04/30/2017
Đại Bàng Gãy Cánh Tháng Tư
Mũ Đỏ
Nguyễn Văn Lập
(Để
kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon)
Ngựa đang sải vó lưng đồi
Súng gươm bỏ lại cuộc chơi nửa chừng.
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Tháng tư gảy súng đếm từng nổi đau…
Ta đứng bên nầy, trông núi sông
Một trời thương nhớ ở phương đông
Đường hoa theo dấu chân luân lạc
Một gánh giang san khóc hộ chồngMột ngày tan nát bao thân phận
Nửa kiếp lưu vong tối mặt mày
Cũng thử đưa cay bằng chiến trận
Ói toàn uất hận lúc xuôi tay
Bạn bè còn lại bao nhiêu đứa
Đứa còn, đứa mất chẳng ai hay
Chí lớn cùng đường, tài bỏ xó
Anh hùng bạt mạng, vợ con lo
Nhớ quê chửi nát mồ ma đỏ
Một nắm xương khô đẫm máu đào
Nhìn nhau bổng thấy quê hương củ
Nghìn trùng rực rở núi sông xưa
Vết đau ngày tháng còn mưng mủ
Giọt lệ bên đường mặc gió mưa
Ví thử xuân xanh còn rực lửa
Cũng đành dâng hiến trọn non sông
Và em, sẻ một đời tựa cửa
Nhìn qua lục địa để ngóng trông.
Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù
về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu
đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành
lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo
đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ
gốc lính từ quân lao Gò Vấp đưa về.
Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và
không bắn đạn thật, vì tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không
có sĩ quan huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một
tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ
đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác chiến bảo
vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho thấy tình hình
quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận
động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ
ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẵn sàng một vòng
cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh
đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải ra vào làm nhiệm vụ nên xin
giử chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với
tôi: “Trung úy định tử thủ”. Tôi trả lời không vào câu hỏi: ” Tình thế lộn xộn,
coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết
trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực
tại chổ, sẳn sàng tác xạ.”
Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ.
Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ Thủ đô sẻ do
những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề như thế này bắn, thiệt đã. Ngoài
các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn lại toàn tay mơ, pháo đội
tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có
thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới về đi phép hai ngày với lời
dặn dò nếu các anh cãm thấy có bổn phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu
sôi lửa bỏng này thì về lại đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn
chứ về trể thì đừng trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trể
phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẳn sàng sống chết
với mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rỏ, chứ
biết rỏ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có một người xin vào,
vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung
sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám về trình diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào,
tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn,
đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần
đó để mua chịu thực phẩm, vì một khi đụng lớn có thể không tiếp tế được. Người
chủ tiệm bằng lòng và nói lúc nào cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa thì
có một pháo đội Biệt Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin
đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị
chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi
vì tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi
như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền
tin.
Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một địa điểm tìm đơn vị
bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của
nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe
tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không
thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người
còn súng, có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn
vào, còn các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng Việt cộng
giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em còn súng và thất lạc đơn
vị này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng lòng, nhưng
tình thế hết sức phức tạp hiện nay nên không tiện yêu cầu điều này. Đến xế
trưa, một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin
tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy
Trần Văn Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc
trực thăng khác bay từ biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi
biết họ đang di tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn
về phía Saigon, lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa lòng Thủ đô, cuộc
đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân
quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn
còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi trôi thật êm đềm trên hè phố sau giờ tan
học vẫn còn đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu,
nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc
chiến tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị
bức tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào
Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng nhân
nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẽ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Dòng suy
nghỉ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu
dấu của tôi đang ở cách đây chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ
và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh
vẫn còn cầm súng, con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia
cầm súng đang bảo vệ Thủ đô đã chọn cho mình một số phận, hiên ngang đi nốt con
đường khổ nạn của dân tộc, nếu anh có bề gì thì ráng nuôi con, sau này bảo bố
nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô Saigon.
Những tràng súng lẻ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài
trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần, cả
Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng
chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử. Có nhiều
điều đã báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn
ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay
qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và
Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký thông cáo chung bao
giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lý do Hoàng Sa của Việt
Nam lọt vào tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong khi hải quân Hoa
Kỳ nằm bất động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng
Hòa. Từ đó, chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẽ bị bỏ rơi, và Saigon không thể
mất trừ khi có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ
Thủ đô và đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không
bao giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đã đến..
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển
122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u
ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân
Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con
đại bàng bị tiển thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm
quân đội khét mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ
mới có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10
giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội B của Tiểu
đoàn tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi
về Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng
địch, 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đã tác
xạ, khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng
bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói, một
lúc sau Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu
cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà
Điểm và nhiều nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, còn Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh.
Những chiếc trực thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà
đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi
cơ.
Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh “check fire”
(ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn “Hướng bắn của
tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn
không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi”. Thiếu Tá Việt bảo “Đợi”. Tôi
buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ
mặt phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire,
tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn
vị phòng thủ Saigon. Tôi nhìn vào xạ bảng, những điểm cận phòng mà tôi đã chấm
chung quanh Dinh Độc Lập, đã làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước
mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội
tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng,
không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một
lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn
lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực
thăng nói tại tụi nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung Úy,
ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng
Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim
mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc
bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không
hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác
xạ nhìn ra ngoài, các quân nhân đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng,
sáu khẩu đại bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục
tục rời vị trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa hai
tay không còn vũ khí đi ngang qua chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng
một thời oanh liệt nam chinh bắc chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng
phát ra không phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh
hùng. Hai mươi mốt năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một
phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ
lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt Nam
Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản, đánh tan tành
bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội tôi, những người lính của giờ
thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm
gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước
ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền
này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh.
Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc
đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan
hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng
Hoa Thám để chào tạm biệt, rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo
đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng
súng chào trình diện quân số, đợi lệnh”.
Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào kính,
6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm
trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ
huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu vàng ba
sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn chặt
đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm, những
người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp
chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em
nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc
này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành
lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy
Dù, anh em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống”. Sau đó tôi
cho pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng
hàng trên ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các
khẩu trưởng hỏi tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi
lắc đầu. Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để
nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập
mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà,
pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng
sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột đòi
đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm. Trong
khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở vào
nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận, xong,
tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên
cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức
sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê hương
tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất
hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay lại
nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng tôi
đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước,
nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố
gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một
người lính nguyên thủy.
Ba mươi chín năm qua, mỗi năm đến ngày này, nước mắt của người
lính vẫn lưng tròng , không phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh
tháng tư, vì những người lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ
quốc, được toàn dân ngưỡng mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì
không giữ được nước, vì cuộc chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông
lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những
giọt nước mắt của người lính quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ
nay thống khổ dưới gông cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của
mình, vì một khi vào quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc, là chấp nhận mọi
hy sinh mất mát cho bản thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến
ngày bị bức tử.
Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh
buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm
nhận lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục
lần so với lính cộng hòa, còn tù binh bị bắt gấp 6 lần. Nếu tiếp tục cuộc chiến
thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ chết hết, sẽ đời đời “sinh Bắc tử Nam”. Năm
1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ sơ giải mật cho
thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu giải quyết
chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên Xô, và đã
thành công, cộng sản quốc tế bị tan rã sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989 và khối
cộng sản Đông Âu cũng tan tành theo sau đó.
Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải
gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nữa vì Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, viện trợ
mạnh hơn nữa để thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó, và chiến
tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cãn Hà Nội
không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng, Mỹ phụ
họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, làm Tổng Thống Thiệu trúng kế
phải bỏ miền Trung, Mỹ có lý do rõ ràng đổ tội rằng quân đội cộng hòa không
chịu chiến đấu, và kết quả đúng như bàn cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào
tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị
bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này.
Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam
hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi,
Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự
do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế giới, cái tự xưng là
đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội đã hèn hạ bán đất dâng biển
cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì cũng phải nghe, Tàu cộng
bắt tàu đánh cá của ta đòi tiền chuộc, đảng bảo dân đóng tiền chuộc, còn tàu
của thiên triều bị ta bắt, đảng vội vàng thả ra vô điều kiện, rõ ràng là “hèn
với giặc, ác với dân”, câu này nay đã trở nên một thành ngữ, cuộc chiến vừa qua
đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập (TrẻĐẹpOnline)
LTS* Có bạn đọc trước đây hỏi chúng tôi rằng sau khi nghe ông Dương văn
Minh đầu hàng, sao Pháo Binh Nhảy Dù không bắn nát Dinh Độc Lập là nơi xuất
phát cái lệnh quái ác này đi. Xin được trả lời chung rằng, anh em Nhảy Dù rất
phẩn uất khi được lệnh buông súng, vì anh em Nhảy Dù về Saigon tử thủ để bảo vệ
thủ đô. Lúc đó, nếu có một đơn vị Nhảy Dù nào mà được lệnh đánh vào Dinh Độc
Lập để bắt cái chính phủ chủ hàng này, và đương nhiên sẽ xin tác xạ vào đấy,
chúng tôi sẽ không ngần ngại bắn ngay. Nhảy Dù chỉ tuân lệnh cấp chỉ huy trực
tiếp, bảo nhảy vào lửa để cứu dân, chúng tôi sẽ nhảy vào, trong quá khứ chúng
tôi đã làm, và không có lệnh thì không làm. Còn tác hại của pháo binh trong
thành phố rất lớn, cho nên khi bắn phải có Tiền sát viên (Forward Observer) hay
Sĩ quan liên lạc ( Liaison Officer) xin bắn và điều chỉnh cho trúng mục tiêu,
và bắn đâu là trúng đó. Bắn bừa không có điều chỉnh, đạn dễ lạc vào nhà dân,
thêm trọng tội.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết