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người
thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca.
Ðó là những người lính không có vũ khí,
không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những
người lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt
ngặt nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường.
Ðó là
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong cơn
bão lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả
các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá
Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh
ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu,
không cả tiếng kèn truy điệu ai oán.
Những
người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc trong những cái
hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người
lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc
trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn
được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm
hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà
có thể tìm thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy.
Cả
gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm
cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán
và vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm 365 ngày, mười năm,
hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những
người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa
khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở
đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về
với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu
chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ
chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ÐẤT GÒ CÔNG
Người
vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng
biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức
tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia
đình, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ
hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng rào kẽm gai, thì những
người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến
đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin
gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném
lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng
đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để
tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở
ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và
Trần Thị Tâm.
Ðêm
2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa
trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong
một đêm Việt cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật
lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch
khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng.
Ðây
là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy
diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Ðội Nghĩa Quân 24 tay
súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đã
bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác
miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những
ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho
bọn giặc hèn nhát gọi là những “người giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng
hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì
còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác
rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Ðúng
2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đã mở
cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng
chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến
thắng dường như là chắc chắn, vì với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu
chúng có thí chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng
Ðình.
Trên
lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất
hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đã chọn lầm mục
tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã
chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc
tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng
Giồng Ðình. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không.
Câu
trả lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà còn là
từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của
các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng
Ðình sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những
người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị
dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.
Ðồn
Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do một Trung Ðội
Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn
Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một
vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đã đủ, nên tất cả những
người vợ lính trong đồn đều đã được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những
loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi.
Trong
nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng
tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho
cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch.
Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống
trong khi chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào.
Khi
chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì tình
trạng bên trong đồn Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa
Quân bị thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn
Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh
Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt
con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm
nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Ðình.
Ở
một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ
đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch.
Nhìn
ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen ngòm như những con quái vật
hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn,
chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc
phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không còn khóc được nữa
mà đã nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì thào:
–
Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt mất là đồn
mình mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì… thì… em ném
lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh
Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng
từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ
quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám
nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được
lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết
định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã
hò hét ngay sát bên rồi:
– Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh
Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong lòng anh quặn lên một
nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã
chết. Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên
tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đã quá gần.
Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh
Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn
có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước
mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng
của địch vẫn nỗ dòn dã ngay sát tuyến phòng thủ của chị Thàng. Anh biết giây
phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với quả lựu
đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong lòng : “Chỉ còn một trái lựu đạn nữa
thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây
để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ
đã đông nghẹt quân giặc. Ðủ mọi thứ loại súng nổ chát chúa khắp đồn, anh Hùng
không biết chắc là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc
chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã phá được lớp kẽm gai
cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày
2.10.1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết
định thà hy sinh còn hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp
từ tay chị Tâm và thét lớn:
– Hãy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn… Hai lô cốt thứ nhứt
và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng
tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi… bắn…
Sau
tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức
bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất
chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô
cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa
châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng
tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng
vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch.
Giữa tiếng súng nổ dòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì của máy bay.
Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích. Ðến đây
thì “Thượng Úy” Việt cộng Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy
rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng
về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im
tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn
vào phía bóng tối.
Khi
ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân do chính
Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục
soát. Quân cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm
bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng Thi, Ðồn Phó Hùng và chị Tâm giữ
máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng
này mang trên mình rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng
để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này.
Anh
Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau
tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày
hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn về được
đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng
may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh.
Tại sao may mắn ?
Vì nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết
vì nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục
của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Ðó là lý do
giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người
thương phế binh cộng sản trên đường phố.
Nhưng
đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Viêt cộng đã trả giá cho cuộc tấn công
không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đã rút đi,
thì anh đã như một người điên lao mình ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một
mình một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ
trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước
mắt chạy đi.
Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt
cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm
đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi vào cõi chết,
vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào
người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa
con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút
chốt!
Tiếng
nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đã được đánh
đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu.
Nhưng khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi
đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến
nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đã cứu sống được tất cả những thương binh
Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của
người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị
đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên
nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba
không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ
con của đồng Giồng Ðình đều sẽ chết hết.
Anh
Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người còn sống, những người vợ
lính khác đã gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội
với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn
Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh.
Chị Phạm
Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến
trường, chị Thạch Thị Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng
ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những
người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu
phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu
tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người
lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền
Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đình.
Nếu anh
may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, thì anh mới có cái diễm phúc
được nắm trong tay tờ giấy phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một
bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở
nơi đã sinh ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tại
khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một
tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể chiếm được một cao điểm.
Vị Tiểu
Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép
nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề
chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò đường.
Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, vì ở đó
chính là cái miệng hầm chốt của địch. Ðến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó
đã reo hò trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã
trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những
người lính trận.
Người
vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự
câm nín nhẫn nhục và vui lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một
chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi
đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ
đại của những người vợ lính.
Chị Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai
cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời
với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao
giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG. Vì tên chị đã được trân
trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống
Cộng sản quốc tế và Cộng sản Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc
gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành nhân con người
Trường Tiểu học Võ Thị Lớ mới xây dựng sau năm 75, ở đây ngày
trước là đồn bót của Nghĩa quân tên là đồn Giồng Đình vì kế bên có ngôi đình
thần. Trận chiến ác liệt mà chị Thàng nằm xuống tại đây với quả lựu đạn thứ 16.
Thôn ấp cũng gọi là ấp Giồng Đình
Ảnh: Bảy Hiền
--
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết