Chiến Tranh Việt Nam
(1945-1975) P2
Văn Nguyên Dưỡng
III. Cuộc Chiến Uỷ Nhiệm Có Từ Bao Giờ
Ở Việt Nam?
Đoạn dẫn sử trên đây cho thấy, cho đến
ngày 9/3/1945, Nhật đã triệt tiêu chính quyền Pháp ở Đông Dương và vì
sao chính quyền này bị Đồng Minh Anh–Hoa Kỳ cô lập. Các thế lực Cộng
Sản Quốc tế, Cộng Sản Trung Hoa, Lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa,
Lực lượng Hoàng gia Anh và Quân lực Hoa Kỳ chưa từng bước vào Việt
Nam. Nhưng không lâu sau đó, tất cả đều đã trực tiếp hay gián tiếp
vào và tạo nên một cuộc chiến mới không kém khốc liệt gây nên những
hậu quả tang thương kéo dài trong nhiều thập niên sau đó. Riêng dân tộc
Việt Nam thì cuộc chiến đó tạo ra vết thương trầm trọng trong lòng
mọi người của nhiều thế hệ. Một vết thương không thể lành mà vẫn âm
ỉ loang máu.
Cũng nhắc lại hôm sau ngày Nhật đảo chánh
9/3/45 Đại sứ Nhật vào triểu đình Huế diện kiến nhà Vua Bảo Đại.
Ngày 11/3/1945, Nhà Vua triệu cuộc họp khẩn với Cơ Mật Viện. Triều
đình Huế ra tuyên ngôn huỷ bỏ Hiệp ước Patenote 1884, và khôi phục chủ
quyền Việt Nam. Học giả Trần Trọng Kim được mời lập nội các. Ngày
17/4/1945, nội các thành lập gồm những nhà trí thức yêu nước có
thực tài. Nhiều sử gia cho rằng đây là nội các trí thức đầu tiên của
một quốc gia thực hiện rõ nét những bước tiến dân chủ căn bản cho
Việt Nam.
Chính phủ Trần Trọng Kim quyết định những cải tổ quan
trọng như: lập qui cho một nền hành chính chính xác, mẫu mực và áp
dụng một nền giáo dục tiến bộ, khoa học, làm nền tảng cho tất cả
các chính phủ Miền Nam sau này trong Đệ I và Đệ II Cộng Hoà.
Đổi
quốc hiệu là “Đế Quốc Việt Nam” gọi gọn là Việt Nam; tuy vẫn giữ
bài “Đăng Đàn Cung” làm quốc ca, nhưng đổi quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ; sọc ở giữa khuyết một đoạn ngắn tạo cho ba sọc đó thành hình
“quẻ ly” --phương Nam-- trong Bát Quái theo Kinh Dịch (ngày 2/6/1948, ở
Hồng Kông, trước sự hiện diện của các nhân sĩ và trí thức mời Ông
về chấp chánh, Cựu hoàng Bảo Đại vẽ nối đoạn gẫy ở sọc đỏ giữa
thành ba sọc liền.
Chính phủ QGVN cũng nghe theo lời khuyên của Bác
sĩ Nguyễn Tôn Hoàn chọn bài “Thanh niên Hành khúc” của Lưu Hữu Phước
đổi tên thành “Quốc gia Hành khúc” làm quốc ca). Sau ngày 30/4/1975
người tị nạn cộng sản Việt Nam đưa quốc kỳ (bài quốc ca) theo khắp
nơi trên thế giới với tình yêu vô bờ. Tiếc thay Chính phủ Trần Trọng
Kim bị Nhật kềm chế, không có Bộ Quốc phòng, không lập quân đội, nên
đánh mất thời cơ hưng quốc và kiến quốc trong tay những người Cộng
sản. Nổ lực cứu đói cho miền Bắc mùa hè năm đó gặp trở ngại lớn
lao là thiếu phương tiện chuyên chở gạo từ miền Nam ra Bắc; vả lại
Nhật thu tóm hầu hết lúa gạo khắp các nơi, kể cả việc phá huỷ các
cánh đồng lúa ở miền Bắc, lấy đất trồng loại cây đay.
Chỉ bốn tháng sau, ngày 6/8 và ngày
9/8/1945, Không lực Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử trên Hiroshima và
Nagasaki. Ngày 10/8 Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Ở Việt Nam,
ngày 14/8 quân Nhật bất động, chờ quân Đồng Minh vào giải giới. Ngày
17/8 nhân một cuộc biểu tình của Tổng hội Công chức và Giáo giới ở
Nhà Hát lớn Hà Nội để ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, các phần
tử cộng sản (lúc đó gọi là Việt Minh) lợi dụng mang cờ đỏ sao vàng
và tung hô khẩu hiệu, biến cuộc biểu tình đó thành cuộc biểu tình
của Việt Minh. Chính quyền địa phương bất lực. Từ ngày 19/8 đến ngày
23/8/1945, Việt Minh cướp cơ sở hành chính của chính phủ, ở miền Bắc
lẫn miền Nam. Sử ghi là “Việt Minh cướp Chính quyền”. Ngày 23/8 Chính
phủ Trần Trọng Kim giải tán. Ngày 26/8 Hồ Chí Minh và đơn vị võ
trang tuyên truyền của Võ Nguyên Giáp từ Tân Trào, Tuyên Quang, về Hà
Nội. Ngày 28/8/1945, ở Huế, nhà Vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị với
câu nói thực cảm động:“Trẫm để hạnh phúc của toàn dân trên ngai vàng
của Trẫm. Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một
nước nô lệ.”
(14) Ngày 2/9/1945, ở vườn hoa Ba Đình, Hồ Chí Minh đọc
tuyên ngôn độc lập và trình diện “Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà”.Việt Minh nhanh chóng thành lập chính quyền ở khắp nơi, từ
tỉnh thành đến huyện xã, với các “uỷ ban hành chính” và đơn vị “du
kích”. Nhưng chưa đầy một tuần sau, nỗi lo sợ khủng khiếp bao trùm cả
nước. Tao loạn bắt đầu. Những cuộc bắt bớ và xử tử công khai hay âm
thầm các phần tử mà Việt Minh gọi là “Việt Gian” trở thành nỗi lo
sợ lớn lao của của mọi gia đình từ thành thị tới thôn quê, từ Bắc
chí Nam. Lúc bấy giờ người dân thường chỉ biết Việt Minh là cộng
sản.
Sự hiểu biết đơn giản này lại rất đúng. “Việt Minh” là tên gọi
tắt của một tổ chức chính trị vũ trang “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
Hội” còn gọi là “Mặt trận Việt Minh” do đảng “Cộng Sản Đông Dương”
thành lập ngày 19/5/1941. Đảng Cộng Sản Đông Dương lại do Hồ Chí Minh
thành lập năm 1930. Vì vậy Việt Minh là thứ vũ khí lợi hại của
CSVN, nói rõ hơn là của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng CSĐD.
Riêng ở Sài Gòn, Trần văn Giàu, một người cộng sản nổi tiếng, thành
lập “Ủy ban Hành chánh Nam Bộ”.
Ở thời điểm đó, Quyết nghị Potsdam của
Đồng Minh được thi hành. Ngày 18/8/1945, Quân đoàn Lư Hán của QDĐ/TH
vào miền Bắc Việt Nam. Ngày 13/9/1945, Sư đoàn Gurka của Anh do Tướng
Douglas Gracy chỉ huy vào miền Nam, có một đại đội nhảy dù Pháp vào
theo. Tướng Gracey đóng quân ở Sài Gòn, ra lệnh mở cửa các trại giam
thả tất cả người Pháp bị Nhật giam giữ và trang bị vũ khí cho họ.
Như vậy, ở Sài Gòn Pháp đã có một lực lượng võ trang nhỏ. Ở các
tỉnh, Việt Minh vẫn nắm chính quyền, tập du kích, tiếp tục bắt giữ
và xữ tội “Việt Gian” và tổ chức “tuần lễ vàng” thu vàng bạc của
thị dân để ủng hộ kháng chiến...
Trong giai đoạn này, từ tháng 8 đến tháng
̣9, năm 1945, Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ có những thay đổi sách lược quan
trọng về cục diện thế giới: sau khi khối trục Đức-Ý-Nhật đầu hàng
và tan rã... Liên Xô Nga để lộ rõ bộ mặt “Đế quốc Mới” bành trướng
lãnh thổ rộng lớn, xâm chiếm các nước Đông Âu, đồng thời chủ trương
xích hoá thế giới, do đó ở Âu Châu lẫn Á Châu, Anh và Hoa Kỳ cần sự
hợp tác thực sự của Pháp để cùng ngăn chặn làn sóng đỏ QTCS đang
lan tràn khắp nơi. Nên “Hiến Chương Đại Tây Dương” công bố ngày 14/8/1941
của Anh và Hoa Kỳ, trong đó điều khoản đầu tiên đề cập đến quyền tự
trị của mọi dân tộc, tạm thời bị bỏ quên. Ngày 24/8/1945 Tổng thống
Harry Truman thay đổi thái độ, đón tiếp de Gaulle ở Washington và hứa
trong mọi trường hợp không chống lại chính quyền và quân đội Pháp
trở lại Đông Dương.
(15) Lúc đó, Thủ tướng của Anh quốc là Clement
Attlee, đảng Lao Động (Labour Party), để cho Lực lượng Hoàng gia Anh ở
Viễn Đông tái lập chính quyền trên các thuộc địa cũ ở Viễn Đông. Hoa
Kỳ trở lại Phi Luật Tân. Vì Hội nghị Potsdam đang được thực thi nên Anh
và Hoa Kỳ ngầm giúp cho Pháp mang quân trở lại Việt Nam. Nếu Pháp
đánh được cộng sản ở Việt Nam, chiếm lại được Đông Dương sẽ trở
thành “lá chắn” cho Anh- Hoa Kỳ vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình
Dương. Quan niệm về “chiến tranh uỷ nhiệm” hình thành. “Đế quốc Mới
Cộng Sản Quốc Tế (the New International Communist Empire) và “Thế giới
Tư bản Tự do” (the Capitalist Free World) va chạm nhau về tư tưởng, về
thể chế chính trị, về quyền lợi kinh tế và lãnh thổ, nên các quốc
gia nhược tiểu sẽ là những vùng đất bị tranh chấp. Sách lược khôn
ngoan nhất của cả hai khối là gầy dựng thế lực bản điạ đánh nhau
thay họ.
Ngay như Pháp, từng là thế lực hùng cường trước đó nhưng sau
thế chiến đất nước bị tàn phá, nghèo, và yếu kém mà tham vọng
lớn, nên cũng bị đưa vào thế bất khả từ. De Gaulle, vì cần tiền để
tái thiết đất nước là nhất là để thực hiện lời tuyên bố của mình
nên đã trở lại Đông Dương trong vai trò của một thế lực thực dân cũ
vừa là một thế lực được uỷ nhiệm đánh thuê, hiểu ngầm là sách
lược mới của Đồng Minh Anh-Hoa Kỳ. Việt Nam chiếm vị trí chiến lược
quan trọng ở vùng Đông Nam Á đã trở thành tiền đồn của Thế giới Tự
do.
Ngay khi Nhật đầu hàng, de Gaulle đã bổ nhậm Đô đốc Georges Thierry
d’Argenlieu làm Cao uỷ Đông Dương và Đại tướng Jacques Phillipe Leclerc de
Hautecloque làm Tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Pháp (Corps Expéditionnaire
Francais d’Extrême-Orient -CEFEO) vào Việt Nam trước tiên. Quân đoàn này
được Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông, Đô đốc Sir
Mountbatten, trang bị và giúp phương tiện chuyên chở đã đổ bộ tái
chiếm Sài Gòn ngày 21/9/1945.
Thời điểm đó có những sự kiện đáng lưu
ý: Ở miền Bắc, khi Hồ Chí Minh và đơn vị võ trang của Võ Nguyên
Giáp về Hà Nội còn có đơn vị tình báo võ trang Hoa Kỳ, Toán “Deer
Team” hay “Team OSS-202” (OSS: Office of Strategic Services, tiền thân của
CIA --Central Intelligence Agency) do Thiếu tá Archimedes Patti chỉ huy,
cùng vào theo. Ở miền Nam, ngày 4/9/1945, một đơn vị tình báo võ
trang khác, Toán OSS-404 (OSS Team-404) nhảy dù vào vùng phụ cận Sài
Gòn giải thoát hơn 200 binh sĩ Hoa Kỳ bị Nhật bắt làm tù binh trước
đó. Một tuần sau, Thiếu tá Peter Dewey chỉ huy toán OSS này bị du
kích Việt Minh phục kích giết chết.
Tháng 12/1945, cả hai Toán OSS-202
ở Hà Nội và OSS-404 ở Sài Gòn đều rút khỏi Việt Nam. Từ đó, Hoa
Kỳ không tiếp xúc với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tất nhiên Archimedes
Patti chỉ huy Toán OSS-202 --và các sĩ quan khác trong toán-- từng
huấn luyện cho trung đội võ trang tuyền truyền đầu tiên của Võ Nguyên
Giáp ở Pác Bó và từng sống chung với Hồ Chí Minh ở đó, hiểu rõ
đơn vị Việt Minh này là cộng sản và Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng
sản.
Bảy thập niên sau, trong một bài viết nhìn
lại thời điểm đó, một tiến sỉ CSVN cho rằng đáng lẽ cuộc chiến
Việt Nam “không thể có” vì nhiều lần Hồ Chí Minh gởi thơ và công hàm
cho Tổng thống Truman tỏ thiện chí muốn “hợp tác toàn diện” với Hoa
Kỳ, nhưng không được đáp ứng... Luận điểm chính là nếu Hoa Kỳ công
nhận chính phủ Hồ Chí Minh, Pháp không thể trở lại Việt Nam, sẽ
không có chiến tranh. Nhận định này non nớt.
Ở thời điểm đó Đồng
Minh Hoa Kỳ-Anh đang thành lập các khối liên minh quân sự –như khối Bắc
Đại Tây Dương (NATO, North Atlantic Treaty Organization) để ngăn cản sự
bành trướng của CSQT ở Âu châu thì làm sao công nhận và yểm trợ một
nước cộng sản mới hình thành... dù bất cứ ở đâu. Vả lại, làm sao
mà Truman và Attlee kềm chế nổi tham vọng của de Gaulle? Chiến tranh
không thể tránh. Tốt hơn lợi dụng Pháp, cung cấp tài chính, quân bị
và chiến cụ để Pháp đánh CSQT ở Đông Dương... làm lá chắn cho mình
ở Đông Nam Á và Nam Thái Binh Dương là thượng sách.
IV. Lãnh Tụ Và Chế Độ
Đầu tháng ̣9/1945, Anh và Pháp ký hiệp
ước song phương, Anh công nhận chính quyền thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ và
một số tỉnh ở nam Trung Kỳ nên khi Quân đoàn Viễn chinh Pháp đổ vào
Sài Gòn, quân Anh rút đi trong tháng ̣đó.
Chỉ hai ngày sau khi QĐVC của Leclerc vào
Sài Gòn, Trần văn Giàu đổi tên “Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ” thành “Uỷ
ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ.” Bộ đội du kích của Nguyễn Bình,
phụ tá của Giàu, đụng một vài trận nhỏ với quân Pháp trong thành
phố Sài Gòn. Ngày 23/9/1945, Trần văn Giàu tuyến bố “tiêu thổ kháng
chiến” và rút vào An Phú Đông, gầy dựng thêm lực lượng ̣đánh du kích
chiến.
Các “Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến” ở các tỉnh, huyện theo gương.
Nhiều nơi du kích Việt Minh đốt chợ búa, phố phường và nhà cửa dân
chúng rồi rút vào vùng sâu hoang vắng --gọi là bưng biền. Sách lược
này, Giàu rút kinh nghiệm từ quân đội CS Nga ở Đệ II Thế Chiến chống
quân Đức. Ở trong Nam, thời kỳ đó có bài hát với câu mở đầu“Mùa Thu
này, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...” kích động
nhiều người yêu nước, nhất là thanh niên và học sinh, vào “bưng biền”
kháng chiến cứu quốc.
Chỉ ít lâu sau, đa số trốn chạy Việt Minh về
với gia đình. Chiến tranh đã diễn ra ở miền Nam trước. Dân thường lo
sợ bỏ thành thị, bỏ nhà cửa, tản cư... chạy giặc. Họ sợ Việt Minh
lẫn Pháp. Đêm đêm thấp thỏm sợ du kích Việt Minh bắt cóc, ám sát hay
cho “mò tôm --là thủ đoạn du kích giết người bằng cách trói tay chân
nạn nhân buộc đá thả cho chìm xuống đáy sông, ngộp nước... chết dần.
Ngày ngày thì trông chừng tin tức và tiếng... súng rồi chạy trốn.
Tản cư, tản cư... dài dài trước những cuộc bố ráp của quân Pháp
xuống các tỉnh, nhất là các tỉnh miền Tây, dân tản cư sợ nhất là
bị Thổ cáp-duồn. Thổ gặp dân ở đâu chém đó bằng mã-tấu, bất kể
già trẻ bé lớn. “Thổ” là lính của các đơn vị “partisans” người Miên
ở các tỉnh miền tây Nam Kỳ, do Pháp thành lập. Chúng dẫn đường cho
các đơn vị lính lê dương của Pháp – Légionnaires, đa số là lính Phi
Châu-- hành quân, tiếng bình dân gọi là “đi ruồng” hay “đi bố ráp” sâu
trong đồng quê, thôn xóm, làng mạc. Gia đình nào chạy không kịp thì
đàn ông bị bắn hay chém chết, đàn bà con gái bị hảm hiếp tập thể,
chết lên chết xuống; trẻ con bị... đập đầu, bẻ cổ giết chết. Khổ
sở trăm bề. Dân tản cư rất sợ hai chữ-kép, một của Việt Minh là
”Việt-gian”; một của Thổ, lính Pháp, là “cáp-duồn” hay chặt đầu.
Chữ nào cũng đem lại cái chết hãi hùng.
Quân đoàn Viễn chinh Pháp đánh chiếm các
tỉnh miền Nam và tiến chiếm cao nguyên miền Trung. Pháp cũng đã thu
phục được Cao Miên và Lào bằng thương lượng không tốn viên đạn nào.
Đầu năm 1946, trong Nam, Cao uỷ Đông Dương d’Argenlieu thay đổi sách lược,
kêu gọi dân chúng hồi cư, đồng thời ra nghị định cho Nam Kỳ thành lập
“Chính Phủ Nam Kỳ Tự Trị”--CP/NKTT (République Autonome de Cochinchine).
Từ khi ép buộc nhà Nguyễn ký Hoà ước Patenote năm 1884, thực dân Pháp
vẫn coi Nam Kỳ là xứ tự trị. Đầu năm 1946, sau khi đạo quân viễn chinh
trở lại Việt Nam, Pháp lập lại ý đồ cắt miền Nam trù phú ra khỏi
Việt Nam.
Trước hoàn cảnh ly loạn, chết chóc, phố thị tiêu điều, nhà
trống người không, ruộng đồng hoang phế, có những nhà trí thức Nam
Kỳ muốn đem lại sự bình yên cho xứ sở và quần chúng bằng giải pháp
ôn hoà nên chấp nhận tham gia chính phủ tự trị rồi sẽ tiến dần đến
những giải pháp khác. Nhân sĩ đầu tiên nhận lập nội các CP/NKTT là
Bác sĩ Nguyễn văn Thinh, du học và tốt nghiệp ở Pháp. Nội các thành
lập ngày 26/3/1946, Bác sĩ Thinh là thủ tướng với tám bộ trưởng,
một thứ trưởng an ninh và công an Thủ đô Sài Gòn, và một cố vấn. Bên
cạnh chính phủ là Hội Đồng Nam Kỳ lúc đó đã từ 12 lên đến 42
người.
Bên trong hình như có sự hứa hẹn nào đó của Cao uỷ Pháp
d’Argenlieu và Uỷ viên Công hoà Pháp ở Nam Kỳ Jean Cedile (“Commissaire
République,” thay chức “Gouverneur”cũ --gọi là Thống đốc hay Thống sứ)
với Bác sĩ Thinh. Một thời gian sau, biết mình bị lường gạt, bội
tín, nhưng trước cường quyền thực dân, không thể làm được gì hơn cho
đồng bào, ngày 10/11/1946 Bác sĩ Thinh tự vẫn chết. Phải chăng đây là
trường hợp của một Phan Thanh Giản thứ hai? (16) Bác sĩ Lê văn Hoạch
thay thể.
Trong thời gian đó, ở miền Bắc Việt Nam,
từ khi Quân đoàn Lư Hán đổ vào, đã trở thành gánh nặng và sự lo
lắng lớn lao cho Chính phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh. Một là phải cung
phụng lương thực cho đoàn quân 200,000 người rất phức tạp này. Sau khi
bị nạn đói mùa hè năm 1945, trên 2,000,000 người chết, miền Bắc kiệt
quệ. Hai là mối tâm hoạn của Hồ: lo sợ các đảng quốc gia Việt Nam
từ Hoa Nam trở về, được QDĐ/TH yểm trợ, gầy dựng lực lượng sẽ gây
nguy hiểm cho lực lượng Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương.
Thực
vậy,“Việt Nam Quốc Dân Đảng” (Việt Quốc) của Vũ Hồng Khanh và hai đảng
quốc gia có uy tín khác là “Đại Việt Quốc Dân Đảng” của Trương Tử
Anh và “Đại Việt Dân Chính Đảng”của Nguyễn Tường Tam, liên kết thành
một mặt trận gọi là “Mặt Trận Quốc Dân Đảng Việt Nam” đã về miền
Bắc Việt Nam đồng thời với “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” (Việt
Cách) của Nguyễn Hải Thần. Một đảng quốc gia khác là “Đại Việt Duy
Tân Cách Mệnh Đảng”của Lý Đông A thành lập cơ sở và lực lượng vũ
trang ở Hà Nam, Nam Định và Hoà Bình. Việt Cách cũng thành lập
những đơn vị đáng kể. Hồ Chí Minh và đảng CSĐD lo sợ nhất là Việt
Quốc. Lực lượng của đảng này lên đến cấp sư đoàn chiếm căn cứ Lào
Kay và Sa pa, kiểm soát hoàn toàn vùng biên giới Hoa–Việt trên Đường
Thuộc địa # 4 từ Lai Châu, Lào Kay, Cao Bằng, Lạng Sơn và thành lập
bảy “Khu Chiến” trong toàn quốc.
(17) Trước tình thế đó, Hồ Chí Minh
và đảng CSĐD cần thay đổi chiến lược. Nên, ngày 24/2/1945, khi Tướng
Tiêu Văn đại diện của Tưởng Giới Thạch tổ chức cuộc họp tất cả các
đảng phái quốc, cộng Việt Nam ở Sứ quán Trung Hoa tại Hà Nội, yêu
cầu Hồ Chí Minh mở rộng chính phủ cộng sản và lập chính phủ liên
hiệp có sự tham gia của các đảng phái quốc gia và giải tán Đảng
Cộng Sản Đông Dương, Hồ Chí Minh nhượng bộ; tất nhiên, Hồ sợ áp lực
của cánh quân Lư Hán.
Ngày 2/3/1945, Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (CP/LHKC/VNDCCH) hình thành có sự tham gia
của các lãnh tụ Nguyễn Hải Thần, Trương tử Anh, Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam, Nguyễn Tiến Hỹ, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh... và các uỷ
viên cấp cao các đảng quốc gia cũng được đưa vào Quốc Hội (70 ghế), vào
Cố Vấn Đoàn, và vào Kháng Chiến Ủy Viên Hội... Một chánh phủ liên
hiệp quốc cộng bấp bênh như con thuyền gỗ rách bươm khi vận nước
tròng trành. Hồ Chí Minh ôm ấp âm mưu tiêu diệt các lãnh tụ quốc gia
khi tạm thời chịu giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương (thực ra chỉ đổi
tên thành “Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx”).
Ở thời điểm đó các nhà
lãnh tụ các đảng quốc gia thực tâm cộng tác với đảng cộng sản để
cùng chung lo cho nền độc lâp nước nhà, chưa nhìn thấy rõ mục tiêu
chính tiềm ẩn của CSĐD là đấu tranh bạo lực đoạt chính quyền mở
rộng đế quốc mới CSQT và trung thành theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lê.
Ở trong Nam, Tướng Leclerc Tư lệnh QĐVC Pháp
sau khi chiếm được Nam Kỳ và cao nguyên miền Trung muốn mang quân ra
miền Bắc. Từ bắc Vĩ tuyến 16 trở ra miền Bắc, thực tế là vùng xôi
đậu quốc cộng dù Hồ Chí Minh lãnh đạo CP/LHKC/VNDCCH.
Tướng Leclerc
chỉ định Jean Sainteny (một sĩ quan tình báo lỗi lạc, từng chỉ huy
Toán Tình báo M-5 hay Mission-5 của Pháp ở Hoa Nam, cũng từng quan hệ
với Archimedes Patti chỉ huy Toán OSS-202 Hoa Kỳ và Hồ Chí Minh trong
thời kỳ hoạt động ở Côn Minh đầu năm 1945, lúc đó Hồ Chí Minh có
thể được cả hai sĩ quan tình báo này tuyển chọn, nhưng cuối cùng Hồ
cộng tác với Patti, trở về biên giới, lập căn cứ Tân Trào và lập
lưới tình báo ở Việt Nam thu thập tin tức quân Nhật cho Hoa Kỳ) thương
lượng với Hồ về chuyện Pháp để cho “Việt Nam độc lập” ngược lại
Chính phủ Liên Hiệp Việt Nam đồng ý để cho lực lượng Pháp ra miền
Bắc thay thế lực lượng QDĐ/TH.
Trước đó, ngày 28/2/1946, Pháp đã ký
với Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tướng Giới Thạch Hiệp ước Trùng
Khánh với hai điều khoản quan trọng: -Pháp trả lại các tô giới và
nhượng địa trên lãnh thổ Trung Hoa và để cho Trung Hoa một số quyền
lợi ở miền Bắc Việt Nam; - ngược lại, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc
rút quân ra khỏi Bắc Việt Nam và đồng ý cho quân Pháp vào thay thế.
Sainteny tạo một cơ hội bằng vàng cho Hồ Chí Minh thực hiện âm mưu
tiêu diệt các đảng quốc gia. Hồ Chí Minh đồng ý đề nghị “độc
lập”của Pháp và khuyến dụ Vũ Hồng Khanh, thủ lãnh VNQDĐ, cùng ký
“Hiệp ước Sơ bộ” ngày 6/3/1946 với Jean Sainteny là người đại diện
chính thức của Pháp. Văn bản dự thảo hiệp ước sơ bộ được chính Cao
uỷ Đông Dương d’Argenlieu đọc từng chữ trước khi Sainteny ký với Hồ và
Khanh.
(18) Theo các điều khoản của hiệp ước, Pháp công nhận Việt Nam
là quốc gia độc lập trong Liên Bang Đông Dương; ngược lại Chính phủ
LHKCVN để cho 15,000 quân Pháp thay thế 20 vạn quân của QDĐ/TH ở miền
Bắc; thực hiện ngưng bắn ở miền Nam. Quan trọng nhất là hiệp định sơ
bộ có hiệu lực thi hành ngay sau khi ký. Như vậy vấn đề “độc lập”
của Viêt Nam còn phải bàn cãi thêm nhưng việc Pháp đem quân ra miền Bắc
được thực hiện ngay trong ngày 6/3/1946.
(19) Thực vậy, Leclerc chỉ
định Tướng Jean Etienne Valluy đưa một cánh quân lớn của Quân Đoàn Viễn
Chinh Pháp danh chính ngôn thuận đổ bộ lên Hải Phòng và tiến vể Hà
Nội chờ quân của Lư Hán rút quân dần ra khỏi Bắc Việt. Trong khi đó
thì Hồ Chí Minh cho thành lập phái đoàn của Chính Phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến đàm phán với phái đoàn Pháp ở Đà Lạt trong tháng
5/1946.
Đây là phái đoàn liên hiệp duy nhất với thành phần chính gồm
12 đại biểu là những trí tuệ lớn Việt Nam thuở đó, do Nguyễn Tường
Tam, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ LHKC/VNDCCH làm trưởng phái
đoàn, Võ Nguyên Giáp làm phó. Ngoài ra còn có “Uỷ Ban Giám Định và
Cố Vấn” gổm 12 nhà trí thức nữa tham vấn. Phái đoàn Pháp do André
Max làm trưởng phái đoàn và 11 thành viên khác. Hội nghị diễn ra từ
sáng ngày 19/4/1946 đến 11/5/1946, không đạt được một hiệp ước thoả
đáng. Lý do dễ hiểu là Pháp chưa muốn trả độc lập cho Việt Nam,
ngược lại chỉ muốn chiếm lại toàn bộ thuốc địa cũ của họ. Hội
nghị kết thúc với quyết nghị Việt- Pháp sẽ đàm phán lại về độc
lập của Việt Nam ở Fontainebleau Pháp, tháng 7/1946.
Lần này, Hồ Chí Minh chỉ định Phạm văn
Đồng làm trưởng phái đoàn các thành viên cộng sản. Ngày 6/7/1946,
Phái đoàn của Đồng sang Pháp. Hồ Chí Minh cùng đi chung. Hồ Chí Minh
đi Pháp để làm gì? Phải chăng để lánh mặt sau khi ra mật lệnh cho
thủ hạ tiêu diệt tất cả lãnh tụ và các đảng phái quốc gia --mối
tâm hoạn của Hồ-- trong CP/LHKC.
Trong số những lãnh tụ các đảng phái
quốc gia có những vị mà Hồ mang ơn vì được họ che chở và cũng từng
thực tâm chấp nhận để cho Hồ mang cả tổ chức theo về cộng tác với
mục đích duy nhất là cùng nhau đánh thực dân thu hồi độc lập cho đất
nước và dân tộc. Nhưng là lãnh tụ cộng sản được Đệ III CSQT đào tạo
tại Mạc Tư Khoa, Hồ chỉ biết phục vụ cho “mặt trời lý tưởng” của
ông là chủ nghĩa Công sản Mác-Lê.
Dù phải thanh toán những ân nhân
cũ, các lãnh tụ quốc gia thành tâm nhưng thiếu bản lĩnh, để độc
quyền tiến hành sứ mệnh được các quan thầy giao phó là xích hóa
đất nước, và “giải phóng giai cấp” trên quan điểm vô sản, Hồ cũng
làm. Dân tộc là thứ yếu, tất nhiên Hồ phải dẹp sạch các trở lực
cản ngăn bước tiến của mình.
Giết lãnh tụ, tiêu diệt các đảng phái
quốc gia từng bao dung Hồ khi còn trên đất Tàu từ thập niên trước, và
hợp tác với Hồ trong chính phủ liên hiệp mới đó, ít ra Hồ Chí Minh
không tự vấn và tự dối lương tâm: “thà phản bạn hơn là phản thầy”.
Vả lại, những lãnh tụ các đảng phái quốc gia chỉ lo giành độc lập
dân tộc đâu phải là bạn của Hổ Chí Minh và đảng CSĐD; họ là kẻ thù
tư tưởng và giai cấp, cần thanh toán. Trong hơn hai tháng –từ tháng 7
đến tháng 9/1946-- Hổ Chí Minh lánh mặt ở Pháp thì ở Việt Nam, cuộc
triệt hạ các đảng phái quốc gia đã diễn ra đẫm máu bởi các đệ tử
của Hồ. Cuộc triệt hạ này đại qui mô, có kế hoạch và sự phối hợp
của lực lượng viễn chinh Pháp.
Ngoài Bắc, bộ đội Võ Nguyên Giáp
phối hợp và dẫn đường cho lực lượng viễn chính Pháp hành quân phối
hợp tiêu diệt hoàn toàn các căn cứ võ trang của các đảng phái khác
ở khắp nơi – nhất là các căn cứ địa đóng quân của Việt Nam Quốc Dân
Đảng trên Đường Thuộc địa # 4 ở biên giới Hoa-Việt, từ Lai Châu, Lào
Kay qua Cao Bằng đến Lạng Sơn. Quân QDĐ/TH không can thiệp vì hiệp ước
đã ký với Pháp tháng 2/1946. Trong nội thành Hà Nội, CSVN vu khống các
đảng phái quốc gia đã lập kế hoạch phá hoại “cuộc diễn binh của
lực lượng Pháp ở Hà Nội ngày lễ Độc Lập 14/7 của Pháp”, như vậy
là phá hoại tình hữu nghị của Việt–Pháp và cuộc họp ở
Fontainebleau.
(20) Ngày 12/7/1946, Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Tổng bí
thư đảng CSĐD và Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ CP/LHKC, ra lệnh cho
các đơn vị công an Việt Minh tạo ra “Vụ án Ôn Như Hầu” đồng loạt tấn
công các trụ sở công khai của các đảng quốc gia: trụ sở Việt Nam
Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh số 7, Đường Ôn Như Hầu; trụ sở Đại
Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, số 132 Đường Duvigneau; trụ sở
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần, số 80 Đường Quan
Thánh.
Các cuộc tấn công này Việt Minh triệt hạ hầu hết đảng viên
trung ương của các đảng đó. Đặc biệt là các toán hành động của
Việt Minh tấn công trụ sở của VNCMĐMH Đường Quan Thánh được chiến xa
và đơn vị Pháp phối hợp yểm trợ mà các tài liệu CSVN gọi là “can
thiêp”. Đồng thời các trụ sở của Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn
Tường Tam và Đại Việt Quốc Gia Xã Hội Đảng của Nguyễn Xuân Tiếu
cũng chịu chung số phận. Những thành phần của các đảng phái quốc
gia công khai tham gia chính phủ liên hiệp, trong quốc hội và trong uỷ
hội kháng chiến cũng bị Việt Minh thủ tiêu hay bắt giữ. Chính phủ
LHKC tất nhiên bị CSVN đập nát từng mảnh.
Thủ lãnh các đảng nổi
tiếng như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyền Tường Tam chạy thoát
được sang Trung Hoa. Trương Tử Anh mất tích, chắc chắn bị Việt Minh
thủ tiêu. Ở vùng Hoà Bình và Ninh Bình, Đại Việt Duy Tân Cách Mệnh
Đảng của Lý Đông A –hay Trần Khắc Tường-- cũng bị Viêt Minh đánh tan
rã. Lý Đông A bị giết chết. Ở miền Trung,Trần Huy Liệu và Tố Hữu
thủ tiêu hàng loạt lãnh tụ các đảng nói trên và những nhân vật quốc
gia khác.
Ở miền Nam, Trần văn Giàu hạ thủ những thủ lãnh trí thức
Việt Nam nhóm Đệ IV Quốc tế Cộng sản –hay nhóm “Trotskyst” (những
người CSVN theo Đệ IV Quốc tế của Leiba D. Trotsky, cánh tay mặt của
Lenin, tranh chấp quyền bính với Staline, bị loại trừ, lưu vong và bị
ám sát chết ở Mexico năm1940) như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn
Hùm, Dương Bạch Mai, kể cả Giáo chủ giáo phái Hoà Hảo là đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ. (21)
Sau trận thanh toán thảm khốc này của Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ khác của CSVN, làn ranh quốc||cộng trở
thành vết hằn sâu rộng của hận thù không bao giờ hàn gắn lại được
nữa giữa những người Việt Nam thuở đó và của nhiều thế hệ kế
tiếp. Đến khi đó, những lãnh tụ các đảng phái quốc gia sống sót đã
nhìn rõ bản chất và hành động sắt máu của những lãnh tụ cộng
sản. Chính CSVN đã đẩy những nhà cách mạng quốc gia chân chính đến
cuối con đường thống nhất, vì họ hoàn toàn khác về tư tưởng chủ
đạo, về lập trường chính trị, về khuynh hướng lập quyền và về hành
động kiến tạo.
Một bên dùng bạo lực đấu tranh đoạt chính quyền để
thành lập thể chế toàn trị xã hội chủ nghĩa, kết thêm một mảng
quan trọng cho mạng lưới cộng sản quốc tế to lớn hơn; họ mang thứ
chủ nghĩa cộng sản tàn độc này nhồi nhét vào đầu những người
thiếu tri thức thuở đó và vào đầu óc các thế hệ tương lai. Hành
động đó ghê tởm gấp trăm lần tội cõng rắn cắn gà nhà.
Một bên, vì
nền độc lập quốc gia, vì muốn gieo mầm mống tự chủ với thể chế dân
chủ rộng mở cho dân tộc phát triển, tôn trọng nhân quyền và quyền
sinh sống tự do của con người, dù biết hay không biết bản chất lật
lọng của người cộng sản, nhưng vì quá chân thật, quá thành tâm, nhất
là thiếu bản lĩnh, mà lâm vào cảnh bị phản bội, bị tàn sát. Tất
nhiên những nhà cách mạng quốc gia sống sót phải tìm con đường khác,
những lãnh tụ khác có uy tín, tái lập đảng để tiếp tục công cuộc
tranh đấu cho độc lập và tự do mà đồng bào mong mỏi.
Ngày 14/9/1945 sau khi Hội nghị Fontainebleau
thất bại, Hồ Chí Minh ở nán lại Paris và nằn nì ký một tạm ước
--không ra gì, chỉ làm lợi cho thực dân Pháp-- với Bộ trưởng Hải
ngoại Pháp Marius Moutet. Trở về Hà Nội trung tuần tháng 9/1946 sau khi
các thuộc hạ từ Bắc chí Nam thanh toán gọn các đảng quốc gia, Hồ
Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân (?) ngày 3/11/1946. Về
phía quân viễn chính Pháp, sau khi thiết lập hệ thống căn cứ trên
Đường Thuộc địa # 4 biên giới, chiến hạm Pháp bất thần bắn phá cảng
Hải Phòng ngày 23/11/1946, hơn 6,000 người chết. Trận chiến kéo vào
Hà Nội. Đêm 19/12/1946, Việt Minh tấn công một vài địa điểm của Pháp
ở Hà Nội. Sau đó Hồ Chí Minh và bộ đội Võ Nguyên Giáp rút lên biên
giới Việt Bắc, tuyên bố trường kỳ kháng chiến. Chiến tranh Việt Nam
bắt đầu.
Ở miền Nam, Thiếu tướng quân đội Pháp
Nguyễn văn Xuân, Thủ tướng thứ ba của Chính Phủ Nam Kỳ Tự Trị, bay
sang Hồng Kông ngày 19/12/1946 yết kiến Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận ý
định sát nhập Nam Kỳ vào một nước Việt Nam thống nhất và mời Cựu
hoàng về nước chấp chánh.
Lần đó Bảo Đại do dự vì biết rõ tham
vọng của thực dân Pháp. Đầu năm 1946, Pháp thành lập những đơn vị Vệ
Binh Nam Kỳ Tự Trị, cấp đại đội ở các tỉnh (ngày 9/6/1948 đổi tên
thành Vệ Binh Nam Việt). Ngày 12/4/1947, thành lập Việt Binh Đoàn ở
Trung Kỳ, và tháng 7/1948 thành lập Bảo Chính Đoàn ở Bắc Kỳ.
Tất
cả các đơn vị này do sĩ quan Pháp chỉ huy. Trong khi đó thì các nhân
sĩ trí thức và các lãnh tụ cũ, mới, của các đảng quốc gia từng
bị CSVN triệt hạ kết hợp lại trong “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất”
(MTQGTN –The National United Front) ở Nam Kinh và Sài Gòn. Các đảng quốc
gia cũng tái lập và ngấm ngầm hoạt động ở cả ba miền Bắc, Trung và
Nam Việt Nam với những lãnh tụ trí thức mới. Tháng 3/1948, MTQGTN cử
một phái đoàn gồm những nhân sĩ cách mạng như Ngô Đình Diệm, Phan
Quang Đán, Nguyễn Tường Tam, Đinh Xuân Quảng, Trần văn Tuyên, Nguyễn văn
Sâm sang Hồng Kông gặp và mời Cựu hoàng về nước lập chính phủ và
đề xuất việc đàm phán với Pháp về độc lập và thống nhất Việt Nam.
Cựu hoàng chấp nhận.
Ngày 27/5/1948 Ông điện về Sài Gòn chỉ định
Thiếu tướng Nguyễn văn Xuân làm Thủ tướng Chính Phủ Lâm Thời Quốc Gia
Việt Nam và tiến hành việc đàm phán với Chính phủ Pháp. “Nam Kỳ Tự
Trị” giải tán. Ngày 5/6/1948, Thủ tướng Nguyễn văn Xuân và Cao uỷ Đông
Dương Emile Bollaert ký Thoả ước Vịnh Hạ Long về thống nhất và độc
lập cho Việt Nam. Nhưng Pháp lần lữa mãi, nên cuộc tranh chấp của
phía quốc gia tiếp tục.
Mãi đến ngày 8/3/1949, Tổng thống Pháp
Vincent Auriol mới chịu ký với Cựu hoàng Bảo Đại “Hiệp ước Elysée”
gồm các điều khoản quan trọng là thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam, trả lại quyền nội trị và ngoại giao cho Việt Nam. Việt Nam là
một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp.
Ngày 13/6/1949 Bảo Đại về
nước với tư cách Quốc trưởng, thành lập Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam
(l’État du Việt Nam) với chính mình là Thủ tướng. Ngày 29/1/1950,
Quốc Hội Pháp chuẩn thuận Hiệp ước Elysée. Đến lúc đó, khối Đồng
Minh Tự do cho rằng ‘Giải pháp Bảo Đại” là giải pháp chính trị cần
thiết để chính danh giải quyết vấn nạn từ bấy lâu nay là nền “độc
lập của Việt Nam” mà Hồ Chí Minh và Việt Minh nêu ra làm tiền đề cho
cuộc chiến mà họ theo đuổi.
Chỉ hơn một tuần sau, ngày 7/2/1950 Hoa
Kỳ công nhận Quốc Gia Việt Nam và Chính phủ Bảo Đại, Anh và Úc tiếp
theo, và sau đó hơn bốn mươi quốc gia trong khối Tự do.Việt Nam tuần
tự trở thành thành viên của 37 tổ chức chuyên biệt của Liên Hiệp
Quốc. Trước đó, ngày 14/1/1950 Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, hay Trung
Cộng, chính thức thừa nhận Chính phủ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”
của Việt Minh dưới sư lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Tiếp theo, ngày
31/1/1950 là Liên Xô; sau đó là các nước cộng sản khác.
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết