Lời
phi lộ :
Trước khi đọc bài viết dưới đây
, mời các ACE nghe và coi các hình trong Youtube này :
|
Thân kính
TQĐ
Tưởng Năng Tiến -
20/06/2020
Cho tôi thắp một nén nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Lê Phú Khải
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Lê Phú Khải
Bạn tôi, tất cả, phần lớn đều là
lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một
quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều … cố tật!. Hễ gặp nhau là
uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ
niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết,
những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ
xứ người.
Thỉnh thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi
cũng hay mang những vị thượng cấp cũ ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông
huynh trưởng thường bị nhắc tới để cười chơi là Trần Hoài Thư, và
Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn nhất định chưa chịu giải ngũ, dù
cuộc chiến đã tàn tự lâu rồi!
Trung Úy Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên
đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín. Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn cứ
la hét um xùm qua máy truyền tin (giữa Mùa Hè Đỏ Lửa) như thể là
cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài đến bây giờ, dù hơn 40 năm
đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông – cùng nước suối, nước mưa,
nước mắt… – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.
Sau khi cạn mấy ly đầy, rồi đầy mấy
ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn bài Bolero”) tôi hay xin “trân
trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến hữu các cấp” rằng :
· Ai viết
cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì
khỏi!
· Sao vậy
cà?
· Bởi vì
thơ với văn của hai ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt
luôn trong đầu, gỡ không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm…
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm…
Ta lính miền Nam hề, vận
nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Trần Hoài Thư (“Ta Lính Miền Nam”)
Không chỉ bi tráng, bi hùng,
hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam còn phải đối diện với
lắm nỗi bi thương:
“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những
chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám… Một người đàn bà áo trắng quần
đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng
ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng,
như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi cùng tên
hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà…
– Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh
nhau sao?
Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn
sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh
và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy…
Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở
gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.
– Của chị đây hả? – Vẫn im lặng. Nỗi im lặng
ngột ngạt, lạ lùng.
– Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá
hóa điên…
Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ
khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.
– Chị kia quay lại đây tôi trả cái này…
Tôi nói vọng theo.
Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước
chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ
hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi… Chị ta còn trẻ lắm, khỏang
trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống
trán làm nét mặt thêm thanh tú.
Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa
tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống
đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy
dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:
– Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp.
Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo… Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ… Im
lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước
mắt ràn rụa… Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực…
Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm
bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để
phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi… Người đàn
bà đã hiểu lầm tôi…
Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một
người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và
đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt
tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.
Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng
quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu
cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này…” (Phan Nhật Nam. Dấu Binh Lửa.
Sài Gòn: Hiện Đại, 1969).
Ở thời điểm này, có lẽ, Phan Nhật
Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn đau tủi hổ” của dân chúng
với những người lính miền Nam chả phải là “ngẫu nhiên” đâu. Nó đã
được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên truyền rất công phu – theo
như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:
“Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta
tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó
đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất
ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người…”
Và đây cũng chả phải chỉ là chuyện
“ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng cuộc “bộ máy tuyên truyền”
vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những người lính miền Nam, như thể
họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc và nguy hiểm.
Rảnh, thử xem qua vài đoạn trong một
truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bà
viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử nghiệp
dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền Nam:
“Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên
thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ
nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn…
Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo
diễn không chê vào đâu được. Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh
như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh
khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái
răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút.
Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc
toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm
Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng
mình đang mang thai.
Tới chừng biết đứa bé kia không phải con
mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng
đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết
bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt.
Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật
méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Điên dại tới
lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm…
Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp
te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc
cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi
nhau: “ổng đi chưa?”, cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị
chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng
tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác.
Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú … Chú
Sa thấy đây đúng là một tai nạn …”
Cái “tai nạn” riêng của Chú sa chỉ
xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và sẽ không kéo dài
lâu. Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật – cùng vợ
con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự “ngại ngần ác cảm”
của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị (và miệt thị)
không biết đến bao giờ!
Mãi cho đến ngày 2 tháng 5 năm 2014,
người ta mới nghe một viên chức ngoại giao của phe thắng cuộc, Thứ
Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, nói đôi lời tử tế:
“Ngày xưa ta không thể nói là không có
chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là chính phủ cũng được quốc tế thừa
nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ
để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của họ.”
Và đó cũng chỉ là sự tử tế ngoài
miệng! Ngày 12 tháng 4 năm 2015, công an quận Hoàn Kiếm đã
bắt giữ và buộc tội (“gây rối trật tự công cộng”) một số thanh niên
đã mặc quân phục hay áo thun màu đen có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà, trong cuộc tuần hành vì cây xanh ở Hà Nội. Sau đó, công an quận
Hoàn Kiếm đã kết hợp với công an Nghệ An khám xét nhà của anh Nguyễn Viết Dũng
(tức Dũng Phi Hổ) tịch thu quân phục lính VNCH của anh Dũng.
Việc gì mà phải hốt hoảng đến nỗi
“khám nhà,” “tịch thu” và “vu vạ” tội trạng cho vài thanh niên chỉ vì
y phục mà họ mặc trên người như thế? Chả lẽ cái chế độ hiện hành
có thể bị rung chuyển chỉ bởi vài cái áo (“thun màu đen, có biểu tượng
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà”) sao?
Hơn nửa thế kỷ tuyên truyền lừa gạt,
bôi bẩn, miệt thị những kẻ thua cuộc (bộ) chưa đủ nguôi ngoai thù hận
hay sao? Nắm trọn quyền bính của cả một nhà nước trong tay mà
sao có thể hành sử một cách đê tiện, và tiểu tâm đế́n thế?
Dù thế, thời gian đã không đứng về
phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân dung của những người lính
miền Nam:
Cho tôi thắp một nén nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Năm tháng đi qua
Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra
Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy
Trừ những thằng bán nước – đi đêm
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Năm tháng đi qua
Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra
Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy
Trừ những thằng bán nước – đi đêm
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết