Reply-To: .com
Nhớ ngày xưa đất nước thanh bình , dân chúng ấm no hạnh phúc .
Đi đâu cũng nghe người ta hát :
Ai bao năm vì sông núi quên thân mình
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do ...
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do ...
...Ngô Tổng Thống muôn năm
....Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống ..Xin Thượng Đế ban phúc lành cho người
Bây giờ đói khổ , bị áp bức , bị cướp đất cướp nhà, vô tù ngôi cả đám.
VIẾT CHO NGÀY 01 THÁNG 11: MUÔN ĐỜI THÀNH KÍNH
TRI ÂN
Ngô Tổng
Thống Muôn Năm
|
Nguyễn Thu Trâm - Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư
vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác
mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng
11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã
thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công
giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền
cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường
tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để
lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11
kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu
hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu,
những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào
khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách
ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh
hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng
với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai
giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để
ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa,
bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách
di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào
vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công
đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ
nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo
nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện
Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính
phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản
Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải
bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa
của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước
khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi
Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya
tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa
Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai
bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là
giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”,
cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân
tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng
sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư
Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
|
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng
tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép
người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện
cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ
chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100
ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve
được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận
Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự
chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có
liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do
Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của
Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận
việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố
riêng:
“... Chính
phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long
trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng
nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận
rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc
lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của
đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần
văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được
Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng
tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra
phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy lên tiếng phản
đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt
Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm
1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân
chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một
Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết,
tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam
từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra
lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu
tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung,
Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả
nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập
trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm
dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và
của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải
nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản
Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí
Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia
Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là
Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử
thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc
Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng
tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà
bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều
kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận
định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng
cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn
phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên
phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia
Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ
bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa
chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù,
không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ
phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non
trẻ.
Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình
chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố
trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả
những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước,
những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về
những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi
ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn
nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao
có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam,
dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí.
Cũng như vào những
năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn
bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải
ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do
này. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam
trong suốt 300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn
người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của
chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn.
Những truyền đơn, bích chương của
Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân
chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của
dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách
của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức
là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ
của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng
vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc
chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa
chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do
vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn
nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào
thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố,
là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà
phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy
giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ
và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư".
Cộng sản Bắc Việt từng lu loa
rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng
Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo”
Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi.
Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng
sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp
Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về
vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về
miền tự do đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì
đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó, có những bằng chứng cho
thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát
Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di
tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa
chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của
chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng
bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị
"cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả.
Thế mới thấy rỏ được sự
lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu thống kê
Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của
chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có
những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh.
Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo
từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng
để xuống tàu vào Nam.
Ngày
9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm
lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện,
một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm
vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh
Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh
viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày
04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong
Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc
được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy
giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt;
tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000
đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với
người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết
tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền
Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt
Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô
Nam". Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe
thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ
Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên
quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của
những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm
hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm
mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của
quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những
người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.
Những tướng
tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963
|
Biến cố 30 tháng Tư
năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho
cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản
quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước.
Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn
thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại
báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm
lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô
Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10
năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại
bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị
rơi vào tay cộng sản.”.
Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm
tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của
chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa
trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng
sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của
quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả
bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân
của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian
nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải
trả giá.
Nhiều người cho rằng chính những kẻ
phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn
Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu,
Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và
Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp
dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người
sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì
nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh
và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường
di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật
vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình
đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc
Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ
những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc
chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu vong,
khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao
giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi
viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời
cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền
Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm
1954.
Như một nén hương lòng
xin thành kính dâng lên Cụ
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết