Saturday, January 27, 2018

27 THÁNG GIÊNG 1973 Không Thể Nào Quên

27 THÁNG GIÊNG 1973
 Không Thể Nào Quên




  
Năm mới đã đứng đợi trước thềm. Chưa mở cửa đón xuân thì đã thấy dội lên trong lòng nỗi đau lịch sử. - (27/1/1973 -27/1/2003) . 
Ba mươi năm về trước, Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam được ký kết vào ngày 25/1/1973 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 27/1/1973.Nhưng hầu như không mấy ai ngoài những người lãnh đạo biết được đó chính là bản án khai tử chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Hòa bình là niềm vui của mọi nhà. Ðình chiến là tương lai, là niềm hy vọng trở về của những người vì làm nhiệm vụ đang phải chịu đọa đày trong ngục tù Cộng Sản. 
Bao năm tù đày khổ nhục vững chí trung kiên chỉ đợi một ngày xổ lồng tung cánh. Nhưng niềm hy vọng mới manh nha đã lại tắt lịm. Ðòn thù của đối phương lại chụp xuống thân xác những người con yêu của đất nước. Cuộc đấu tranh giữ gìn phẩm cách và sinh mệnh của những người công tác bí mật bị sa cơ còn gian nan, vô vọng hơn cả giai đoạn trước khi có hiệp định Paris.. nhưng quả tình “sắt đá cũng chưa bền gan bằng ý chí” của những con người có lý tưởng... 
Trang sử ô nhục lật qua đã lâu nhưng nhân ngày 30 năm nhớ lại chuyện cũ, trích lược đôi dòng tự truyện để phần nào cho chiến hữu, bằng hữu biết rõ cuộc sống trầm luân của những người chiến sĩ trung kiên.....



***

 



BK Nguyễn Thái Kiên , BK Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt Tỷ phú Ross Perot , BKTrình A Sám 

Năm 1970 , khoảng vài tháng sau vụ đột kích giải cứu tù binh Mỹ ở Bất Bạt, Sơn Tây của Lực lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ không thành công, chúng tôi đang ở tại trại Phong Quang- Lào Cai thì bắt đầu có những cuộc đảo người, xáo nhóm.

Khu biệt lập có hơn 130 Gián Ðiệp Biệt Kích tuần tự được chuyển đi từng nhóm nhỏ. 
Nhóm của chúng tôi là nhóm thứ hai - tổng số 32 người - được chuyển về trại Tân Lập, Vĩnh Phú vào đầu năm 1971.

Ðến trại được vài hôm, chúng tôi được biết khu Biệt Lập - còn gọi là khu xây - chiếm một dẫy gồm bốn buồng lớn. Từng buồng trong tường vây có sân sau, sân trước, bể nước khá rộng.

Ngoài buồng chúng tôi đang ở nằm mút đầu phía trong trại, buồng sát bên cũng đã có một nhóm Gián Ðiệp Biệt Kích khác. Nhóm này đang làm công việc may quần áo tù. Buồng sát bên cạnh nhóm may giam một vị tướng Cộng Sản tên là Ðặng Kim Giang. Buồng sát ngoài vòng tường trại là buồng để hơn chục cái máy may cho toán lao động.

Mấy tháng đầu mới tới trại, chúng tôi được ở không. Hàng ngày bọn công an quản giáo CS mở cửa cho ra phơi nắng, đi lại trong khoảnh sân quanh buồng giam.

Khu chúng tôi ở tuy nằm trong vòng tường của trại nhưng tuyệt đối không thể nào liên lạc được với những nhóm tù hình sự khác bởi có mấy lớp rào thép gai và tre. Chỉ có một người tù tên Viên trong nhóm trật tự làm công việc gánh cơm nước, phục vụ cho khu biệt lập.

Một hôm, chúng tôi được đưa sang buồng may để học nghề nên thấy một nhóm tù hình sự đang xây mấy căn buồng nhỏ. Lợi dụng lúc tên quản giáo đi khỏi, tôi hỏi mấy người tù đang làm việc, mới biết là họ đang xây xà lim để dành cho chúng tôi.

Sau khi nghe họ nói vậy, tôi đã biết chắc chắn mình sẽ có một xuất..... 

Ðợt khai trương nhà cùm vào tháng 7 năm 1971, Nguyễn Huy Thùy, lúc đó mang quân hàm trung úy làm Phó giám thị trại Tân Lập đưa một trung đội công an vũ trang vào khiêng tôi đi “khánh thành” xà lim kỷ luật vừa mới xây xong. Ðúng là “khiêng”; bởi vì sau khi tên quản giáo đọc lệnh “kỷ luật”, tôi chống lại cương quyết không đi. Chẳng phải chúng tôi sợ cùm nhưng cố tình gây khó dễ để tỏ thái độ chống đối.

Kể cũng vui, thỉnh thoảng được thử xem “Sức Mạnh Tòan Ðảng và Toàn Quân” của bọn “khỉ tiến hóa” tới đâu.

Thật ra mỗi lần đi cùm chẳng dễ chịu gì; hai cổ chân thì vỡ toác, môi trường yếm khí, hôi hám không thể tả.

Ăn đói, thời tiết lại rét buốt, chết lúc nào không hay nhưng im lặng để bọn đười ươi coi thường là chuyện không thể chấp nhận được...



Sau hơn bốn tháng cùm kẹp, một hôm tôi được lệnh mang đồ đoàn về lại buồng tập thể. Chân thấp, chân cao tập tễnh trên đường từ nhà cùm về buồng, tôi thầm nghĩ chắc hẳn chúng tưởng tôi đã mỏn sức nên cho ra. Nhưng sau về đến buồng gặp anh em mới biết vì nhà cùm không còn chỗ để đưa người khác vào nên tôi là người đang nằm lâu nhất mới được “nhà nước gia ơn” giải phóng từ nhà cùm sang nhà tù.



Mai văn Học (hiện ở San Jose- Cali) vào cùm sau tôi ba tháng là người thay tôi trấn nhậm xà lim cho tới gần tết 1972.

Khi Học được thả ra, tôi biết mình lại sắp sửa được đảng bộ trại Tân Lập cử đi “trấn thủ lưu đồn” tiếp.

“Nhân bảo như thần bảo”.. tháng 3, tôi lại khăn gói vào nhiệm sở. Ðợt này mới ở được 30 ngày, chân chưa cuồng; đột nhiên lại được thả về buồng cũ mà chẳng hiểu lý do làm sao...



Suốt gần tháng trời, anh em cứ bàn bạc đến việc chuyển trại. Và rồi chuyển trại thật. Toàn bộ chúng tôi tay xách, nách mang ra xe vào buổi chiều nhưng không đi đâu xa mà chỉ chuyển vào trại sơ tán nằm khuất trong một cánh rừng trung du không xa trại cũ là mấy.

Sáng nào tụi công an trại giam mở cửa cho ra sân trại trong mấy lớp rào nứa kiên cố vây quanh cũng thấy núi Ba Vì đội mây, sừng sững trước mặt.

Thời gian này, không lực Hoa Kỳ được lệnh của Tổng thống Nixon dần nát Bắc Việt.



Nhiều lần chúng tôi được tận mắt ngắm những đoàn chim sắt bay qua bầu trời trung du, tiến vào hỏi thăm Hà Nội.

Cũng tại đây, anh em chúng tôi được một lần nhìn thấy SAM 2 phóng lên để nhằm bắn hạ một chiếc Thunderchief. Tất cả chúng tôi đều trầm trồ tán thưởng khi nhìn chiếc phi cơ đang bay lẻ loi giữa tầng mây lưng trời bỗng khựng lại, thoắt nghiêng cánh chui qua giữa hai trái hỏa tiễn địa không rồi biến mất.

Khoảng hơn tiếng đồng hồ sau, từng đoàn, rồi từng đoàn chim sắt từ biển vào, từ những rặng núi phía Tây bay qua vần vũ trên không phận Vĩnh Phú.

Tiếng động cơ phản lực gầm thét như sấm động, tiếng bom nổ liên hồi. Bọn công an vũ trang đuổi tất cả mọi người xuống hầm, hào tránh bom nhưng chúng tôi vẫn nằm ngửa, cố tìm xem các phi cơ của “Không Quân Nhân Dân Anh Hùng” có bay lên nghênh chiến hay không... nhưng hoài công.. vì chắc họ “nghe lệnh bác” chơi kiểu “tiêu thổ kháng chiến” mặc cho phi cơ Hoa Kỳ thả hết bom và bay hết xăng thì cũng phải chuồn thôi.

Chỉ tội nghiệp cho “đơn vị tên lửa anh hùng” kia chạy trối chết cũng không thoát khỏi tổn thất nặng nề.

Nhưng có sá gì! Miền Bắc đang thiếu gạo, bớt đi nhiều miệng ăn chừng nào càng tốt chừng ấy... Chẳng phải chúng tôi đã ăn độn đủ thứ để nhìn cho ra sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa hay sao?

Trong suốt thời gian ở trại “sơ tán” khoảng gần sáu tháng. Chúng tôi vẫn cứ châm chọc và chống đối như trước nhưng chẳng có ai được cho đi “trấn thủ” nữa.

Hỏi một số tù hình sự thì được biết nhà kỷ luật đặc biệt cùm Gián điệp biệt kích đã sụp vì đợt oanh tạc vào trại.

Có hôm, sau đợt bom đánh vào khu chăn nuôi của trại; chúng tôi thấy bữa ăn hôm đó bỗng nhiên có khẩu phần thịt khá nhiều do lợn bị chết vì bom. Ăn xong, hôm sau mới nghe anh chàng Viên phục vụ kể cho biết có mấy tên cán bộ và ba người tù chết tan xác với bầy gia súc khi bom rơi trúng khu chuồng lợn..!.!.!

Khoảng cuối tháng tám, chúng tôi được tin sẽ chuyển sang một phân trại khác để học tập chính trị chờ trao đổi, trao trả. Theo những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (lúc này chúng tôi đã tiếp xúc được với đám tù hình sự) Hiệp định Paris về căn bản đã xong chỉ còn chờ ký chính thức.

Nhưng rồi chẳng được mấy tuần sau, không khí lại căng lên vì những tiếng động cơ phản lực bay qua bầu trời.

Và rồi lại mấy tuần vắng bặt.

Bầu trời trung du, mùa thu xanh lồng lộng, khoáng đạt vô bờ. Hàng ngày, chúng tôi đi lại trong khoảnh sân nhỏ hoặc trải chiếu ngồi đánh chắn, rõi nhìn những tầng mây lang thang, lòng trào dâng ý tưởng phiêu bồng.

Thế rồi vào khoảng gần cuối tháng chín sang đầu tháng mười, đột nhiên chúng tôi được chuyển qua phân trại khác để học tập trao trả thật.

Chúng tôi được di chuyển bằng xe hơi. Một số ở lại chuyển về trại xây cũ. Trên đường xe chạy, chúng tôi gặp một số anh em ở cùng trại Phong Quang trước đây đang tay ôm túi, tay cắp chiếu đi ngược lại.

Như vậy là ở tại Tân Lập có hai bộ phận Gián Ðiệp Biệt Kích nằm ở hai nơi khác nhau mà mãi đến lúc đó chúng tôi mới biết.

Nhẩm tính con số, tổng cộng tất cả khoảng hơn trăm người.

Tôi và một số anh em được đưa vào một trại sơ tán khác. Ở đây cả nhóm bị phân tán mỏng vì mỗi buồng chỉ ở tối đa từ 6 đến 8 người.

Ngày hôm sau, được mở cửa ra sân, trèo rào nói chuyện chúng tôi được biết ngoài anh em Gián Ðiệp Biệt Kích còn có mười mấy người Thái Lan và bốn người tù Bắc Việt ( Vũ thư Hiên là một trong bốn người) ở cùng khu biệt giam với chúng tôi.

Thảo nào, tối hôm qua, tôi đập tường rồi dùng “morse” nói chuyện mấy lần mà chỉ nghe tiếng gõ trả nhè nhẹ, dè dặt chẳng theo nguyên tắc nào, khác hẳn với cái thói “coi trời bằng vung” của mấy anh em Gián Ðiệp Biệt Kích chúng tôi.

Những người tù như vậy thường là những cán bộ cao cấp trong hàng ngũ đảng Cộng Sản vì chống đối lại chủ trương của phe đương quyền nên bị thanh trừng.

Trường hợp Ðặng Kim Giang ở khu xây với chúng tôi và những người này hẳn là cùng chung nhóm “xét lại” thân Khrouschev của Hoàng minh Chính.

Biết vậy, anh em chúng tôi vờ nói lớn cốt để cho họ hiểu chúng tôi là những người có thể tin cậy được rồi qua trò chuyện, tâm sự có thể hiểu thêm đươc thực chất nội bộ của họ ra sao.

Buổi tối, tôi làm quen được với người ở sát vách. Qua tiếp xúc tôi thấy ông ta là một người có học.

Sau khi biết rõ chúng tôi thuộc thành phần nào, ông tỏ ra tin tưởng và cho biết tên ông là Phùng Văn Chức (sự thực là Phùng Mỹ, giáo sư Ðại Học công tác tại Viện Triết Học)  bị bắt cùng với Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang. Tất cả đều bị ghép cho tội âm mưu đảo chánh.

Ông ta cho biết, ông đã là đảng viên từ khi chưa thành lập cái nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và ông ta thuộc “Những người Cộng Sản có trái tim?”.

Theo lời ông ta kể, tập đoàn Lê Duẩn là một bọn “siêu phát xít” đang cố bóp chết mọi mầm mống chống đối để củng cố quyền lực của chúng.

Qua trò chuyện với nhân vật này, tôi càng thấy rõ thực chất của bọn Cộng Sản còn tồi tệ hơn những gì bộ máy tuyên truyền trong Nam đã nói về chúng. Nhân vật này là người cho tôi biết nhiều nhất về bản Hiệp Ðịnh bởi ông vẫn được đọc báo. Ông có lòng cảm mến nên khuyên tôi cố nhẫn nhục, che dấu tư tưởng căm thù thì mới có hy vọng về được miền Nam.

Ông kể cho tôi nghe chuyện của nhiều người và kinh nghiệm ngay cả của bản thân ông rồi kết luận:“ Dưới chế độ cộng sản con người phải tự biến mình thành một viên bi bằng cao su mới có thể an thân. Bi tròn thì lăn đâu cũng được. Cao su thì co dãn sát hợp với những ô cửa rộng hẹp khác nhau.”

Tôi không tranh cãi với ông nhưng không chấp nhận ý kiến này, tôi không sợ khổ, sợ chết chỉ sợ đánh mất khí phách nam nhi. Tôi đọc cho ông nghe một bài thơ của mình làm để tỏ lộ ý chí của tôi. 



 HIÊN NGANG



 Núi vẫn hiên ngang đứng giữa trời. 
 Sao mờ. Sao nhạt. Phải thay ngôi. 
 Thiên cơ diệu ảo - đêm thần bí 
 Tù ngục sầu ray rứt nửa đời 


 Thù nước khi nào rửa được đây? 
 Bao xuân uất hận - kiếp lưu đầy. 
 Mẹ già tức tủi - đôi hàng lệ 
 Vẫn đợi mong ta - những tháng ngày


 Xuân đến trời đêm tối mịt mùng 
 Một đời nguyền giữ vẹn kiên trung 
 Ðêm cũ sẽ qua - ngày mới đến. 
 Bình minh xuân sáng tỏa vô cùng.

  
Kim Âu





Và mặc dù trải bao khổ nhục, có lúc tưởng đã không thể sống nổi nhưng tôi thấy mình vẫn đúng, vẫn tự hào với phẩm cách của mình.....

Thời gian này (1972), chúng tôi đang chuẩn bị học tập trao trả nên đã bắt đầu được nâng mức ăn lên cao để mau chóng phục hồi thể lực cho chế độ tù binh của “Ðảng quang vinh” khỏi mang tiếng là vô nhân đạo.

Ðầu tháng 10, đoàn giảng viên của Bộ Nội Vụ do Võ Ðại Nhân dẫn đầu đến thăm chúng tôi và sau đó tổ chức học tập chính trị.

Tưởng rằng chúng tôi được phát bản Hiệp Ðịnh để nghiên cứu nhưng chẳng thấy gì ngoài những tài liệu nhằm đáp ứng yêu cầu học tập do chúng đề ra.

Thật tâm, chúng tôi cũng chẳng thèm để ý đến chương trình học tập chính trị của bọn cộng sản nhưng rõ ràng tôi thấy bọn chúng âm mưu thông qua những bài giảng này để gài chúng tôi vào một cái “thế “ nhằm “vô hiệu hóa” chúng tôi, để nếu có được trả về miền Nam chăng nữa chúng tôi cũng khó mà tránh khỏi nanh vuốt của chúng.

Thông lệ cứ qua một bài giảng, chúng lại buộc tổ chức mạn đàm. Sau đó là viết bản “thu hoạch”. Một bài học tập mất khoảng ba ngày.

Âm mưu của chúng lộ rõ nhất là khi học đến bài “ Tội Ác Của Ðế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”.

Buổi tối ngồi uống trà trong phòng, tôi nói với anh em đừng nên viết bản thu hoạch này. Vì theo ý kiến của tôi, đây sẽ là một thứ “sinh tử phù “ vô cùng tai hại cho chúng ta khi trở về miền Nam.

Hôm kết thúc bài giảng, bọn chúng cho mạn đàm từng tiểu tổ, có cán bộ của đoàn Trung Ương về tham dự chứng kiến.

Thật là buồn cười khi những buổi mạn đàm tố cáo “Tội Ác Của Ðế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”, trở thành những buổi lên án “Tội Ác của Liên Xô - Trung Cộng và Ngụy Quyền Bắc Việt”.

Mấy năm tù tội dưới chế độ giam giữ dã man của cộng sản khiến chúng tôi căm hận. Dưng không có dịp, không ai bảo ai; tất cả mọi người đều trút cả căm hận lên đầu bọn cán bộ tham gia mạn đàm. Nhiều lúc thấy bọn này ngồi thộn mặt ra để nghe anh em chửi rủa, tôi cũng thấy phục tài chịu đựng và nhẫn nhục của chúng.

Trước tình hình đó, chúng bắt đầu có biện pháp tách từng người đi gặp riêng để thực hiện kế ly gián, mua chuộc và gây áp lực. Còn chúng tôi thì tổ chức yêu sách, đòi hưởng quy chế tù binh, đòi trao trả và chống đối học tập.

Sau những chống phá này, một số anh em -trong đó có tôi- được đưa về trại Bình Ðà, Khúc Thủy, Hà Tây ít hôm - thêm vài người ở nơi khác về nhập đoàn - rồi lại chuyển vào trại Ba Sao, Kim Bảng, Nam Hà. Lần này, theo sát chúng tôi có đoàn cán bộ phụ trách học tập và trao đổi, trao trả do cục phó Phản Gián đứng đầu.

Ðến trại, chúng tôi được trại trưởng - thượng tá Xuyên - tiếp nhận đưa vào khu giam người Mỹ hiện bỏ trống vì nhóm này vừa được đưa đi trao trả mấy hôm trước.

Ở được vài hôm, đúng buổi trưa ngày 30 tháng chạp Âm Lịch, bọn Cộng Sản đưa tôi đi giam “cách ly” để ép tôi phải làm cái thủ tục gọi là “Ðơn Xin Khoan Hồng” (chuyện này cụ Nguyễn Văn Ðãi, Ðại Biểu Hành Chánh Vùng I chiến thuật - bị bắt tại Huế năm Mậu Thân và bị đưa ra Bắc cùng với Phó tỉnh trưởng Thừa Thiên Bảo Lộc - đã viết trong hồi ký Ánh Sáng và Bóng Tối dưới bút hiệu Hoàng Liên, cụ cho tôi cái ngụy danh Văn vì sợ nếu viết tên thật, tôi còn ở lại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng).

Và cũng là một cơ duyên, cùng chiều hôm đó, nữ sĩ Thuỵ An - một người đứng đầu của vụ Nhân Văn Giai Phẩm- chuyển từ một trại khác về ở ngay phòng còn lại. (đón xem trong tự truyện Hận Cùng Trời Ðất)

Thời gian này bọn cộng sản dùng đủ mọi thủ đoạn mua chuộc lẫn áp đảo tinh thần tôi. Chúng chiêu dụ mãi không xong, rồi trắng trợn nói thẳng rằng chúng sẽ không bao giờ cho tôi trở về Miền Nam nếu tôi không chịu viết những bản “thu hoạch” như mọi người khác đã làm. Dù biết rằng phận mình chẳng khác gì “cá nằm trên thớt, cua nằm trong rọ”, tôi vẫn cương quyết trả lời: “Không bao giờ, vì tôi không phải là công dân của nước VNDCCH mà là một tù binh nên không thể chấp nhận làm những điều vô lý”.

Tất nhiên suy tư của mỗi người mỗi khác nhưng tính cách con người tôi thì vẫn tâm niệm “anh hùng tử, khí hùng nào tử” nên vẫn vững tin là sẽ trở về trong vinh quang vì số anh em được trả về nhờ “giả dại qua ải” chắc chắn không bao giờ im lặng. Ăn thua do mình có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách hay không.

Sau hơn bốn tháng nằm trong khu biệt giam. Ngày 19 - 5 - 1973. Một mình, một xe, tôi bị đày lên trại Cổng Trời, Quyết Tiến, Hà Giang, vốn là nơi thi hành bản án tử hình cho những người chống đối.

Cảnh ngộ thật bi phẫn - mọi người đều về xuôi để chuẩn bị trao đổi, trao trả một mình tôi lthẳng lên mạn ngược. Trên đường đi tức cảnh, sinh tình. Khi lên đến trại Cổng Trời, Quyết Tiến cũng là lúc hoàn thành bài thơ Trên Ðỉnh Lưu Ðày.



 Trên Ðỉnh Lưu Ðày 


 sương chiều phủ trắng Phạ Quan

 xe men dốc núi

 người tan tác lòng

 Hà Giang, Quản Bạ nghìn trùng

 đèo cao, sương muối

 anh hùng thi gan.

 xe qua trăm dặm - đại ngàn

 mơ ngày đất nước vinh quang

 Ta về...

 sầu giăng xám cả sơn khê

 xe lên!lên mãi!

 hồn tê tái sầu.

 Ta về đâu?

 sẽ về đâu?

 Mây giăng bốn cõi

 vực sâu!

 đỉnh trời!

 hỏi lòng

 rồi bỗng cả cười

 hùng tâm tráng trí

 đạp đời mà đi.

 xe lên tận cõi man di

 Cổng Trời - Ðịa ngục

 có đi không về

 xe qua nghìn khúc tiểu khê

 vách! vách! núi dựng

 đường xe lượn vòng

 xe dừng

 tuyệt đỉnh

 mờ trông

 Phương Nam độc đạo

 rừng phong tầng, tầng

 Ta vào huyệt mộ

 cô thân

 bao giờ?

 đá nẩy chồi xuân

 Ta về...



Kim Âu 
19- 5 - 1973 



Sau khi tôi bị cùm tại Cổng Trời đã hơn bốn tháng, những nhóm Gián Ðiệp Biệt Kích ở các nơi khác lục tục kéo lên, rồi một số thuộc thành phần chống đối quyết liệt bị đưa vào nằm chật khu hành hình có hỗn danh “Cung Ðiện Mùa Ðông” ở xà lim trại Cổng Trời. 
Ðể trả đũa những người có hành động chống đối, bọn cộng sản quyết cùm chúng tôi cho tới chết..... Mãi tới năm 1975 chúng cưỡng chiếm Miền Nam xong và tổ chức ăn mừng thống nhất chúng mới thả cho chúng tôi trở về các đội lao động với thể xác tiều tụy và tâm hồn tan nát - Việt Nam Cộng Hòa đã không còn. 
Tính ra tôi đã nằm một lèo hết hai mươi bẩy tháng trời trong cái lò sát sinh mà trước đây không ai chịu nổi quá vài tháng. 
Những người tù chính trị địa phương và đám tù hình sự sau này thường gọi tôi là “Chủ Nhân Cung Ðiện Mùa Ðông hoặc Chủ Nhân Ðiện Kremlin.” 
BN 587 gọi tôi là “Lion d'Or”. Tên Tin cán bộ trực trại nghe lỏm được không hiểu nhưng gã trật tự tên Tưởng biết tiếng Pháp nói cho hắn biết chữ đó có nghĩa là “Sư Tử Vàng”. 
Thế là cả đám công an đều biết tôi qua những biệt hiệu này....

***

Bao nhiêu gian khổ, nhục hình đã qua từ ngày đó. Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam chẳng có chút hiệu lực nào đến với anh em Gián Ðiệp Biệt Kích chúng tôi. 
Và tất cả những nhận biết của chúng tôi về bản Hiệp Ðịnh này đều thông qua những trích đoạn trong một số bài đăng trên báo Nhân Dân và Quân Ðội Nhân Dân của bọn Cộng Sản nhằm vu khống và bêu riếu chế độ Việt Nam Cộng Hòa.... 
Sau này, khi ra khỏi trại giam rồi qua đến Hoa Kỳ. Nghiên cứu kỹ lưỡng nhiều tài liệu được giải mật và những văn tự của Hiệp Ðịnh cùng với những biến động thực tế của lịch sử. Tôi nhận thấy quả tình Hiệp Ðịnh này là một vết nhơ không thể bôi xóa và cũng là một cái nhục cho các quốc gia đã ký vào bản Ðịnh Ước.

Trong bốn bên ký kết bản Hiệp Ðịnh ngày 27 - 1 - 1973 ngày hôm nay chỉ còn hai.

Hiệp định Paris về Việt Nam!

Ðó là kết thúc đáng buồn cho những lời cam kết, hứa hẹn của Hoa Kỳ sau khi đã tìm đủ mọi cách, kể cả sát hại Tổng Thống Ngô Ðình Diệm để nhằm mục đích đưa quân vào chiến đấu tại Việt Nam. 

Tiến sĩ Henry Kissinger, như người ta thường ca tụng là một nhà ngoại giao lỗi lạc nhưng thật ra theo tôi, hắn chỉ là một thứ thuyết khách mạt hạng nhất tự cổ chí kim.

Ngoại giao mà đi thương thuyết để rồi xóa bỏ hết thành quả xương máu của hơn 58.000 quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh để bảo vệ thành trì của thế giới tự do. Ðó là chưa kể đến tính mạng của những quân nhân các nước Ðồng Minh khác và hàng triệu quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.

Ðấu trí mà không hiểu rõ đối phương đến nỗi hậu quả là cho tới ngày hôm nay còn chưa biết rõ tông tích bao nhiêu người Mỹ bị giữ làm con tin không trao trả.

Thương thuyết để bức tử cả một quốc gia đồng minh thừa quyết tâm chống Cộng như Việt Nam Cộng Hòa để chiều theo ý đối phương như vậy nếu nói là tài năng xuất sắc thì ắt hẳn cần phải xem xét lại....

Henry Kissinger cùng “ê kíp “cầm quyền tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và bọn phản chiến thuở ấy đã vay một món nợ “Máu và Danh Dự” không biết bao giờ mới trả lại được cho dân tộc Việt Nam chứ đừng nói rằng chúng ta phải thọ ơn họ.

Gần ba thập kỷ đổ xương máu để chặn đứng làn sóng Ðỏ tại Ðông Nam Á là chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Chính sự sụp đổ của chúng ta đã trở thành bài học giúp cho các quốc gia trên thế giới thấy rõ giá trị của Ý Thức Hệ Tự Do để kịp thời củng cố, tồn tại và chiến thắng cộng sản.

Chính dân tộc Việt Nam đã chịu nạn cho Thế Giới và cứu rỗi cho Nhân Loại...

Mặc dù cơn sóng dữ đã làm vỡ đập nhưng sức của cơn lũ đã yếu không còn bao nhiêu tác hại.

Sau Nixon, tổng thống Reagan có tạo nên nhiều biến đổi về chiến lược dẫn tới sự sụp đổ của khối Cộng nhưng cho đến nay dân tộc Việt Nam vẫn còn chìm đắm trong kiếp sống mông muội dưới sự cai trị hà khắc của Cộng Sản.

Hầu như Việt Nam ngày nay đã trở thành một quá khứ, một món nợ không ai còn muốn nhắc tới..... nhưng Cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử.... Món nợ lịch sử vẫn còn đó.

Thất bại ở Việt Nam là thất bại của Chủ Nghĩa Thực Dụng Phản Trắc của Hoa Kỳ mà dân tộc Việt Nam chính là nạn nhân.

Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam là một kết thúc Không Có Hòa Bình và cũng Chẳng Có Danh Dự như ai đã từng cao rao.

Thế mà vẫn có kẻ kêu đòi chúng ta phải “ Tây Phương Hóa”.

Tây phương ư ! Xin nhìn kỹ lại! Chẳng có chính nhân và cũng không có quân tử.

Chỉ có nền văn hóa của DÂN TỘC chúng ta mới thực sự tạo ra những “kẻ sĩ “ biết trọng tín nghĩa, cương thường. 


Kim Âu Hà văn Sơn.  
(lược trích tiểu đoạn của Hận Cùng Trời Ðất)

__._,_.___

Posted by: Gia Cat

No comments:

Post a Comment

Những Sự Thật Cần Phải Biết