From: viet
ngo [mailto:]
Sent: Saturday, 25 May 2013 7:53 PM
Subject: CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM.trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
Sent: Saturday, 25 May 2013 7:53 PM
Subject: CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM.trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam (Hình chụp tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
CÔ DÂU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN .
CÔ
GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM
Cô Giáo Tỵ Nạn mà tôi và các bạn đề cập tới ngày hôm nay, không phải là cô giáo ở Việt Nam đi vượt biên, sống tạm thời tại các trại tỵ nạn, mà là cô giáo người Úc, từ Úc tới các trại tỵ nạn để dậy tiếng Anh cho những người dân Tỵ Nạn đang sống ở đó.
Cô giáo người Úc
này tên là Jennifer Joy Ramm.
Sau ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt
chúng ta đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực,
tù đầy và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và
lòng từ thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á
Châu Thái Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia
khác.
Trong thời gian
tạm trú này, đã có rất nhiều thiện nguyện viên nam cũng như nữ, già cũng như trẻ,
ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng ta tìm thân
nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là cô Jennifer
Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên ngắn gọn và
đầy tình thân:
"Chị
Jenny".
Jenny là con cả
trong một gia đình gốc Anh, sinh sống ở vùng Burra Burri thuộc Tiểu bang
Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về Cooroy để cô có thể tiếp tục
học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học, Jenny được học bổng của chính
phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học Queensland.
Sau khi tốt nghiệp
văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm để lấy
chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại học La Trobe.
Là thành viên của
nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại quốc “Australian VolunteersAbroad
– AVA”, vào năm 1976, cô Jenny được cử đi dậy Anh ngữ tại một trường trung học ở
Mukah, thuộc Malaysia. Với giọng nói nhẹ nhàng, vui tươi và thái độ cởi mở, Cô
giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến
nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học
cho các em học sinh tại đây.
Năm 1979, cô lại
được cử đến trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy
tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang sống ở trại tị nạn này. Để có thể dậy tiếng
Anh một cách hữu hiệu, cô đã theo cách thức của các nhà truyền giáo là học tiếng
bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn tháng trời để chuyên tâm học tiếng Thái Hmong
cho thật trôi chẩy, rồi sau đó mới dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh
cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô đã xây dựng lên một trung tâm giảng dậy với
nhiều lớp học, thuê giáo viên địa phương và mua cả một chiếc xe chở hàng nữa.
Với những kinh
nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm 1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên
Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh cho các Thuyền Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn
Galang, thuộc Indonesia.
Tại Galang, công
vỉệc của Cô Giáo Jenny không chỉ đơn giản là dậy tiếng Anh cho người Việt Nam,
cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống mới ở các nước Tây Phương, mà ở
đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả
những khác biệt về phong tục tập quán, cách thức ăn uống và những sinh hoạt
hàng ngày nữa. Các học viên của cô, gồm đủ mọi trình độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ
mọi ý thích. Từ đó, cô Jenny mới chia lớp học ra thành nhiều nhóm khác nhau:
Nhóm nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị chê là sai, nên học nhớ chữ
mau hơn và nói đúng giọng hơn. Nhóm lớn tuổi, trí nhớ kém đi và hay bị mặc cảm
nên khó nhớ mặt chữ và giọng đọc cứng hơn. Một nhóm đặc biệt mà chỉ có ở trại tỵ
nạn Việt Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt đi tù "Cải
Tạo" rồi trốn về hoặc được thả về. Nhóm người này đa số biết nói một chút
ít tiếng Anh, một số nói rất khá.Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói thật nhiều
để cô sửa giọng cho họ.Đối với nhóm cựu quân nhân này và những nhóm lớn tuổi,
cách giảng tiếng Anh của cô là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc
và dậy cho họ những câu đối thoại cần thiết.
Theo kinh nghiệm
dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học, Jenny thường hay tới thăm viếng những
láng trại của người Việt tỵ nạn để nói chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống
của họ và nhất là . . . học tiếng Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người
Việt. Từ những buổi tiếp xúc này mà cô giáo Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và
biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc
áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau
khi biết chíêc áo này được coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến
khích các cô gái Việt trên đảo giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . .
tổ chức một cuộc thi áo dài ngay trên đảo tỵ nạn.
Cô Giáo Tỵ
Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi 1983 tại trại tỵ nạn Galang.
Trong một buổi
giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu trai luôn luôn lảng vảng phía
ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học của cô.Nghĩ rằng anh này có
thể . . . còn ngại ngùng gì đó, nên cô giáo đã đích thân ra mời anh vô lớp để học
cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi khác.Một lúc sau, anh ta lại quay
trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học chứ không vô trong lớp.Lâu dần, cô
không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn hơn để người đứng ở ngoài có thể
nghe rõ hơn mà thôi.
Đến năm 1983, cô
giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy tiếng Anh tại Trung Tâm Anh Ngữ
Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant English Service-
AMES), tại đây,
Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt Nam bằng cách khuyến khích họ làm
những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về
chính ngành nghề họ có thể làm, muốn làm và đang làm. Cô giáo Jenny thành công ở
chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng Việt, để nghe người Việt nói ra những
điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng
Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến bộ hơn. Jenny lại có sáng kiến tổ chức những
buổi barbecue tại nhà của mình, mới các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt
Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ người
Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi khả năng Anh ngữ của mình. Nhiều cô giáo đã
rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu niên đi tỵ nạn một mình, vì các
em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . . Riêng đối với Jenny, cô không thấy
có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự
với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô nhờ nhân viên xã hội giải quyết những
điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy học cho các em nhỏ này. Việc quan trọng
nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên đi học trở lại để có kiến thức và có một
tương lai tốt đẹp hơn.
Cũng vì tình
thân với người Việt, đã có nhiều người mời Jenny dự đám cưới của họ, và cô rất
vui khi được mặc áo dài để bưng mâm ngũ quả đi rước dâu.
Gia Đình
hạnh phúc.
Trong một buổi
barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại
người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn.
Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon coca xoay qua xoay lại chứ không
bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh này chắc . . . không biết tiếng
Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với anh ta.Anh vui vẻ nói chuyện, tự
giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho Australia Post, tại Blackburn
Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết anh . . . biết nói tiếng Anh,
và lại nói khá nữa:
“Ah! Vì anh biết
nói tiếng Anh rồi, nên mới không tham dự lớp học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải
vậy không?”
Lại trái với dự
đoán của Jenny khi anh con trai trả lời:
“Không phải vậy.Hồi
đó, quả thực tôi dở tiếng Anh lắm.Vì tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết
lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên
đâu có được tiếp tục học nữa, tôi phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia
đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có
biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi cũng muốn vô học, nhưng thấy mình lớn rồi,
vô học không biết một câu tiếng Anh tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con
nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng
Anh của người Úc . . . khó nghe quá, tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm . . .
chẳng hiểu cô nói gì hết, thì làm sao mà học?”
Cô giáo Jenny
lúc nào cũng có thói quen nghề nghiệp, cô khuyến khích Sơn:
-“Anh nói tiếng
Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post thì đời sống cũng khá lắm rồi . . .
nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại, vô đại học học nghành nào mà anh
thích, biết đâu lại có tương lai sáng sủa hơn!”
-“Tôi cũng muốn
lắm, nhưng tôi . . . mới học xong lớp 11 chứ chưa tốt nghiệp trung học, làm sao
tôi có thể vô đại học được?Hơn nữa, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi,
chứ chưa đủ để học đại học đâu.”
-“Anh đừng lo,
tôi có thể giúp anh về phần tiếng Anh, anh sẽ dư sức học. Ở Úc có những trường
cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And Further Education) dành cho những
người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của
trường Footscray Institute of Technology (FIT- sau này nhập chung với trường Đại
học Victoria University) để chú giải thích cho anh nhiều hơn.”
Khi về nhà, anh
Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe.Anh
Giàu cũng khuyên anh Sơn nên đi học để có tương lai khá hơn.
Thế là anh Sơn
đi gặp Giáo sư Douglas Ramm để vấn kế. Ông Douglas làm đúng luật, đã đưa đơn
cho anh điền để học thử ba môn học về Civil Engineering xem kết quả ra sao cái
đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học này, ông Douglas liền hướng dẫn anh
một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor of Civil Engineering.
Thực sự thì Sơn
chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc của anh vẫn còn hướng về Việt Nam:
Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng
Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc
phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là ráng tìm cách gia nhập bất cứ tổ chức
kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ
Việt Nam Cộng Hòa thân yêu tràn đầy tự do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp
nhận cho học, Sơn phân vân không biết nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc
này ra bàn với Jenny.Tiếc thay, cô giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau dồi Anh
ngữ thôi, chứ không có khả năng giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định
không nộp đơn xin học, mà chờ tin để trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong
nhóm.
Buồn thay, tổ chức
phục quốc càng ngày càng im tiếng và không có ai liên lạc với anh để nói tới
ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống.
Muốn tỏ tình với
một cô gái đã là chuyện khó rồi, huống chi cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng
Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp và . . . khó khăn hơn.
Một lần đến nhà
Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát tặng Jenny bản nhạc “Nắng Chiều”:
“. . .
Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn
nhìn em anh nói: "Mến em!"
Mây lướt
thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu
hiền nắng chiều ngừng trôi . . .”
(Nhạc Lê
Trọng Nguyễn)
Hát xong bản nhạc,
Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:
“Jenny à . . . nếu
tôi muốn nói . . . anh yêu em . . . bằng tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để
nói?”
Jenny thích bản
nhạc Nắng Chiêu quá, đang lo hát theo, nên không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ
trả lời:
“Thì nói . . . I
love you . . . dễ mà.”
Thế là Sơn vừa
khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời:
“I love you . .
. I love you . . . and I love you . . .”
Sơn hát đến lần
thứ ba thì Jenny mới hiểu, cô đỏ mặt hỏi lại Sơn bằng . . . tiếng Anh:
“Are you
serious?”
Sơn lại trả lời
bằng . . . tiếng Việt:
“Anh nói thiệt
mà!”.
Sơn tốt nghiệp
thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm 1990.Một tháng sau khi cha mẹ Sơn
qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới. Jenny rành đủ sáu câu về đám
cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo cưới cô dâu, vương miện, bông
tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ . . . thậm chí cả phong bao
lì xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà gái khi rước dâu cũng phải có đầy đủ.
Ba Mẹ của chàng
rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là
chim hót, chẳng biết người ta nói cái gì, nhưng cũng biết đó là những lời chúc
tụng cho cô dâu chú rể.Khi mẹ chồng được mời ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu
điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng
nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy
người nhà bưng các khay đựng đủ thứ bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì
đùng khói bay khét lẹt . . . thật là vui . . . vui quá xá là vui.
Vì tốt nghiệp ưu
hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học Master, nhưng việc đầu tiên của
người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình và phụng
dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi làm với công ty xây cất John
Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.
Đứa con gái đầu
lòng tên Lanna của hai vợ chồng ra đời vào tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau
là Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu tiên trong đời.
Cô gọi điện thoại
về Úc chúc mừng mẹ:
“Chúc mẹ một
ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày “Mother Day” vui vẻ cho chính
con nữa . . . vì con cũng đã là mẹ của bé Lana rồi.”
Đến năm 1995, em
trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt
đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt chín tháng trời để tìm cách đặt tên
cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ
là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có nghĩa là Lan và Liam cũng có thể đọc là
Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy
khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)
Khi các con đã lớn,
và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc.
Lana thi đậu vào trườngMac Roberson và tốt nghiệp VCA với số điểm ưu hạng 99.30
nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha, Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học
Art ở Melbourne University, thời giờ rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện.
Còn Liam thì học IT ở RMIT University với ước mơ trở thành . . . tài tử đóng
phim, trong khi Jenny thì đi dậy trở lại ở VUT – Victoria University of
Technology.
Lana và Liam được
mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và
được định cư ở Úc, nên lâu lâu, hai chị em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt
Nam, nói với chị:
"Tôi là . .
. Vietnamese Boat people . . . tôi không biết nói tiếng Anh . . ."
Lana đóng vai cô
giáo, nghiêm trang trả lời:
"If you be
good . . . I will teach you how to speak English . . ."
Jenny và Sơn
nhìn nhau cười.
Vào khoảng tháng
Ba Năm 2011,trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết những trang trại trồng chuối ở
Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên tới con số kỷ lục là $14.00 một
Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.
Sáng sớm ngày
Mother' Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ,
khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ. Hai chị em cùng la lớn:
"Happy
Mother' Day my dear Mummy".
Jenny mở gói quà
ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng óng ánh.
Jenny sung sướng
cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:
"Chuối mắc
lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền."
Lana và Liam lại
đồng thanh nói:
"Chúng con
có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ."
Phần của Sơn là
một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.
Jenny bị cancer
ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau nhiều ca mổ, nhưng đến cuối năm 2011
thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết sẹo còn lại của những ca mổ trước
đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh viện St. Vincent lo chăm sóc cho
Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng
với vợ.
Những ngày cuối
của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở bên cạnh mẹ.
Lana và Liam nắm
tay mẹ mà nói:
"Mẹ sẽ khỏe
lại mà . . . Mother's Day năm tới chúng con sẽ lại mua chuối cho mẹ ăn nữa
nha."
Sơn so lại phím
đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc "Bên Kia Sông":
". .
. Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia
sông là ánh mặt trời
Này người
yêu, người yêu anh hỡi!
Bên kia đồi,
cỏ hoa đan lối
Bên kia
núi, núi cao chập chùng
Bên kia
suối, suối reo lạnh lùng
Là bài
thơ, toàn chữ hư vô . . ."
(Nhạc của
Nguyễn Đức Quang.)
Cô Giáo Tỵ Nạn
Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi đời 58 còn rất trẻ trung, để lại
chồng và hai đứa con.
Từ bốn phương trời,
những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang trước đây đã được cô giáo Jenny dậy học
tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho gia đình:
"Jenny . .
. chúc chị ra đi bình yên . . . Tên của chị, hình bóng của chị, tiếng Anh của
chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc chúng tôi . . .
Cô Giáo Tỵ
Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để
phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam (Hình
chụp tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
CÔ DÂU CỦA
NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN
KHẮP NƠI.
(Viết theo lời kể của anh Nguyễn Sơn và các
con.)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết