--
Kính
Chuyên
MG
Giáng Sinh này Nhớ Giáng
Sinh xưa,
trên chiến trường Bắc Ruộng
(Bình Tuy) năm 1965.
HỒ ĐINH
Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn43/Sư
Đoàn 18BB=KBC 4424
Chúng tôi đang chuẩn bị nhận thêm tiếp tế, thì
có lệnh rút gấp về Xuân Lộc, để tăng cường cho chiến trường Bắc Ruộng, thuộc quận
Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy đang bị Việt Cộng cưởng chiếm. Hôm đó là ngày 20 tháng
12 năm 1965.
Sáu giờ
chiều, Tiểu đoàn đã rút ra Liên Tỉnh lộ 4 (Củ Mi-Tân Phong), đợi xe tới rước. Ngồi
bệt bên vệ đường, phía bên trong là rừng cao su ngút ngàn, như muốn nuốt trửng
con lộ đất đỏ ngoằn nghèo buồn hiu muôn thuở, Hôm nay sao nó hiền lành quá.
Nhưng sự đời dâu biển biết đâu mà mò, nên ai biết trong chốc lát, khi đoàn xe
chở lính lăn bánh, bao nhiêu bất trắc lại sẽ dồn dập đến, vì du kích ba tỉnh Bình
Tuy-Long Khánh-Phước Tuy, rất là thiện nghệ trong việc gài mìn bẩy, đặt hầm
chông, bắn sẽ, quăng lựu đạn và ám sát dân lành. Lính đâu có sợ bị phục kích
nhưng mười người như một , rất sợ trúng mìn bị thương, phải cưa chân tay hay trở
thành phế nhân què, đui, dung nhan hủy hoại. Lúc đó đời trai coi như đã dứt, vì
em sẽ giã từ gác trọ, để lên xe hoa với kẻ khác. Hai tháng qua, ngày đêm lặn lội
trong rừng sâu trên mưa nắng, dưới đĩa vắt, rắn mìn chông được gài giắng khắp
vùng Xuyên Mộc, Ðất Ðỏ, Ðức Thành. Ðôi giày bố và bộ đồ trận, được đổi mới đợt
trước trong căn cứ Phú Mỹ, doanh trại của Chiến Ðoàn 43BB, cũng đã rách nát bạc
màu, thì nay lại có lệnh lội tiếp không có ngày N.
Ðoi lính VNCH trước năm 1975 tàn nhẫn và bi thảm thế đó, nên đôi lúc
thoáng nghĩ bâng quơ và nay nhìn lại, thì thật là bất công, thiệt thòi và bị đời
hiếp đáp quá đáng. Rồi càng thấy tức cười hơn, khi nhìn lại những thành phần bệnh
hoạn no cơm ấm cật, vô ý thức và chỉ vì muốn phô trương tài năng của mình, mà tận
tuyệt chà đạp trên sự khổ đau của lính, những người đã bán mạng mình, để bảo vệ
sự sống ký sinh cho họ.
Ôi còn mùi gì khiến ta phải nôn mửa hơn, khi khắp nơi trên quê hương máu
lửa ngập trời , bao nhiêu nam nữ thanh niên, lần lượt nối tiếp, bỏ trường , bỏ
lớp, quên tình yêu và gia đình thi hành bổn phận, tiến ra sa trường hứng đạn
lãnh mìn. Trong lúc đó, lại có một bọn tìm đủ mọi cách để trốn quân dịch ở ngoại
quốc hay ngay trong lòng đô thị, không bao giờ biết tới chiến trường, nên không
phải đối đầu với sự chết chóc và đui mù hay giả bộ không biết sự tàn bạo dã
man, có một không hai của Việt Cộng, tay sai cuả Cọng Sản đệ tam quốc tế.
Trong khi bộ đội Bắc Việt hàng hàng lớp lớp tấn công quân dân Miền Nam, thì đám
phản chiến,mà hầu hết đều tự xưng là trí thức, khoa bảng, nhưng mặt thật chúng
chỉ là đệ tử của Che Guevara,The Beatles, Bertrand Russell, Jean Paul Sartre, Herbert
Marcuse., liên tục biểu tình đòi hòa hợp hòa giải với giặc.. Nhưng hề hơn hết
có lẽ là những thây ma không tim không óc, chẳng khác nào hình nộm, luôn đấm ngực
đòi hòa bình hay nằm dài chờ bồ câu trắng hiện ra trong máu lệ. Ðã vậy còn la ó
, xiên xỏ, gào khóc liên hồi đâm sau lưng người lính trận :
“ Hãy ngồi xuống đây
như loài thú hoang
yêu nhau ngoài đồng
dưới nắng ban mai phô thân trần truồng
kiếp sống hoang sơ..”
( Lê Uyên Phương )
Ăn chơi
trác táng rồi la ó rên rỉ nhưng nào đã hết đâu, mà còn nữa, còn rất nhiều những
đau đớn xót xa, những âm thừa nhứt nhối, cứ thản nhiên rói mãi vào tâm can người
lính, khiến nhiều lúc cũng muốn như họ, trốn quân dịch hay mang mặt nạ để nhân
danh lãnh tụ, tôn giáo., bịp chúng lánh đời. Sau đó tìm hang ổ rất bình yên ở hậu
tuyến để phá hoại chính quyền
“ Giã từ em, anh đi trung sĩ
em ở nhà lấy Mỹ nuôi con
bao giờ hết việc nước non
về nhà đã có Mỹ con anh bồng..”
- “ Tôi có người yêu chết trận Pleime
Tôi có người yêu chết trận Ashau
Tôi có người yêu nằm chết cong queo
Chết vùi lòng đèo, chết cạnh gầm cầu
Chết nghẹn ngào mình không manh áo.
Mẹ mong con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Một ngục tù trên quê hương
Người Việt Nam quên nòi giống “
( Trịnh Công Sơn )
- “ Con về thăm mẹ
tay cầm lưỡi lê
mẹ nhìn ngơ ngác
ngủ đi con, ngủ đi con
rồi ngày mai khôn lớn
giết bạn bè, anh em
bán nước mà làm quan ..”
( Miên Ðức Thắng )
Mỗi lời
hát là một trái phá, từng ca khúc như một hầm xăng, đốt phá cháy đỏ lòng người yêu
nước dữ dội. Rồi sau ngày 30-4-1975 tàn mùa chính chién, lũ Việt gian phản chiến
hết thời bị vắt chanh bỏ vỏ, lăn lóc nổi trôi trong biển đời đen bạc, hối hận
cũng đã muộn màng :
“ Gọi quê hương mà nhớ
Quê hương ? còn có quê hương sao ?
Khi đất nước không còn chiến tranh
Rợ Hồ từ núi về thành
Bạn bè trăm đứa, vừa xanh nấm mồ ..”
Vẩn vơ
nghĩ bậy, nên xe đã tới Trại Lý Công Uẩn, Tân Phong trên quốc lộ 1, lúc nào không
biết. Trời cuối tháng trăng mọc muộn, thêm vào đó lại có mưa phùn gió bấc, nên
bốn hướng tối đen mù mịt. Trong khoảnh khắc chết cóng của không gian , chỉ còn
có tiếng côn trùng rã rích, một vài con cú tìm mồi , cất giọng kêu than não nuột.
Mặc kệ, lính tráng vẫn im lặng ngủ ngồi trên xe chờ sáng. Xa xa tù cõi mịt mờ,
bổng vang vang tiếng chuông nhà thờ, từng hồi văng vẳng, như muốn chiêu hồn những
người lính của Tiểu Ðoàn 1, Trung Ðoàn 43.. sắp bước vào cõi mộ địa. Nỗi buồn bất
chợt làm hồn hoang xao xuyến, ta đã bỏ trường xưa, lớp cũ, bạn bè và thầy cô
thân thương từ bao giờ nhỉ ? Gần quá mà cũng thật xa, không muốn nghĩ mà lòng cứ
thổn thức vô vàn. Nhưng tất cả cũng chỉ là định mệnh, giống như những đào kép
đang diễn các vở tuồng tự do dân chủ, bảo vệ đạo pháp hay gì gì đó, trên sân khấu
đời. Tất cả thật xa hoa thừa thải, nhất là lúc này lính đang sắp tới một chiến
trường khốc liệt, khi trời hừng sáng.
Tiểu
đoàn lên đường ngay, sau khi đã nhận đủ tiếp tế và đạn dược. Ðiểm hẹn là Tánh Linh
. Cuộc đổ quân coi như an toàn và hoàn tất lúc một giờ trưa ngày 21-12. Hoài Ðức
và Tánh Linh là hai quận miền núi, nằm về phía tây của tỉnh Bình Tuy, nguyên là
phần đất phía nam thuộc phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, được Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm, cắt để thành lập tỉnh mới vào năm 1957. Vùng này nằm sâu trong thung
lũng sông La Ngà, phát nguyên từ cao nguyên Di Linh, chảy suốt vùng, một nhánh
đổ vào Biển Lạc dưới chân núi Bảo Ðại, nhánh còn lại chảy tới Trị An và nhập
vào sông Ðồng Nai, ra biển Ðông ở Vũng Tàu. Quận Hoài Ðức hay Nam Sông có các
xã Võ Ðắc (Huyện lỵ), Chánh Ðức, Võ Xu, Duy Cần và Trà Tân tương đối an ninh.
Quận Tánh Linh hay Bắc Sông, gồm các xã Sùng Nhơn, Mê Pu, Nghị Ðức, Bắc Ruộng,
Huy Khiêm, Tà Pao và Lạc Tánh (Quận lỵ) có nhiều xã xôi đậu, dân chúng gồm người
Kinh, Chàm, Thương ăn ở lẫn lộn nhưng đa số thân hay theo VC.
Ở đây rừng núi chập chùng, đầy rẩy thú dử, dân quân du kích, cùng với sự hiện diện
của Công trường 7 Chính qui Bắc Việt, luôn luôn gây áp lực mạnh, cho các lực lượng
quân sự ở đây dù các Trung Ðoàn 43,48 và 52 của SD18BB, luân phiên hiện diện trấn
giữ và bảo vệ dân chúng trong vùng. Tuy vậy tình hình vẫn không khả quan mấy,
vì một số lớn di dân Nam Ngãi, được TT Diệm , giúp từ miền Trung đói nghèo tới
đây khai khẩn sinh sống trong cac khu trù mật, sau khi phát tài và đủ lông
cánh, đã phản bội Quốc Gia, thân hay theo VC chống lại chính quyền
Cũng
do sự tác tệ này, nên mới có cái gọi là Ðồng khởi năm 1959 tại Xã Bắc Ruộng, quận
Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy. Do quyết tâm cưỡng chiếm cho dược Miền Nam VN bằng võ
lực, Hà Nội đã lập cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cho đám khoa bảng
trí thức no cơm ấm cật Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, Hồ
Thu.. làm lãnh tụ bù nhìn. Tại Bình Thuận, ngày 2-9-1959 Sáu Tú nhân danh đảng,
tuyên bố thành lập Ðơn Vị 2-9 do Phạm Hoài Chương (hiện còn sống mang quân hàm
thiếu tướng cọng sản), làm Chỉ huy trưởng kiêm chính trị viên. Ngoài ra còn có
Nguyễn Hội, nằm vùng trong trường trung học Phan Bội Châu Phan Thiết, từ
1955-1958, là bí thư chi bộ kiêm y tá, làm chỉ huy phó, bí thư chi đoàn, phụ
trách hậu cần ( Nguyễn Hội đã bị DPQ/BT bắn chết tại Ðồn Trinh Tường , Phan Thiết
ngày mùng 2 Tết Mậu Thân 1968). Ðơn vị 2-9 lúc đó có 3 tiểu đội, trong số này
có một tiểu đội người Thương. Riêng số du kích người Việt, đa số ở Nhơn Thiện
trong Mật khu Lê Hồng Phong. Chính đơn vị này đã tham dự trận đánh xã Bắc Ruộng
năm 1959, trong chiến dịch Ðồng Khởi, trong đó có Mõ Cày (Bến Tre) và Trà Bồng
(Quảng Ngãi).
Quận
Tánh Linh nghèo nàn xơ xác, từ đầu cổng tới cuối làng, đếm được vài trăm nếp nhà,
nằm hai bên con đường đất đỏ, từ Ga Suối Kiết vào. Huyện đường xây gạch lợp
ngói nhưng lâu ngày hứng chịu nhiều đợt tấn công của quân thù, cộng thêm mưa rừng
gió núi, nên tường mái đã loang lổ nhiều vết đạn và đất đỏ. Bên trong có hai
dãy nhà lụp sụp, xây cất bằng ván lợp tôle, là nơi cơ quan hành chánh làm việc.
Tất cả cũng xiêu vẹo tồi tàn , như chính thân phận nghèo nàn, bất hạnh của dân
và lính trong cơn binh lửa. Phố chợ Lạc Tánh nằm kế bên Huyện đường, càng bi
đát hơn. Nhiều nhà cửa của dân địa phương bỏ đi lánh nạn cọng sản, đã trở nên
hoang phế, tang thương, cỏ lau mọc xum xê, hàng cột cháy đen loang lổ đứng im
lìm. Quê hương Việt Nam là thế đó, nơi nào cũng tang tóc hắt hiu, thảm cảnh chiến
tranh nồi da xáo thịt, vắt máu đồng bào đem bán cho Nga, Tàu, Mỹ, Nhật, càng
nghĩ càng thêm thống hận.
Bốn giờ
chiều, Tiểu đoàn xuất quân, xe chở lính tới xã Huy Khiêm, rồi từ đó lội rừng, tấn
công chiếm lại Bắc Ruộng. Hai Tiểu đoàn 2 và 3/43 cũng đã được điều động , từ
hai hường Võ Xu, Nghi Ðức về án ngữ hai mặt tây, bắc. Riêng Ðại Ðội Trinh Sát
43, thì được trực thăng vận, nhảy vào lòng địch . Cuộc hành quân giải tỏa thật
qui mô nhưng kết quả rất bấp bênh, vì tánh mạng của đồng bào vô tội, đang bị giặc
bắt làm con tin trong xã.
Bắc Ruộng
đã hiện ra trong tầm mắt, sau con dốc đất đỏ thoai thoải, cây trái mái tranh
chìm ngập trong màn lửa khói mịt mù. Ðại đội đi đầu đã bắt đầu chạm địch, từ
trong Ấp bắn ra. Tiếng súng của hai phía nổ rền trời đất, nào đại liên, M79, súng
lớn, súng nhỏ lẫn tiếng bom rơi từ máy bay oanh tạc. Việt Cộng ngụy trang lá
cây, chạy có đàn trong các giao thông hào kiên cố . Bên ngoài đồng ruộng bao quanh,
lúa đã bắt đầu trổ bông sửa, mùi thơm đưa đẩy trong gió, khiến cho cảnh vật thật
là trớ trêu bi thảm, làm cho ai cũng muốn kêu trời, hỏi sao lại gây dựng nên nỗi
này ?
“ kẻ thù của ta, đâu phải là ngươi
giết người đi thì ta ở với ai ?
kẻ thù ta tên nó là gian ác
tên nó là vô lương
tên nó là hờn căm
tên nó là hận thù
mang cái rổ danh từ
chia rẽ chúng ta..”
( Phạm Duy)
Lũ gian
ác, chia rẻ, vô lương tìm hoài không thấy, chỉ biết giờ này chúng tôi theo lệnh,
là phải làm sao cứu cho được đông bào , đang bị kẹt giữa hai lằn đạn, cho nên
cuối cùng là phải thanh toán gấp mục tiêu và chấp nhận thương vong, vì hỏa lực
của giặc rất mạnh. Tuy vậy, tới tám giờ tối, quân ta vẫn không tiến được vào Ấp,
dù vòng vây xiết thêm đôi chút. Các đại đội đều lấy bờ đất của vòng đai bên
ngoài Ấp chiến lược và bờ ruộng làm phòng tuyến tránh đạn nằm chờ, vì đêm tối
không phân biệt được phương hướng, địch bạn. Ruông đang trong mùa mưa nên ngập
nước, từng đàn đỉa đói đánh hơi người, kéo nhau tới xin chút huyết của lính.
Trên trời thì muỗi rừng bay dày đặc, vo ve khắp mặt mũi tay chân. Mặc kệ, tất cả
đều im lặng rình rập, để dành cái sống đang nằm trong đường tơ kẻ tóc, của đạn
súng vô tình. Giao tranh vẫn tiếp diễn ác liệt, hỏa châu soi sáng cả bầu trời,
súng nổ, đạn réo, người vật, cỏ cây đang sống đọng, bổng phút chốc trở nên vô
tri , dưới sự tàn phá của chiến tranh.
Có làm
lính mới thông cảm nổi khó khăn của người lính VNCH, bởi vì ta và giặc Hồ, cùng
đều là người Việt Nam, nên dù thế nào chăng nữa, vẫn còn một chút tình nòi giống,
cho nên nhiều đơn vị đã phải khựng điếng trước nghịch cảnh nồi da xáo thịt. Rốt
cục chỉ vì thương hại mà lãnh chịu nhiều thương vong, vì VC là cầm thú không
tim óc, nên chúng không bao giờ biết tình cảm, chỉ nghĩ tới làm sao để đạt chiến
thắng, bất chấp thủ đoạn, kể cả việc sát hại hay giữ đồng bào làm con tin. Giờ
mới hiểu là tại sao VC và người dân trong vùng bị chiếm, chỉ sợ có các lực lượng
Ðồng Minh, nhất là quân Ðại Hàn . Vì những người này không bao giờ cần phân biệt
ai là dân, du kích, chính quy VC, hễ bắn giết họ, thì lập tức bị trả đũa ngay,
không một chút nhân nhương, thương hai. Bi kịch tại Mỹ Lai, quận Sơn Tịnh, Quảng
Ngải, là một chứng minh. Riêng hai tỉnh Phú Yên và Bình Ðịnh khét tiếng của
Quân Ðoàn 2 vì có nhiều VC, nhưng khi Sư Ðoàn Thanh Long và Mãnh Hổ tới trấn
đóng tại vùng này, thì VC nhất là du kích, hầu như là rút đi chỗ khác, vì vỏ
quít dầy đã có móng tay nhọn, tàn bạo gặp dã man, cuối cùng giặc phải tháo chạy.
Thế là vùng đó được bình an.
Ngược lại người lính VNCH, ngoài vấn đề bị khinh ghét ngộ nhận vì VC
tuyên truyền, chúng ta là lính đánh thuê cho Mỹ, nên dân chúng đả tỏ thái độ
thù nghịch rõ rệt, dù thực chất ta tới đây để bảo vệ tài sản và sinh mạng của họ.
Cũng đâu có trách được, vì người dân lúc đó đâu có khác gì con sâu cái kiến, nằm
giữa dao thớt, nên chỉ biết nghe lời những kẻ có súng đạn trong tay, để giữ lấy
mạng. Hành quân đến làng ấp nào cũng vậy, chỉ thấy đàn bà con gái bụng to vì
mang thai. Lính tò mò hỏi chồng đậu, thì trả lời là đã đi làm ăn xa. Ðiều này
cho thấy sự hiện hữu thường xuyên của giặc khắp mọi nơi, nhưng vì chế độ của miền
Nam qua nhân từ, nên rốt cục thành bất lực không kiểm soát được.
Sáng
hôm sau, khi mặt trời vừa thoát được dãy núi Ông trước mặt, chim chóc bắt đầu rời
tổ tìm mồi, thì các cánh quân của Tiểu đoàn 1/43, dưới quyền Tiểu Ðoàn Trưởng, Ðại
Uý Ngô Đình Trung ( Khóa 16 SQ/VBDL, vừa thay thế Cố Thiếu Tá Ngô Văn Diệp, TDT
bị phục kích chết tại Trảng Bàng tháng1-1965. Riêng Ðại Uý Trung cũng bị trọng
thương, gãy hai chân , trong trận TD 1/43 bị Công Trường 7 Chính quy VC tràn ngập
vào tháng 7/1966 tại Võ Su, Bình Tuy), cũng tiến được vào Ấp. Lính từng người một
cẩn thận, vì chông bẩy, mìn lựu đạn còn gài khắp nơi. Quân tiến theo con đường
đá lỏm chởm chạy ngang Xã Bắc Ruộng, thấy VC đào rất nhiều hầm hố giao thông
hào. Khắp nơi súng vẫn còn nổ và khói lửa thì mịt trời. Ðó đậy giặc bỏ lại nhiều
xác bộ đội cháy đen, nằm co quắp lẫn lộn với túi gạo, thắt lưng đạn cùng quần
áo bừa bãi. Tất cả hiện ra thật là bi đát, khiên cho ai được chứng kiến cũng phải
đau xót, phiền muộn. Chiến tranh là vậy đó, chỉ có những người VN thấp cổ bé họng
là hứng chịu tang thương, còn xếp chúa hay các lãnh tụ, thì muôn đời rung đùi,
đâu có biết tới.
Theo
lệnh, Tiểu đoàn 1/43 có trách nhiệm lục soát Thôn 1 và 2, về hướng nam của xã. Trong
ánh nắng ban mai rực rỡ, có thể nói Bắc Ruộng đã tan vỡ hoàn toàn. Dưới những
mái nhà bị sụp đổ vì bom dạn, mùi tử khí bốc lên nồng nặc. Trọn một gia đình, mẹ
và ba con nhỏ, nằm chết đen queo thê thảm bốn ngày qua. Nói chung khắp nơi, moi
tranh hay tôle lên là tìm thấy xác người.. Ruồi nhặng, sâu bọ gặp thời cơ, tha
hồ rỉa rói xương thịt vô tri bất động . Mưa lại lâm râm rơi nhẹ khắp nơi, tăng thêm
mùi hôi thối , làm cho lính đã mệt mỏi lại càng căng thẳng thần kinh , trước nỗi
đau cùng tận của đồng bào. Một tốp con nít, đàn bà xanh mét, hốc hac, từ những
căn nhà hai bên đường, túa ra chạy theo lính. Thôn xóm vẫn im lìm trong cảnh
tiêu điều, hầm hồ cá nhân đầy mắt đất. Thảm cảnh không cầm nổi nuớc mắt, khi
lính phát hiện đuợc đôi vợ chồng già nua, ẩn trú dưới hầm kín mấy ngày qua, dù
cụ bà bị thương nặng ở đầu nhưng không dám kêu cứu, vì sợ VC bắt dẫn theo vào rừng.
Buổi
trưa, Tiểu đoàn mới vào Ấp giữa.Ðây là khu vực của Trường Sơ Cấp và Nhà thờ Thiên
Chúa Giáo Bắc Ruộng. Nhưng tất cả cũng đả sụp đổ hết rồi, chỉ còn trơ lại mấy bức
tường cháy và xác người chết nằm la liệt. Giặc Cộng khôn ranh, biết Chính phủ cũng
như QLVNCH, không bao giờ dám làm tổn hại tới những cơ sở tôn giáo trang nghiêm
như Ðình làng, Chùa Miễu và Nhà thờ. Bởi vậy, giặc Hồ đã chiếm nhà thờ Bắc Ruộng,
để đặt Bộ Chỉ Huy quân sự, cũng như các giàn hỏa tiễn phòng không bắn máy bay.
Kết quả cả chúng và các cơ sở đều đã tan nát dưới sự tàn phá của bom đạn vô
tình.
Thánh đường giờ mơí im vắng thật sự . Bàn ghế gãy đổ, mái nhà cũng bay mất. Tượng
Ðức Chúa Jésus ngả nghiêng xiêu vẹo. Ðôi cánh thiên thần như chập lại để vượt
khỏi tầng mây. Kinh sách, các lọ nước thánh tung toé lăn lóc trên sàn nhà.
Nhưng thảm nhất, là phía sau chiếc bệ thờ bằng gỗ, có sáu xác chết đả sình thối.
Trong số này có Ngài Cha Xứ Bắc Ruộng, nằm bất động, tay hình như đang còn lần từng
hạt chuỗi, để cầu nguyện cho nhân thế, được ơn lành, phước lớn, hòa bình và
hoan lạc. Nhìn Ngài nằm chết thê thảm, người lính chiến có tâm hôn chai đá, cũng
đã phải gào thét thật to, để hỏi Thượng Ðế Chí Tôn, đang ngự trên ngôi cao tận
chín tầng mây diễm tuyệt, rằng bao giờ dân tộc Việt Nam, mới được tắm trong bể
ánh sáng mà Thiên Chúa hằng rao giảng ? Bao giờ trần gian mới được hoan lạc và
hòa bình ? Bao giờ các nạn nhân chiến cuộc , mới có được những đoá hoa hồng,
hoa súng, những điệu nhạc thanh thoát, để thế nhân vượt qua bể khổ trầm luân của
biển đời :
“ Maria, tâm hồn tôi ớn lạnh
run như run thần tử thấy long nhan
run như run hơi thở chạm tơ vàng
nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến..”
(Hàn Mặc Tử )
Thượng
Ðế đã thật sự đi rồi, nên không còn ai can ngăn nổi loài người, đâm chém bắn giết
lẫn nhau. Chán nản quá, chúng tôi rời nhà thờ , sau khi đem khiêng các xác chết
về địa điểm tập trung, trước trường học, để tiếp tục lục soát cho hết khu vực
trách nhiệm. Nắng vẫn le lói sáng rực nhưng không khí khắp nơi vẫn ớn lạnh, tiêu
điều. Ðây là khu nhà hậu của giáo đường, aó quần, cối xây, lúa gạo vẫn còn vương
vãi trong ngoài, nhưng người ở đây thì đã chết hết rồi. Kìa là hình ảnh của ba
cô giáo làng, khi giặc về không chạy thoát được, nên đã chụm đầu vào chết chung
ở nơi này vì các mảnh bom đạn của cả hai phía. Sự chết của ba nàng, quả là tàn
nhẫn dữ dội. Aó tím áo xanh trinh nguyên rạng rỡ, chưa được bao nhiêu tuổi đời,
đã thành áo quan, ôm ấp hình hài các em nơi núi rừng miên trường thảm tuyệt.
Ðúng, phải và rất hay như gã nhạc sỷ họ Trịnh đã hát :
“ Tôi có người yêu làm giáo làng
vừa chết tại trận Bắc Ruộng
không hận thù, nằm chết như mơ
từ nay tôi quên tiếng người ..”
( Trịnh Công Sơn )
Tới chiều,
cuộc lục soát coi như hoàn tất. Tát cả các xác chết của ta, địch và dân chúng đều
được gom lại trước sân cỏ Thanh đường. Những người bị thương nặng, được trực
thăng chở về Bệnh viện Võ Ðắc và Xuân Lộc điều trị, cứu chửa. Các Tiểu đoàn của
Trung Ðoàn 43 chia khu vực, để dọn dẹp và giúp dân trong xã dựng tạm lại nhà cửa,
khói lửa, hầm hố khắp nơi được dập tắt và lấp kín. Ban Quân Y/Trung Ðoàn 43 và
Tỉnh Ðoàn Bình Ðịnh Xây Dựng Nông Thôn Bình Tuy, cũng được điều động khẩn cấp tới
Bắc Ruộng, để phát thuốc, chẩn bệnh và cứu trị các nạn nhân chiến cuộc
Sáng
ngày 24-12, công tác coi như phần nào hoàn tất, Trung Ðoàn 43 BB được lệnh về Long
Khánh, sau khi bàn giao Xã Bắc Ruông lại cho một Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân, từ
Hàm Tân di chuyển tới. Nhưng người trong Ấp lại ùa theo lính rất đông để xin
vào các trại tị nạn. Chắc họ không còn dám tin ai nửa, kể cả các du kích địa phương,
đang lẩn quẩn ẩn trốn ở bìa rừng, chờ Lính Trung Ðoàn 43 rút, là mò về tiếp tục
khuấy phá người dân khốn khổ. Tại Tánh Linh, trong khi ngồi chờ xe tới rước ,
nhìn cảnh tượng dân chúng trốn ra được, trước khi Bắc Ruộng bị giặc Cộng cưởng
chiếm, hỏi han tìm kiếm thân nhân lẫn lộn trong đoàn quân, muốn rơi nước mắt.
Con ơi, má ơi, em ơi. Tiếng cưòi khóc của đồng bào vang dội như muốn phá vỡ ,
cái không khí trầm mặc muôn thu của phố núi Lạc Tánh..
Quân
đến rồi đi, đêm nay tiểu đoàn được tạm thời nghĩ xã hơi nơi phương phố Xuân Lộc.
Tỉnh lẻ của miền đất đỏ, đang làm dáng với hoa đèn lộng lẫy. Các xóm đạo Bảo
Hòa, Bảo Ðinh, Bảo Toàn và Khu vực Nhà thò Chính Tòa trước chợ, đầy ấp tín đồ con
chiên, mừng vui ngày Chúa Giáng Sinh. Họ đâu có biết, ở một nơi nào đó, cũng tại
một thánh đường , có Ngài Cha Xứ và ba cô giáo làng, vừa mới rời khỏi trần gian
, để giúp cho thế nhân, sớm tìm laại được hòa bình và hoan lạc.
Thế rồi
đời lính cứ lặng lờ xuôi ngược. Chuyện của ngôi thánh đường Bắc Ruộng, có ngài
cha xứ và ba cô giáo làng nằm chết,như theo khói lửa chiến tranh và thời gian
trôi vào quên lãng. Bởi vì cuộc chiến càng lúc càng ác liệt và hằng ngày đã có
không biết bao nhiêu chùa, nhà thờ, các vị chân tu bị giặc Hồ tàn phá và giết
chết, trên khắp mọi nẻo đường đất nước.
Năm 1978
sau mưới hai năm xa cách, tôi lại về thăm Bắc Ruộng, nơi mà một thời người lính
chiến của Trung Ðoàn 43 Bộ Binh, từng giẫm nát. Nhưng lần này chúng tôi về với
thân phân của một tù binh cọng sản, để lao tác, chặt rừng, xẻ núi, đào kinh,
vét mương và lấp kín các hố bom, hầm đạn của thời nào. Bắc Ruộng vẫn như buổi
nào, con đường tỉnh lộ nối xã với Lạc Tánh và Sùng Nhơn vẫn lầy lội và lởm chởm
đá. Nhà cửa dân chúng đã xây dựng lại, cây trồng có phần xum xuê hơn trước, vì
chiến tranh đã dứt. Người cũ cảnh mới trùng phùng trong ngấn lệ. Nhưng có một
điều là dân chúng đã không xây lại ngôi thánh đường củ, đã bị tàn phá năm 1965.
Nền nhà xưa cỏ lau mọc cao hơn đầu, những hàng cột vôi và các bức tường gạch
cháy, vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Dãy nhà hậu cũng biến mất, chỉ còn trơ lại
cái sân đất trống rỗng đầy cỏ dại, nằm im vắng thẫn thờ trong gió lạnh, nhìn
cuôc bể dâu thêm ngao ngán đoạn trường :
“ Trấn bắc hành cung cỏ dãi dầu
khách đi qua đó chạnh niềm đau
mấy tòa sen rớt, mùi hương ngự
năm thức mây phong, nếp áo chầu
người xưa cảnh cũ nào đâu tá ?
( Bà Huyện Thanh Quan )
Qua màn
lệ mắt của kẻ tù, tôi hình như đã thấy những tà áo tím, áo xanh của các em giáo
trẻ năm xưa và màu áo chùng đen của ngài cha xứ. Tất cả như đang lồng lộng trong
gió và trên chín tầng mây cao. Người đang đưa tay vẩy gọi và thầm bảo rằng “
các con hãy giữ niềm tin và phấn đấu “
Nhưng chao ơi, đợi tới bao giờ ?
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
Mùa Giáng Sinh 2016
HỒ ÐINH
TD1/TrD43/SD18BB
Kbc 4424
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết