QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Saturday, March 23, 2019

Những Hồn Hoang Nơi Pháp Trường Cát!

----- Forwarded Message -----
From: Andy Van a [thaoluan9] >
To: Andy Van <>
Sent: Wednesday, March 20, 2019, 8:58:39 AM PDT
Subject: [Thaoluan9] Những Hồn Hoang Nơi Pháp Trường Cát!

 

Những Hồn Hoang Nơi Pháp Trường Cát!




See the source image


Andy

Image result for thang ba gay sung


Sau khi TQLC Cao Xuân Huy “lên tàu”, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh yêu cầu Phan Văn Đuông và tôi lên Hồn Việt T.V để anh phỏng vấn về tác giả và tác phẩm “Tháng Ba Gẫy Súng”, trước ống kính, tôi nói với anh Trinh rằng Cao Xuân Huy viết đúng nhưng chưa đủ, phải thêm vài cuốn Gẫy Súng nữa mới thấy hết cái bi thương và lý do gây nên thảm cảnh đó.


Trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của nhà văn Huy Phương trên SBTN nói chuyện về việc đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế, đã cải táng nấm mồ tập thể 132 quân nhân tử trận trên bãi biển Thuận An vào những ngày cuối tháng 3.1975, nhân dịp này ông có phỏng vấn tôi một số chi tiết liên quan đến “biến cố” Thuận An



Buổi nói chuyện của ông đã được phổ biến trên TV khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và gây xúc động cho nhiều người, nhất là những gia đình có chồng, con, anh, em, còn mất tích trên bãi cát này, nên quý vị đó đã gọi điện thoại cho tôi yêu cầu nói rõ thêm về cuộc rút quân của Lữ Đoàn 147/TQLC.

Thời gian của mỗi buổi nói chuyện chỉ trong vòng 20 phút trong khi muốn hiểu rõ đầu đuôi thì phải cần cả ngày. Quý khán thính giả đã xem chương trình của anh Huy Phương như các anh Tô Đức Hạnh (Alhambra, anh của cố Đ/Uy Tô Thanh Chiêu), Phan Hữu Hạnh (Witchita), Nguyễn Công Thân (AZ), Lữ Minh Đức (San Francisco), Đỗ Văn Minh (Houston TX) và nhất là chị Hồng Bạch (San Jose) đã khóc ngất khi hỏi tin tức về em trai là Tr/ Sĩ TQLC Lâm Phi Hạnh mất tích tại Thuận An. Vì vậy tôi xin được nói rõ THÊM về những điều tôi đã nghe và thấy trong nhiệm vụ của một người trực trung tâm hành quân SĐ/TQLC tại Non Nước, ĐN và tôi tham khảo thêm bài viết của các Mũ Xanh khác. Ngoài nhà văn Cao Xuân Huy với “Tháng Ba Gẫy Súng” đã in sách và xuất bản, còn thì mỗi người lính TQLC bị đẩy ra bãi cát Thuận An đều có “cây súng bị gẫy”, nhưng mới chỉ phổ biến trong nội bộ TQLC mà thôi, đó là:

_ Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tư Lệnh/TQLC.. (1).

_ Những Người Lính Bị Bỏ Rơi của bs TQLC Phạm Vũ Bằng (2)

_ Người Lính Sau Cùng Tuyến Sông Bồ củaTh/Úy Phan Văn Đuông (3)

_TĐ 7/TQLC Từ Cuộc Di Tản 23/3/75 của Th/tá Phạm Cang, TĐT/ TĐ7 (4).

_Ngày Tháng Không Quên của Tango Nguyễn Thành Trí, TLP/SĐTQLC. (5)

(1 và 2 đăng trong web TQLC. Còn 3,4,5 đăng trong Tuyển Tập II TQLC, khi trích dẫn tôi sẽ dùng những số này để rút gọn thay vì viết đầy đủ tên bài viết)

Chiến đấu là có thắng thua, mà phần quyết định thắng thua thường do khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy. Viết về một chiến thắng thì quá dễ dàng. vui trong bụng và làm hài lòng những người tham dự, nhất là những cấp chỉ huy và lãnh đạo trận đánh đó. Nhưng rất dễ “lãnh đạn” khi viết về một chiến bại, dù cho là “Can Trường Trong Chiến Bại”. Viết về biến cố Thuận An thì lại càng khó. Nó không chỉ là chiến bại, mà là một tan hoang! Tan hoang không hoàn toàn do địch quân*, mà có phần trách nhiệm chỉ huy cao cấp của cuộc rút quân đó! Lại càng khó khi những nhân vật chỉ huy cao cấp đó còn đây. Không khéo lại bị mang vạ là hỗn hào, sao dám phê bình thượng cấp?

Biết vậy nhưng tôi vẫn phải viết, viết để trả lời cho những người đã khóc, đang khóc và còn khóc mãi khi thân nhân của họ là những oan hồn* chưa tìm được nơi tạm trú, những hồn hoang vẫn còn lang thang trên pháp trường cát Thuận An vào những buổi hoàng hôn.

Biết vậy nhưng vẫn phải viết khi mà những người lãnh đạo cuộc chiến nay quay sang bưng bô cho kẻ thù như ông thủ C-K, như cụ thủ T-K chào dạy thuộc cấp xưa rằng dịch quân của họ cũng là người “iêu-lước”. Các cựu thủ KK thà cứ thủ như bình, không cần nói lời xin lỗi. Nhưng lại mở miệng ra làm ô nhiễm môi trường thì tôi đành phải cầm viết. Hơn nữa khi tôi ghi lại những dòng này là đã đọc các hồi ký của những người trách nhiệm ở bãi biển Thuận An, tôi đọc và tôi viết ở cái tuổi gấp đôi khi các ông KK mang sao trên cổ áo. Nếu tôi không ghi lại bây giờ mà để thêm vài năm nữa thì lại sinh lẩm cẩm, lẫn lộn giữa bạn và thù.

(* Khi nghe tin SĐ1/BB và TQLC đã rút thì Thiếu Tá Hoàng Trai, CHT trung tâm huấn luyện SĐ.1 tại Dạ Lê mới cho TTHL rút theo. Trước khi rút, ông còn dùng xe jeep chạy khắp thành phố Huế để nhìn lại “quê hương” một lần chót mà không hề hấn gì, chỉ gặp một vài trái pháo rơi vãi đó đây, áp lực địch không mạnh, tức là hậu quả thê thảm trong giai đoạn rút quân là do vị chỉ huy cao cấp và ban tham mưu không nắm vững tình hình hoặc bỏ “nhiệm sở”

Trong buổi nói chuyện trên SBTN, nhà văn Huy Phương hỏi tôi:

_Nhiệm vụ của Sư Đoàn TQLC tại vùng I.

_Lý do rút quân và diễn tiến cuộc rút quân. Những gì xẩy ra trên bãi biển Thuận An?

_Tổn thất như thế nào? Có bao nhiêu TQLC về được Đà Nẵng?

_Nếu có mặt của vị chỉ huy cao cấp (?) tại chỗ thì tình thế sẽ ra sao?

_Hoạt động của TQLC sau đó và những ngày cuối cùng của cuộc chiến.

Xin trả lời:

Cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào năm 1971, một cuộc chiến kỳ quái thí quân, rồi sau đó tới “Mùa Hè Đỏ Lửa”, tái chiếm Cổ Thành đã khiến hai binh chủng Nhẩy Dù và TQLC bị tiêu hao khá nặng. Tổng trừ bị là vậy, nhưng rồi sau đó thượng cấp biến TTB thành “binh chủng” ĐPQ và NQ của vùng I, đóng đồn giữ đất, cắm chốt, đào giao thông hào, trải quân từ bờ biển vào tận dãy Trường Sơn. Một trung đội trưởng còn biết sự cần thiết của lực lượng trừ bị, vậy mà giới lãnh đạo lại không biết điều đó sao!

Sau khi Ban Mê Thuột bị mất ngày 10/30/75 thì ngày 13/3.75. “thượng cấp” mới giật mình tỉnh cơn mê, không có tổng trừ bị bèn vội vàng kéo Dù về Nam, và để trám vào chỗ trống đó là kéo LĐ 258 và LĐ 369/TQLC, đang giữ đất ở QT, Huế di chuyển vào Đà Nẵng, Thường Đức, thay thế Dù, và chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ tuyến sông Bồ và bảo vệ Huế. Lực lượng thay thế 2 Lữ Đoàn TQLC với 5 ngàn tay súng là Liên Đoàn 14/BĐQ với quân số 1400.

BMT bị mất, Dù về Nam, TQLC xuôi vào ĐN đã ảnh hưởng rất lớn đến các lực lượng chiến đấu ở QT, Huế, đấy là chưa nói đến áp lực địch gia tăng và dân chúng hoảng loạn bắt đầu di tản, thì việc phòng thủ Huế đã quá mong manh.

Lúc 14.30 giờ ngày 24/3/75, Tại căn cứ Hải Quân Thuận An, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Tiền Phương (QĐITP) Lâm Quang Thi họp với Tướng TL/SĐ1/BB. Đại Tá Hy TMT/QĐITP, Đại Tá Duệ tỉnh trưởng Thừa Thiên, Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/TQLC để bàn kế hoạch rút quân. Kế hoạch đã được trình lên Trung Tướng TL/QĐI và được chấp thuận. Khoảng 17 giờ 30 cùng ngày Đ/Tá Hy đi trực thăng đến trao công điện cầm tay cho Đ/tá Nguyễn Thành Trí lệnh rút quân và Đ/Tá Trí ra lệnh cho các đơn vị TQLC thi hành vào lúc 18 giờ ngày 24/3/75.

Trong phạm vi bài viết này, tôi không đề cập tới lệnh rút quân của QĐITP đã được soạn thảo vội vàng như thế nào và tôi cũng không đề cập tới việc rút quân của các đơn vị bạn như SĐIBB, BĐQ, TG v.v.. mà chỉ đề cập tới lệnh rút quân ban cho LĐ.147/TQLC.

Đ/Tá Nguyễn Thành Trí Tư TLP/TQLC kiêm Tư Lệnh lực lượng Tây-Bắc, mà nỗ lực chính là LĐ.147, đã viết trong “Những Ngày Tháng Không Quên” như sau:

_ “Tướng Thi quyết định đề nghị kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau: Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó đi chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây, Hải Quân và Công Binh QĐI sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. SĐ.1BB do Tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông, song song với cánh quân TQLC. (5 trang 538 ).

_ “Sáng sớm ngày 25 tháng 3, LĐ147/TQLC báo cáo đã hoàn tất việc tập trung bên này bờ biển, cách Thuận An 9 cây số về phía Đông Nam (5 trg 539). Khoảng 1030 giờ, qua tần số không lực, LĐ147/TQLC nhận được lệnh của QĐ1TP hãy chuẩn bị tại chỗ để tàu vào bốc, kế hoạch di chuyển về cửa Tư Hiền bị hủy bỏ vì không thể thực hiện được cầu phao do tình trạng an ninh và thủy triều bất lợi. (5 trg 540).

Tư lệnh lực lượng Tây Bắc ra lệnh rút lúc 18 giờ ngày 24/3 mà sáng sớm ngày 25/3, chỉ trong vòng hơn một đêm mà LĐ147/TQLC đã di chuyển từ tuyến sông Bồ (TĐ5) và sẵn sàng tại điểm tập trung, phía Nam cửa Thuận An 9 km, tiếp tục đi chuyển về cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng là một cuộc hành quân lui binh rất khó khăn nhưng LĐ147 đã hoàn tất đúng với lệnh của QĐITP. Tuy nhiên đến 10 giờ 30 thì kế hoạch thay đổi, vì không bắc được cầu phao qua cửa Tư Hiền* nên LĐ147TQLC dừng quân tại chỗ để tàu Hải Quân vào bốc.

(* cửa Thuận An và Tư Hiền rộng như một con sông lớn nối liền biển với các đầm nước trong đất liền, phòng thủ và vận chuyển tại cửa Thuận An là trách nhiệm của Duyên Đoàn 12 và tại cửa Tư Hiền là Duyên Đoàn 13, thuộc BTL Hải Quân vùng I Duyên Hải)


Rút quân bằng đường bờ biển vào Đả Nẵng qua cửa Tư Hiền thì yếu tố quyết định là phải có cầu phao tại đây, hay tối thiểu phải là các tàu há mồm để chuyện quân từ bờ này sang bờ kia. Tướng tiền phương đã ra lệnh cho HQ và CB thi hành, vậy mà chỉ trong một đêm đã báo cáo kết quả là không thực hiện được. Thượng cấp ra lệnh khi chưa cho thám sát địa thế, khi phương tiện chưa sẵn sàng, chưa nghiên cứu thủy triều, hay thuộc cấp (HQ&CB) không tuân lệnh hành quân? Điểm chết người là ở chỗ này đây.


Bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền là một hòn đảo cát, Đông Tây Nam Bắc là nước, đã ra đến đây rồi thì đường rút quân vào ĐN chỉ có duy nhất vượt qua cầu phao tại cửa Tư Hiền. Nhưng bắc cầu phao đâu phải vẽ trên giấy? Kết quả là thế đấy!

Nhưng thôi, không có cầu phao thì QĐITP ra lệnh dừng quân tại chỗ để tàu HQ vào đón. Thật là tuyệt diệu vừa nhanh chóng, an toàn, vì dưới tay Quân Đoàn là cả một lực lượng Hải Quân hùng hậu đầy đủ tầu thuyền của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải, ông biết mọi đặc tính của vùng biển này như trên bàn tay. Nhưng rồi chuyện gì xẩy ra? Xin nghe Đ/Tá TL lực lượng Tây-Bắc nói:

“Khoảng 1300 giờ,(ngày 25.3), một hải vận hạm (LSM) đến bãi bốc, nhưng lại đậu cách xa bờ 200m, làm sao binh sĩ lội ra được trong tình trạng sóng to gió lớn lại còn phải đem theo thương binh và tử sĩ?Nếu có vài chiếc LCM để chuyển quân từ bờ ra tàu lớn thì mọi việc đã có thể giải quyết tốt đẹp, vì loại tàu LCM có thể vào sát bờ hơn. Thấy không thể giúp gì được nên chiếc LSM di chuyển đi nơi khác sau khi hứa sẽ gọi tàu LCU đến để bốc quân (5 trg 540)...


Từ khi ra lệnh dừng quân đến khi tàu đến phải mất gần 3 tiếng đồng hồ (1030-1300)? Đến rồi lại bỏ đi! Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC nói về trường hợp tàu HQ vào đón (kể trên) như sau:

“Tàu đậu cách bờ 200m lại thêm sóng to gió lớn là một trở ngại vô cùng khó khăn. Từng toán 20 TQLC nắm tay nhau lội ra tàu nhưng bị sóng đánh dạt vào bờ trông thật thê thảm! Các đơn vị cố gắng nhiều lần nhưng đến 5 giờ chiều thì không một quân nhân nào ra đến tàu được. Đ/Tá LĐT gọi các tiểu đoàn trưởng đến họp (3,4,5,7,TĐ2PB) và ra lệnh phòng thủ tại chỗ để chờ xuống tàu theo kế hoạch Alfa” (4 trg 489).

Ngồi chờ tàu vào đón từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tàu đến rồi tàu lại đi vì sai kế hoạch, trong khi địch quân thì có 7 tiếng đồng hồ, quá dư thời gian để bám sát đuổi theo, trận chiến xảy ra, địch đã núp sẵn trên các cao điểm, hướng đủ mọi loại súng vào quân ta. Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4 và Đại Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/ĐĐ.3 tử thương vào lúc này. Kế hoạch Alfa như thế nào và đã được thực hiện ra sao? Th/Tá Cang viết tiếp:

“Tối hôm đó (25/3) LĐ đóng quân đợi thi hành kế hoạch Alfa tức là xuống tàu Hải Quân vào lúc 12 giờ đêm, theo thứ tự BCH/LĐ, TĐ 2PB rồi tới các TĐ 4,3,5 và 7. Thế rồi 12 giờ đêm đã tới, 1 giờ đã qua rồi 3 giờ sáng, các con tàu vẫn không vào bờ! Xa xa ngoài khơi, ánh đèn các con tàu vẫn còn đó, nhưng mọi vật hình như bất động! Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau (26/3) mới có một chiếc LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ.” (4 trg 490).



Hành quân lui binh khó khăn gấp trăm lần hành quân tấn công, vậy mà LĐ147/TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 và TĐ2PB đã thi hành đúng theo lệnh, dừng quân trên đảo cát để tàu vào đón, nhưng chờ gần một ngày một đêm (10.30 sáng ngày 25/3 đến 8 giờ sáng ngày 26/3) vẫn không có con tàu nào, chúng vẫn bất động trước mặt. Nhưng địch quân nó có “bất động” như tàu không? Chúng không ngu mà đã thần tốc bám theo, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng thì gần 24 giờ đồng hồ “ta đứng, địch đuổi” chuyện gì sẽ xẩy ra? Địch đã dư thừa thời gian đuổi theo và tăng cường quân số quyết tấn công LĐ.147, nên khi chiếc LCM vào đón thương binh là chúng tấn công bằng hỏa tiễn và 12.7, Đ/Tá LĐT bị thương Th/Tá Phạm Cang chỉ huy LĐ thay thế Đ/Tá Nguyễn Thế Lương. Nếu đêm 25/3, kế hoạch Alfa được thi hành, địch chưa đuổi kịp thì không xảy ra đại họa. Đã quá trễ khi địch đã sẵn sàng hướng súng vào tàu, vào quân ta như những tấm bia trên thềm bắn. Th/Tá Phạm Cang XLTV/LĐ viết:
“Nếu đêm qua kế hoạch Alfa được thi hành thì ít nhất một nửa lữ đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì lý do gì không thực hiện được. Khoảng 10 giờ sáng HQ cho biết sẽ có LCM vào đón. Tôi ra lệnh cho TĐ 4 và 3 xuống tàu theo như đã định, nhưng khi LCM vừa cập bến thì quân nhân các đơn vị bạn cùng dân chúng cũng nhanh chân tranh nhau xuống tàu gây nên cảnh hỗn loạn. Vì số lượng người quá đông nên tàu mắc cạn. Vị chỉ huy tàu yêu cầu ai không phải TQLC thì xuống bớt tàu mới có thể ra khơi được. Nhưng ai là người chịu xuống khi biết rằng đây là cái phao cuối cùng. Tuyệt vọng! Tự sát và VC tác xạ vào gây thêm cảnh chết chóc cho những ngươi xung quanh” (4 trang 491).

Lời của Th/Tá Phạm Cang trên đây cũng như Tr/Úy Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” đã nói giống nhau về con tàu vào đón quân trễ 24 giờ so với lệnh hành quân của QĐITP (10 giờ 30 ngày 25/3 đến10 giờ ngày 26/3) khiến nó trở thành cái quan tài sắt chứa bao nhiêu xác người, có khác chăng là chi tiết giữa cái nhìn của ĐĐT và TĐT. Đó là hậu quả mà người dân thôn An Dương, Thuận An, Thừa Thiên Huế vừa cải táng nấm mồ tập thể của 132 tử sĩ VNCH, tuy không xác định được danh tánh nhưng phần lớn là TQLC. Còn bao nhiêu lần 132 xác nữa vẫn còn nằm rải rác khắp đó đây dưới cát hoặc thủy triều kéo ra biển khơi?



Từ 10 giờ sáng, con tàu đến trễ 24 tiếng đã mắc cạn biến thành “con tàu ma” thì chẳng còn “ma” nào vào đón LĐ.147 nữa. Họ phải làm gì đây? Trong cơn nắng hè giữa bãi cát, cả lữ đoàn đang chết khát giữa biển nước mênh mông. Đến 2 giờ chiều Tướng Lâm Quang Thi bay trực thăng ngoài biển khơi gọi máy hỏi quân số dưới đất còn bao nhiêu, Th/Tá Cang trả lời:

_“Ngoài 5 Tiểu Đoàn TQLC, còn có các đơn vị bạn đi theo, tổng số khoảng 3000”.

Vị tướng tiền phương hứa sẽ có tàu lớn (?) vào đón và rồi ông bay đi và im lặng vô tuyến. Đến 4 giờ chiều, tức 2 giờ sau lời ông tướng hứa thì Th/Tá Phạm Cang XLTX/LĐ nhận được lệnh từ TLP/TQLC rằng không còn tàu nào nữa! Đ/tá ghi lại (5 trg 541) như sau:

“Chiều đã xuống, BCH nhẹ SĐ đã gọi bất cứ hệ thống vô tuyến nào có thể xen vào để xin tiếp tục gửi tàu đến bãi bốc, nhưng mọi trả lời nhận được đều bi quan và tuyệt vọng.”


Kể từ 4 giờ chiều ngày 26/3, cả LĐ.147/TQLC coi như đã bị đưa ra pháp trường cát Thuận An. Trước mặt là biển Đông, sau lưng là đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An và phá Tam Giang, Nam là cửa Tư Hiền, giữa bãi cát mênh mông không nơi che dấu thì có thể làm gì được đây? 


Đã 6 giờ chiều, những người lính TQLC phải quyết định thật nhanh, Th/Tá Phạm Cang cho họp các tiểu đoàn trưởng để đi đến một quyết định: “Tiếp tục đánh và đi về phía Nam”, đi về cửa Tư Hiền dù biết rằng không có cầu phao, nhưng hy vọng vào cái cầu bằng “bọt nước” tức là hy vọng vào Duyên Đoàn 13 thuộc BTL/HQ vùng I Duyên Hải còn trấn giữ ở đây. Nhưng tất cả đúng là “bọt nước”, không tầu, không cầu, không bạn, hết đạn, hết lương thực, hết nước, chỉ còn súng địch thì không tử trận cũng tự sát, và bị bắt! Còn ai thoátđược?

Trong một bài viết của vị Tướng Tư Lệnh Tiền Phương (TL/TP), ông đã nói rằng “đa số TQLC đã về tới Đà Nẵng”.. Xin thưa, chỉ duy nhất một LCM vào đón thương binh lúc 8 giờ sáng ngày 26/3, nhưng bị VC bắn nên vội rút ra! Bác Sĩ Phạm Vũ Bằng là người được lệnh ra đón thương binh đã kể lại trong bài viết “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” nói rõ con số, bài này đã gửi tới cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi TL/TP, có đoạn như sau:

_ “Vào lúc 2 giờ chiều ngày 26/3, thì một chiếc LCM từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ..4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước.”

Trên đây là ghi lại thật tóm tắt diễn biến xảy ra trên pháp trường cát Thuận An. Còn câu hỏi của nhà văn Huy Phương rằng nếu có sự chỉ huy của giới chức “có thẩm quyền” thì tình thế có thay đổi không? Vì tế nhị ông đã không hỏi đích danh “thẩm quyền” là ai, nhưng tôi có thể khẳng định “thảm họa” Thuận An không do cấp chỉ huy TQLC. Lữ đoàn trưởng bị thương đã có người thay thế và các Tiểu Đoàn Trưởng 3, 4, 5, 7, TĐ2PB vẫn luôn sát cánh cùng thuộc cấp. Xin nghe tâm sự của Cao Xuân Huy về tiểu đoàn trưởng Đinh Long Thành của mình:

-“Làm tiểu đoàn trưởng được mấy ngày thì chạy, chết mất tiểu đoàn phó*, chết mất một đại đội trưởng*, banh luôn một đại đội, một đại đội cũng đang lênh đênh trên biển ngoài sự kiểm soát của ông.. Vậy mà ông vẫn chạy ngược chạy xuôi, cố gắng tập trung, gom góp những thằng mang bảng tên màu đỏ tiểu đoàn 4 để hướng dẫn, để biết tin tức, để khích lệ tinh thần. Ông đã không lợi dụng tình trạng tan rã của tiểu đoàn để bỏ trốn một mình. Phải chi quân đội chỉ có tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá Thành” (Tháng 3 Gẫy Súng, trg 93)

Không chỉ có tiểu đoàn trưởng, mà tiểu đoàn phó cũng thế. Phạm Cang nói về TĐP Lê Quang Liễn (có em ruột đi theo anh nhưng bị tử thương) như thế này:

_“Khi một tàu vào gần bờ để bốc thương binh tử sĩ, Th/Tá Liễn ôm xác người em trai bơi ra tàu vừa kịp lúc tàu kéo “bửng” lên nên cả hai anh em Liễn, người sống và người chết nằm gọn trong tàu. Vừa khi tàu lui ra thì Liễn nhẩy xuống biển, bơi lại vào bờ để tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội và rồi bị bắt cùng đồng đội”.

Gặp Liễn tôi hỏi động cơ nào đã khiến anh hành động như thế thì Liễn nói:

_ “Không có gỉ ghê gớm lắm đâu anh, đơn giản là các tiểu đoàn trưởng Cang, Tiền, Sử, Thành còn trên bờ, lính tôi còn trên bờ, tôi phải trở lại để sống chết với anh em. Nếu bây giờ gặp hoàn cảnh như thế, tôi vẫn làm như thế”.

Những cán bộ nồng cốt của LĐ.147/TQLC là như thế đó nhưng không thể làm gì hơn, họ chỉ là Bộ Binh (nói chung) không có quyền điều động tàu thủy và tàu bay. Ngay cả Đại Tá TLP cũng phải than trời:

“Kêu cứn tàu vào bốc nhưng mọi trả lời đều tuyệt vọng”. (5,trg 541)

Nên nhớ rằng LĐ.147/TQLC trực thuộc quyền điều động của QĐITP, nằm ngoài thẩm quyển điều động của TL/TQLC. Khi biết LĐ.147 đang bị sa lầy, TL/TQLC đành phải ra mật lệnh cứu nguy. Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của Thiếu TướngTL/SĐTQLC, gửi cho tôi một e-mail nguyên văn như sau:

“Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông nói:“đ..m..thế này thì chết lính tao rồi!”. Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Thi. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của Thiếu Tướng TL cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời dặn của TT/TL/SĐTQLC:“Tìm ra quốc lộ 1 mà đi”.

Nhưng tiếc thay, đã quá trễ để Đ/Tá Lương đổi hướng ra QL.1. Lệnh rút theo bờ biển và tàu vào đón là ưu điểm với điều kiện ắt có tàu và đủ điều kiện bắc cầu phao.Nếu không, lui binh theo đường bộ, dọc theo QL1 dù cho có gặp nhiều khó khăn, dẫu có gặp địch kháng cự, cũng không đến nỗi như đã bị dồn vào cửa tử Thuận An, vào thế bí như cái nhìn của Tướng TQLC và nhiều cấp chỉ huy khác nữa.

Tình thế chắc chắn khá hơn, tốt hơn nếu không muốn nói là không xẩy ra “pháp trường cát” nếu như TL/QĐITP ra lệnh được cho HQ cho tàu vào đón TQLC, lệnh cho KQ đưa máy bay lên yểm trợ hỏa lực ngăn chặn địch quân, cho trực thăng tải thương tiếp tế. Nhưng vì sao lại không có cái c.. gì cả thì TQLC chúng tôi không biết? Chuyện gì xẩy ra giữa Tướng TL/TP với Tướng TL/SĐIKQ, với Phó Đề Đốc TLHQ Vùng I Duyên Hải và cả với Tướng TL/QĐI, đây chính là những giới chức có thẩm quyền quyết định để KHÔNG xảy ra pháp trường cát.

Trong lệnh rút quân của QĐITP cho SĐ.1BB và LĐ.147/TQLC có nhấn mạnh:

“Kế hoạch hỏa lực ngăn chặn phải được áp dụng tối đa trong khi các đơn vị rút quân”.

Đây là một điểm son trong lệnh hành quân của Tướng TLTP, nhất là hành quân lui binh. Lui binh nên PB cũng lui, chỉ còn KQ và HQ là hữu hiệu nhất, mà cả 2 thành phần này chưa hề sứt mẻ. Nhưng “ou` est Robert đánh đu?” Họ đi đâu cả rồi?

Đà Nẵng có sân bay lớn, SĐIKQ có nhiều trực thăng, thẩm quyền nào điều động họ đi đâu cho đến nỗi cần trực thăng để tiếp tế đạn, nước uống, thực phẩm cho lính ở bãi cát Thuận An mà không có, Đại Úy Đan, chánh văn phòng và Tiểu Cầm, âm thoại viên của TL/TQLC đã phải dùng C&C của Tư Lệnh để tiếp tế vàì thùng lương khô xuống cho anh em. Tiểu Cần đã ghi lại trong bài “Tháng Ba Buồn Hiu”:

_ “Một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên trực thăng C&C,, tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì chở không được bao nhiêu, và phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3000 người đang “bụng không, bãi cát trống”?Bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ.147 thì phi công hỏi Đại Úy Đan kế hoạch tiếp tế những thùng gạo xấy này thì anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống, làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!

Cao Xuân Huy đã ghi lại trường hợp tiết tế này trong Tháng Ba Gẫy Súng:

_ “Một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát đựng gạo xấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn xảy ra …Có một bao rơi trúng đầu làm bất tỉnh một người lính .. (T3GS, trg 75)

Hải Quân thì có đủ mọi tàu lớn nhỏ và các cấp thừa hành cũng sẵn sàng hy sinh cộng khổ cùng TQLC, nhưng họ có nhận được lệnh hay không, lệnh ra có đúng lúc đúng chỗ hay không?. Đón quân trên bờ mà cho tàu lớn đậu xa bờ 200 thì đón ai? Đón các “thằng chỏng*” chăng? Trong khi nếu điều động đúng lúc, đúng chỗ, đúng loại là tàu “há mồm” thì hoàn tất kế hoạch chính xác nhanh chóng an toàn và thành công. (* thằng chỏng tức người chết trôi).

Hải Quân và Quân Vận vùng I Duyên Hải có tàu há mồm không? Th/tá Phạm Cang viết:

“Khoảng 10 sáng 25/3, trên tần số Không-Lục, tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiêu tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu quân vận (5 chiếc LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em mũ nâu không, nhìn quanh tôi chỉ thấy vài anh thôi, tôi cho Thao biết. Thao nói với Cang: “tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, chuẩn bị và đánh dấu bãi bốc” (4 trg 487)..

Đúng lúc đó thì Cang nhận lệnh di chuyển về phía Nam đề gặp Long Mỹ, tức Đại Tá Nguyến Thế Lương LĐT/LĐ.147, để vào ĐN bằng tàu 801, nên Cang cám ơn Thao, còn Thao mang 5 tàu LCM đi đâu thì không ai biết, trong khi đó thì LĐ.147 ngồi chờ mãi đến 13 giờ mới có LSM đến, lại đậu xa bờ, không cứu được ai. TĐ.7 đã mất dịp được LCM của Th/tá Thao cứu. Điều này chứng tỏ lệnh cho tàu của HQ vào đón TQLC là một mớ “bòng bong”, bòng bong đến nỗi không ai hiểu nổi WWWWW?

Còn câu hỏi về hoạt động của TQLC vào những ngày cuối của cuộc chiến thì tôi xin trả lời thật vắn tắt như sau:

Lúc 7 giờ sáng ngày 29/3/75, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng với Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP/TQLC và quân nhân các cấp bơi ra tàu HQ tại bãi biển thuộc căn cứ (sân bay) Non Nước, Đà Nẵng. Về đến Vũng Tàu thì đóng quân trong căn cứ cũ của quân đội Úc sát ngay bãi biển sau Vũng Tàu, đồng thời TL/TQLC lại kiêm Quân Trấn Trưởng Vũng Tàu, kiểm soát mọi tàu thuyền. Phải nói thẳng rằng không có một đơn vị nào lại có điều kiện thuận lợi để “ra đi” như TQLC, nếu muốn.

Nhưng, trong khi giới chức cao cấp tại Saigon nhao nhao tìm trốn thì TQLC lại tiếp tục lên đường chiến đấu, đánh từ Long Khánh, Long Thành, Long Bình và cứ điểm tử thủ cuối cùng là Căn Cứ Sóng Thần Thủ Đức và rồi phải gẫy súng theo lệnh TT! Và rồi từ Tư Lệnh Phó, các Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trưởng Phòng, CHT/TTHL, các Đại Đội Trưởng đều vào tù. Các Tr/Tá Nguyễn Văn Nhiều, Nguyễn Đằng Tống, Huỳnh Văn Lượm, Th/tá Trần Văn Hợp v.v... đã “tử nạn” trong tù.

Thưa quý đọc giả.

Cực chẳng đã tôi mới phải cố gắng ghi lại ngắn gọn diễn tiến biến cố “Thuận An” để trả lời cho những vị có chồng, con, anh, em, “mất tích” tại đây vào những ngày cuối tháng 3/75. Mỗi lần nghĩ đến là đầu tôi bốc khói, nếu không kiềm chế để viết thì tôi dễ xúc phạm đến các thượng cấp có trách nhiệm về mạng sống của những nấm mồ như nấm mồ 132 bộ xương mà đồng bào thôn An Dương, Thuận An đã cải táng và vào thời điểm này (tháng 1/2011) các ân nhân ấy đang chuẩn bị lập Trai Đàn Chẩn Tế.

Dẫu biết rằng “thời thế thế thời phải thế”, không xoay đổi được vận nước, nhưng nếu như quý thượng cấp có trách nhiệm điều quân khiển tướng làm việc như những người lính chúng tôi, cùng lính chúng tôi chiến đấu, dẫu có thua, thì đâu xẩy ra những nấm mồ tập thể 132 bộ xương và còn bao nhiêu nữa đang nằm trong cát, dưới đáy biển Thuận An và khắp mọi miền đất nước!

Thưa quý vị có thân nhân nằm lại Thuận An cũng như tôi có anh em nằm lại đó mà chưa tìm ra tung tích thì hãy hãnh diện thay vì thương tiếc. Anh em họ sống chiến đấu bên nhau thì khi chết cũng nằm bên nhau, chung một nấm mồ tập thể ngay tại nơi họ đã chiến đấu, chắc những anh linh đó cũng chẳng muốn xa lìa đồng đội để về nằm riêng lẻ một mình. Xin nhớ đến các anh linh đã hy sinh cho chúng ta được sống, một lời cầu nguyện chung.

Nếu ai còn nhớ đến các anh linh tử sĩ thì hãy nhớ đến họ bằng câu kinh tiếng kệ, cây nhang, bó hoa, tùy lòng đóng góp cho Trai Đàn Chẩn Tế*. Hãy tin tưởng rằng không ai trong chúng ta, con dân VNCH, dám tìm danh lợi trên xác chết. Các anh sống khôn khi cầm súng chiến đấu thì thác cũng thiêng. Xin các anh phù hộ cho những người có tấm lòng, dù ở hải ngoại hay tại thôn An Dương, Thuận An, Huế.

(*TQLCVN tạm thời đã đóng góp 2 ngàn mỹ kim đến ban tổ chức Trai Đàn Chẩn Tế Những Anh Hùng Tử Sĩ VNCH)

Tô Văn Cấp 

__._,_.___

Posted by: Dan Vo 

THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH

 
     


NguyenKhacBinh.jpeg
Lê Xuân Nhuận và cựu Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình
 THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH

 
        VÀO một ngày không lâu sau Lễ Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp Đại-Tá (về sau là Chuẩn-Tướng) Huỳnh Thới Tây, Phụ-Tá Tư-Lệnh CSQG đặc-trách Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, cũng y như lần gọi tôi vào trình-diện, cuối tháng 9 năm 1973, để đưa tôi về Miền Trung.

        Tôi vừa bước vào văn-phòng là Đại-Tá Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của Chuẩn-Tướng (về sau là Thiếu-Tướng) Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia.
        Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:
        −  Chuẩn-Tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.
*
        Lúc đó, ngồi tại phòng-chờ ngay trước phòng-giấy của Tư-Lệnh CSQG đã có ba viên đại-tá đang bàn-cãi gì đó với nhau.
        Đó là các Đại-Tá (về sau là Chuẩn-Tướng) Nguyễn Văn Giàu, Phụ-Tá An-Ninh của Tư-Lệnh, và Trương Bảy, Phụ Tá Điều-Hành của Tư-Lệnh; cùng Đại-Tá Phạm Kim Quy, Trưởng Khối Tư-Pháp.
 
        Đại-Tá Giàu thì tôi đã gặp trước rồi.  Hồi mới từ Phủ Đặc-Ủy Trung-Ương Tình-Báo qua Cảnh-Sát Quốc-Gia, ra công-tác ở Vùng II, từ trên phi-cơ bước xuống sân-bay là ông liền bị xâm-xoàng; tôi, là người ra đón ônghầu như lần nào có việc gì liên-quan đến Quân-Lực hay quân-nhân là cấp chỉ-huy CSQG tại Vùng II đều cử tôi đại-diện đi dự họp, tiếp-xúc, v.v...tôi đã giúp đưa ông vào một phòng-ngủ trong khách-sạn Nha-Trang để ông nằm tạm nghỉ-ngơi.
 
        Đại-Tá Tây giới-thiệu tôi với họ:
        − Đây là Thiếu-Tá Lê Xuân Nhuận, Phụ-Tá Đặc-Biệt Khu I.

        Sau khi các ông bắt tay tôi xong, Đại-Tá Bảy tóm-tắt cho Đại-Tá Tây biết sự hiện-diện của họ tại đây, đại-ý là họ phải vào báo-cáo ngay cho Tư-Lệnh biết về cái Thông-Tư quy-định thể-thức giải-tán biểu-tình, vì Tư-Lệnh muốn đọc cho biết nội-dung, trong lúc cần phải có quyết-định gấp về trường-hợp của Thiếu-Tá Liên Thành, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Thừa-ThiênHuế, là người vừa mới đàn-áp một cuộc xuống đường do chính Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Chánh Xứ Phú-Cam, dẫn đầu.

       Đại-Tá Quy nói rằng mình mới nhậm-chức, nên không biết về cái Thông-Tư ấy, bảo các phần-hành tìm thì tìm không ra.
        Đại-Tá Giàu nói là vấn-đề cần phải được giải-quyết ngay, vì phía Hội-Đồng Giám-Mục, Tòa Tổng-Giám-Mục, nhất là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì đang gây áp-lực nặng-nề lên Chính-Quyền.
 
        Tôi lợi-dụng cơ-hội nói với Đại-Tá Giàu:
        − Thưa đại-tá, trong vụ vừa rồi ở Huế, Thiếu-Tá Liên Thành đã làm đúng thủ-tục quy-định trong Thông-Tư Liên-Bộ.
        Đại-Tá Giàu nhìn các Đại-Tá Bảy, QuyTây, nhún vai.
 
        Tôi quay qua nói với Đại-Tá Tây rằng bức Thông-Tư Liên-Bộ ấy (Bộ Nội-Vụ, Bộ Tư-Pháp, và Bộ Quốc-Phòng) hiện có tại Ngành Đặc-Biệt của mình.  Ông hỏi lại tôi có chắc hay không, ở đâu; tôi đáp là tại E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính) của Trung-Tá Phạm Văn Ca; vì tại cấp Vùng tôi đã nhận được một bản sao từ nơi đó gửi ra.
 
        Đại-Tá Giàu liền nhờ Đại-Tá Tây đi lấy giùm.
        Đại-Tá Tây bảo tôi ngồi chờ, rồi cả bốn ông cùng rời phòng-chờ, xuống lầu...
*
        Ngồi một mình, tôi vẩn-vơ suy-nghĩ xem những gì có thể sẽ xảy ra cho tôi.
 
        Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình là một người rất “dữ”, có thể nói là “độc-tài”.
 
        Trước khi ông qua Cảnh-Sát Quốc-Gia, Trung-Ương cũng như các Địa-Phương đều được tự-do báo-chí.
        Nhiều cấp Vùng, Tỉnh, đã có ấn-hành những đặc-san, nội-san, thư tin, v.v...  Nhưng ông ra lệnh từ nay cấm hết.
        Tại Bộ Tư-Lệnh CSQG có tờ báo “Bạn Dân”, ra đời từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa.  Dưới thời Đại-Tá Tổng-Giám-Đốc Nguyễn Văn Y, Chánh Văn Phòng [thay vì Phó Tổng-Giám-Đốc] Nguyễn Văn Hay, chính tôi cũng đã có nhiều bài được nhận đăng trên đó, kể cả mấy bài có vẻ... chướng tai.  Bây giờ thì “Bạn Dân” là tờ báo duy-nhất được tồn-tại, nhưng số đặc-biệt Xuân 1973 thì mãi đến Xuân 1974 mới được phát-hành.
 
        Các vị soạn-thảo bản văn cải-tổ Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia, hẳn không rành về nguyên-tắc hành-chánh, nên trong Sắc-Lệnh số 17A/TT/SL ngày 1-3-1971, biến Tổng-Nha CSQG thành một Bộ Tư-Lệnh, ngang hàng các Bộ khác trong Nội-Các, tức là tách rời khỏi Bộ Nội-Vụ, nhưng đã không có một khoản nào nói về ngân-sách, cho nên ngân-sách của Bộ Tư-Lệnh CSQG vẫn còn nằm trong ngân-sách của Bộ Nội-Vụ.  Tết năm 1974, các vị bên Bộ Nội-Vụ giở lý, bắt bí, đòi phía CSQG phải nhượng bớt cho họ một phần, nếu không thì họ không chịu ký chuẩn-chi cho.  Các cấp liên-hệ bên CSQG thì sợ, không dám trình nội-vụ lên Tư-Lệnh Nguyễn Khắc Bình.  Báo hại, suốt cả tháng trời Cảnh-Sát Quốc-Gia cấp dưới không có xăng cho xe chạy; các Bộ Chỉ-Huy địa-phương phải dàn-xếp với các nhà thầu để mua chịu xăng cho cảnh-xa...
 
        Ông ở trên cao, có những sự việc cấp dưới không dám trình lên nên ông đâu hay... .
*
        Khi ba viên đại-tá ấy từ văn-phòng Tư-Lệnh bước ra, Đại-Tá Tây ra hiệu cho tôi cùng đứng dậy để chuẩn-bị đến phiên mình vào.
        Đại-Tá Bảy chỉ vào cái cặp hồ-sơ đang cầm trên tay (tôi đoán là vụ đàn-áp biểu-tình ở Huế), nhìn Đại-Tá Tây, lắc đầu... .
 
        Đại-Tá Tây đưa tôi vào gặp Chuẩn-Tướng Bình.

        Trong cuộc gặp mặt này, Đại-Tá Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.
 
        Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình tôi, xong Tướng Bình nói:
        Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, anh nghĩ sao?
 
        Tôi không nghĩ sao hết.
        Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngán từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi.  Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
 
        Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, xáo-trộn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu.
        Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bểkể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó, vì chống độc-tài Nhà Ngô, vào năm 1960bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
 
        Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, Chuẩn-Tướng Bình và Đại-Tá Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao.  Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn.
        Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”.  Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
 
        Tôi đáp:
        Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.
        Cả Chuẩn-Tướng Bình lẫn Đại-Tá Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên.

        Tướng Bình hỏi tôi:
        Tại sao anh không thích ra Huế?

        Tôi nghĩ ngay đến trách-vụ ổn-định tình-hình nội-chính ở Miền Trung mà Trung-Ương đã giao cho tôi, nhất là ở Huế, mà cụ-thể là chồng đơn/hồ-sơ khiếu+tố dày thịch từ Huế mà tôi đã tế-nhị xin giao qua cho phía An-Ninh Cảnh-Lực nhận-hành năm ngoáinhưng thực ra các vụ-việc vẫn chưa hẳn đã được giải-quyết trôi tròn.

        Tôi thực tình trả lời Chuẩn-Tướng Bình:
        Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-thứ thì không được, nhưng ra tay thì sẽ bị xem là trả thù hoặc trở mặt, e không trọn tiếng với đời...

TrungTri.jpg

           Phóng-ảnh trang 229 “Về Vùng Chiến-Tuyến” (1996)
 
        Tướng Bình hỏi tiếp:
        Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?

        Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn.  Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh.  Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng:  “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!”ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì...  Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là... khiêm-tốn:
        Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào.
 
        Nói xong, tôi tự thấy là mình đã lỡ lời.
        Nhưng Tướng Bình gật đầu.  Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật.
        Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:
        Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?
 
        Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời khôn quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam.  Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình.  Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.       
        Ông liền nói tiếp:  
        Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.
 
        Đến tận nước này thì thật quá lắm.  Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát toàn-quốc, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Trung-Ương Tình-Báo, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình!  
        Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
  
        Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên?  Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn?  Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở trách-vụ và hoạt-hạt hiện-thời?  Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang
        Tôi bèn hỏi lại:
        Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?

        Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:
        Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!

        Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên Quảng-Nam.  Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:
        Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng...

        Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:
        Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên... .
*
        Chuẩn-Tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác.  Ông hỏi tôi:
        Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
        Tôi đáp:
        Tôi là người không đảng-phái.
        Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:
        Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?
 
        Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản. 
        Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề? 

        Tôi đành trả lời ngắn gọn:
        Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy polygraph dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy, chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.
 
        Tướng Bình lại đổi đề-tài.  Ông hỏi tôi:
        Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?
 
        Thì ra Cấp Trên vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy. 
        Tôi đáp:
        Lê Văn Hảo là em-khác-mẹ của vợ tôi.
        Ông hỏi thêm:
        Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?
        Tôi trình-bày:
        Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên Trung-Tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tư-Lệnh/Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương; Trung-Tá Mâu nói rằng:  “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!”  Đương-nhiên TrT. Mâu và CSĐB Trung-Ương đã cho mật theo-dõi vụ này.  Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.
 
        Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này Chuẩn-Tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi.
        Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung?
        Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi?
        Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì?
        Hay là mãi đến gần đây mới biết?
 
        Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của Thiếu-Tướng Hoàng Văn Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi Đại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I An-Ninh Quân-Đội, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộngcác quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhânĐại-Tá Nhơn đã nói:  “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”.
       Năm người hiện-diện là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I; Đại-Tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; Trung-Tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; Đại-Tá Nhơn, và tôi.
       Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?
 
        Hẳn là Tướng Bình có được “Người Bạn Đồng-Minh” [tên gọi mới của cố-vấn CIA] cho biết, vì chính tôi đã đích-thân kể rõ mối liên-hệ ấy với “Người Bạn Đồng-Minh” của tôirồi NBĐM Vùng I báo-cáo lên NBĐM Trung-Ương, rồi vị này báo lại cho Tướng Bình, nên ông đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp nghe cho rõ hơn?
 
        Nguyên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Ðặc-Biệt Trung-Ương có khám-phá ra được một Cụm Tình-Báo Chiến-Lược của Cộng-Sản Bắc-Việt hoạt-động tại Miền Nam.  Cũng như Vũ Ngọc Nhạ của cố Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, Huỳnh Văn Trọng, là Phụ-Tá của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, bị lột mặt nạ là cán-bộ nội-tuyến của đối-phương.  Trong việc lùng bắt đồng-bọn tại địa-phương, Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh hồi đó tại Vùng I là Chủ-Sự Phòng Cảnh-Sát Đặc-Biệt Lê Đình Khôi nguyên là một cán-bộ VC hồi-chánh vì đã “sơ-xuất để cho cán-bộ của địch tại địa-phương lọt lưới” nên bị nghi là Việt-Cộng nằm vùng.  Khôi bị Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia cất chức, tạm giữ để điều-tra suốt nhiều tháng, xong cho trở về tiếp-tục làm việc tại cơ-quan cũ, là Ngành Đặc-Biệt Vùng I, bây giờ ở dưới quyền tôi*.
         -------
        *Sự Thật là Lê Đình Khôi phải trả tự-do cho một nữ cán-bộ VC theo lệnh của cấp chỉ-huy trực-tiếp, hồi đó là Kiểm-Tra Võ Lương, Giám-Đốc Nha CSQG Vùng I (mà theo dư-luận thì ông này đã có quan-hệ riêng-tư với ả-ta).  Sau vụ đó thì chính Ô. Võ-Lương cũng đã rời khỏi Vùng I, về Sài-Gòn.

        Lê Đình Khôi hồi đó tạm-trú tại nhà của Ô. Lê-Văn Tập, một phú-gia tên-tuổi của Thành-Phố Ðà-Nẵng, bạn thân của thân-phụ Khôi.  Ô. Tập, có ba bà vợ, có mấy người con-gái trẻ tuổi cùng ở tại đây.  Do đó, nhân-viên điều-tra tưởng rằng Khôi là con-rể trong nhà này.  Nay tôi mới đến, vì chưa có chỗ ở, nên cũng tạm-trú tại đó, là nhà của nhạc-phụ tôi.  Vì thế, khi Người Bạn Ðồng-Minh muốn tìm hiểu tôi, mà cách hay nhất là nhờ chính các nhân-viên Đặc-Cảnh bí-mật điều-tra giùm, thì kết-quả là tôi trở thành anh-em-cột-chèo với Khôi, người đang bị theo-dõi vì bị nghi là nội-tuyến của đối-phương.

        Tôi được thân-tình-viên trong nội-bộ cơ-quan CIATòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Đà-Nẵng cho biết, rằng Người Bạn Đồng-Minh Vùng I của tôi, là Đại-Tá Kenneth Ferguson, cũng có giao cho Người Bạn Đồng-Minh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đảm-trách việc điều-tra này, vì ngại nhân-viên Đặc-Cảnh trong này [Đà-Nẵng] thiên-vị về tôi, và trước kia tôi và vợ tôi ở Huế, mà gia-đình Ô. Lê Văn Tập cũng như Lê Đình Khôi cũng đều gốc Huế.
        Người Bạn Đồng-Minh ngoài đó đương-nhiên phải nhờ Ngành Đặc-Biệt đồng-cấp [cấp tỉnh/thị] của mình; như thế thì hẳn nhân-viên của Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế đã vào Đà-Nẵng mò-mẫm dò-la.
 
        Tôi biết được điều đó, nên đặt thẳng vấn-đề với Ferguson.

        Các cô em của vợ tôi hồi đó còn đi học, mà nhà Ô. Lê-Văn Tập là nhà lớn, có lầu, có sân, ở giữa thành-phố, nên vào buổi chiều, nhất là vào các ngày cuối tuần, có khá nhiều bạn học đến chơi, người ngoài không phân-biệt được ai là con, ai là bạn của con ông.  Lê Đình Khôi là con của Ô. Hường [Hồng Lô Tự Khanh] Loan (bạn của Ô. Tập) đã cưới một cô trong số các cô nữ-sinh ấy, không phải là con của Ô. Tập, nên Khôi không phải là rể của Ô. Tập, tức Khôi không phải là anh-em-cột-chèo của tôi.

        Tôi cho Ferguson xem hồ-sơ của Khôi, với giấy giá-thú, tờ khai lý-lịch, chứng-minh là vợ đương-nhân không có họ-hàng gì với gia-đình vợ tôi.  Ferguson vừa mừng-rỡ cám ơn tôi, vừa luống-cuống ghi-chép những điểm cần; tôi đoán là anh đang lựa lời để biện-minh cho việc-làm của mình, mà suýt nữa là phạm phải lỗi-lầm.  Cuối-cùng, không thể dối lòng, anh thú-nhận:
        – Tôi tưởng là anh lọt vào lưới tôi, nhưng chính là tôi lọt vào lưới anh!
        Ðó là câu nói chống-chế xã-giao, nhưng nó bộc-lộ đức-tính sòng-phẳng của Người Bạn Đồng-Minh của tôi.
 
        Tiếp theo, tôi cho Ferguson biết thêm về một mối liên-hệ khác trong gia-đình vợ tôi, quan-trọng hơn cái mẩu tin dởm về anh-em-cột-chèo.
        Ô. Lê Văn Tập, cha của vợ tôi (đã qua đời vào năm 1968), là thân-phụ của Tiến-Sĩ Lê Văn Hảo, Chủ-Tịch “Ủy-Ban Nhân-Dân Cách-Mạng Tỉnh Thừa-Thiên / Thành-Phố Huế” vào vụ Tết Mậu-Thân.
        Vợ tôi là chị-khác-mẹ của Hảo, chứ không phải là một trong số các cô em.
        Lê Văn Hảo đi du-học Pháp từ nhỏ, tốt-nghiệp năm 1965, về nước dạy tại các Viện Ðại-Học Sài-Gòn, Đà-Lạt, và Huế, rồi vào trước vụ VC tổng-công-kích Tết Mậu-Thân 1968 tại Huế thì vào rừng với đối-phương.
 
        Trước kia, vợ tôi ở với mẹ ruột tại Huế, còn Hảo thì ở Châu Âu.
        Sau ngày Lê Văn Hảo* hồi-hương thì Hảo chỉ ở Sài-Gòn Huế, còn tôi [cùng với vợ tôi] thì bị cầm chân trên Cao-Nguyên (Darlac, Quảng-Đức, Pleiku) từ năm 1960.
        -------
        *Đã bỏ VC qua tị-nạn chính-trị tại Pháp từ năm 1989 và đã chết rồi.           
 
        Tóm lại, vì biết em mình hoạt-động cho VC nên vợ tôi không liên-lạc hỏi-han gì, còn tôi thì chưa hề gặp mặt Hảo cho đến tận ngày hôm nay.
 
        Ðó là tin-tức sốt dẻo anh-rể thật-sự của một nhân-vật cộng-sản quan-trọng hiện-thời có giá-trị gấp bội phần so với trường-hợp của Lê Đình Khôi chỉ là một viên-chức bị nghi, mà mấy tên gà-mờ gán cho là “anh-em-cột-chèo” với tôi.
 
        Tất-nhiên Ferguson đã cho tái-kiểm-chứng, và đã có được sự thật một cách đơn-giản, nhanh-chóng, dễ-dàng.
 
        Từ đó, anh cởi-mở và tận-tụy với tôi hơn bao giờ.
 
        Nhưng cũng từ đó tôi phải khổ nhọc với công-vụ hơn bao giờ, vì phải đương-đầu nhiều hơn với cả khách ngoài ngành cũng như bạn trong nghề, trong lúc còn phải đối-phó với quân thù cả đằng trước mặt lẫn đằng sau lưng*.
 
        -------
        *Sự-việc này đã được kể lại trong cuốn “Về Vùng Chiến-Tuyến” do Nhà “Văn Nghệ” xuất-bản năm 1996 (trang 302-03).  
Bỗng-nhiên, trên diễn-đàn vô-tuyến “PalTalk” vào ngày 23-8-2010, cựu Thiếu-Tá Liên Thành, cựu CHT/CSQG Thừa-ThiênHuế, đã phát-biểu rằng Phan [thay vì Lê!] Xuân Nhuận, ở cương-vị Trưởng Ngành Đặc-Biệt Vùng I, ‘đã bị sa-thải khỏi cơ-quan Cảnh-Sát Quốc-Gia một thời-gian, vì đã thả một cán-bộ VC, có liên-hệ gia-đình với CS (có vợ là em của Lê Văn Hảo)’, v.v...
        Lê Xuân Nhuận đã cải-chính nhưng Liên Thành vẫn giữ nguyên lời “tố-cáo” của mình.

LeVanHao.jpg

           Phóng-ảnh trang 303 “Về Vùng Chiến-Tuyến” (1996)*
        -------
        *Xin lưu ý là Lê Đình Khôi cầm đầu Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng I Chiến-Thuật vào thời Kiểm-Tra Võ Lương làm Giám-Đốc CSQG Vùng I Chiến-Thuật (từ 1966) rồi đến Thiếu-Tá Hồ Anh Triết làm Trưởng Ngành Đặc-Biệt Vùng I vào thời Đại-Tá Dương Quang Tiếp làm CHT/CSQG Vùng I còn Lê Xuân Nhuận thì mãi đến cuối năm 1973 mới “về Miền Trung” vào thời Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc.
        Vậy thì: KhôiNhuận cách nhau 2 “thời”, vào khoảng 5 năm:
        Rõ là “rứt râu cha nọ cắm cằm mẹ kia!”
 
        Tôi trình-bày lại rõ-ràng chi-tiết việc đó với Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình [và Đại-Tá Huỳnh Thới Tây]*.
        -------
        *Phải chăng Người Bạn Đồng-Minh Vùng I đã không cho NBĐM Thừa-ThiênHuế biết; hoặc có cho biết, nhưng NBĐM ngoài đó không báo lại cho phía CSQG/CSĐB đồng-cấp biết hoặc có thông-báo, nhưng vì lý-do nào đó, tỷ như ngôn-ngữ (người Mỹ ít khi nhấn mạnh “elder” hay “younger” brother/sister) nên người nghe không còn nhớ đúng về việc Lê Văn Hảo là “em-khác-mẹ”, chứ không phải là “anh” của vợ tôi.

        Bỗng tôi giật mình.  Phải chăng Cấp Trên không chỉ nghi tôi vì tôi có thân-nhân là Việt-Cộng, mà lại nghi tôi vì tôi “lý-tưởng” quá chừng:  không cần phe-phái, không màng cấp-chức, không thèm lợi-lộc, mà vẫn phục-vụ tận-tụy và hữu-hiệu hơn người?  (Tôi đã có nghe Trung-Tá Nguyễn Hữu Hải, Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, kể lại rằng, trong một cuộc họp tại Trung-Ương, Đại-Tá Huỳnh Thới Tây khi đề-cập đến tôi, đã khen-ngợi tôi không tiếc lời, đồng-thời lại đặt câu hỏi: “Quái! Sao thằng Nhuận nó tài đến thế!”)
*
        Ngưng một lát, Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình chuyển sang vấn-đề khác:
        Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?

        Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi.
        Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:
        Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “Chính-Quyền bắt cóc Sinh-Viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung.
        “Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình.  Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản trong giới giáo-chức, sinh-viên & học-sinh ở nội-thành rồi”*.
        -------
        *Xem các trang 269 và 279.

        Về phần nội-chính?
        Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm:  đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.

        Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.
        Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân.  Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, Đại-Tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và Giáo-Sư Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư.  Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm.
        “Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
        “Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.
        “Trên hết, chính tôi đã gặp, trực-tiếp nói chuyện với Thượng-Nghị-Sĩ Vũ Văn Mẫu, Giáo-Sư Võ Đình Cường, và các tay cầm đầu, nên biết ý-đồ của họ, và tôi đã có trình lên thiếu-tướng rồi.”
        Anh có chắc-chắn là không có gì đáng lo?
        Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, như họ đã cam-kết với tôi, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-biến gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới, như họ đã nói rõ với tôi.  Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước...
 
        Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?
        Tôi tin là Thiếu-Tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông “sống đời công-chính theo lời Chúa dạy”, sẽ “rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào”, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:
        Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch gì; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Kitô-Giáo*; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình.
        -------
        *Một số nhân-vật chính-đảng và tổ-chức khác có tham-gia vào, nhưng không đáng kể so với đại-khối hơn 301 linh-mục.

        “Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát [do Thiếu-Tá Liên Thành chỉ-huy] đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền.  Đó là một bước dò đường.  Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước.  Từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam, khởi-xướng.
        “Tại Thủ-Đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do Linh-Mục Trần Hữu Thanh phát-động.
        “Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các Ban Tổ-Chức biểu-tình cũng không nắm vững thành-phần tham-gia.  Và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần bị họ chống, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
        “Tóm lại, ‘Phong-Trào’ không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Kitô.”

        Chuẩn-Tướng Bình nhắc tôi:
        Tổng-Thống [Nguyễn Văn Thiệu] cũng là...
 
        Tôi thấy ông có vẻ thực tình muốn biết Sự Thật nên tôi trình-bày:
        Nhưng có một số phần-tử phân-biệt “đạo dòng” với “đạo theo*.  Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia.  Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm.  Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Kitô tỷ như gia-tăng tín-đồ mà lại lập một đảng riêng là Đảng Dân-Chủ, nên họ bất-mãn.  Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này. 
        -------
        *Trong quan-điểm đó, mãi đến thế-kỷ 21, nhà văn Nguyễn Văn Lục còn phát-biểu về Cựu-Hoàng Bảo-Đại như sau:
        “Bản thân Bảo Đại là người gốc Phật giáo, cái nhãn hiệu Thiên Chúa giáo bất quá chỉ là ‘đạo theo’ cho có lệ, và chính thức ông chưa hề bao giờ là người Thiên Chúa giáo.”

        “Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú-Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi trình thiếu-tướng, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề:  một đoạn Linh-Mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh...”, và một đoạn ông cay-đắng phân bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái “ngài” Đại-Tá Tôn Thất Khiên ấy, cái “đấng” Tỉnh-Trưởng Tôn Thất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi lấy một lần...”
 
        Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:
        Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.
        Ông hỏi tiếp tôi:
        Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?
 
        Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào.  Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương.  Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm:  các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ven-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp.  Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình.  Tổ-chức của nhóm các Linh-Mục Trần Hữu Thanh Nguyễn Kim Bính là “Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng để Cứu Nước và Kiến Tạo Hòa Bình”.  Một số tín-đồ Kitô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi.  Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động.  Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người mà họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người ấy thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây.  “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua.  Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, chỉ nhìn vào tấm ảnh “dân-biểu mà cũng còn bị đánh ngã giữa đường” thì rất bất-lợi cho ta.
        “Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh:  kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định*, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên*, vừa qua, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công.  Trung-Ương cũng khó tiếp tay:  chỉ nội một vụ ở Chùa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn lên; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
        -------
        *Xem sách “Cảnh-Sát-Hóa...” của Lê Xuân Nhuận.

        “Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”.  Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết (vì Sư-Đoàn của Tổng-Thống là lực-lượng chủ-yếu tấn-công Dinh Gia-Long), nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa.
        “Trong lúc đó, ‘Phong-Trào đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Kitô-Giáo thí-dụ Đảng Đại-Việt để cùng hưởng-ứng ‘Phong-Trào’.
        “Việt-Cộng thấy rõ ‘Phong-Trào’ là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng.
        “Chúng sẽ có thể trà-trộn xúi-giục chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền...”
 
        Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?
 
        Tôi nghĩ đến mối ác-cảm của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đối với Đại-Tá Tỉnh/Thị-Trưởng Tôn Thất Khiên, vì đã “chưa hề đến thăm hỏi” ông lần nào, và mối căm-thù của ông đối với Thiếu-Tá Liên Thành, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG địa-phương, vì đã “đàn áp cuộc xuống đường” do chính ông dẫn đầu, và chương-trình hành-sự của tôi.

        Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Kitô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế...
 
        Thiếu-tướng Bình và Đại-Tá Tây nhìn nhau.
 
        Tôi nói tiếp liền:
        Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề.
        “Nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam...”
*
        Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào “Ngày Cảnh-Lực1-6-1975.

        Tôi cùng Đại-Tá Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ.
        Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các viên-chức khác, ngang tôi, kể cả cao cấp hơn tôi, cũng không có được đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi.  Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở, vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung tất-nhiên với sự tán-đồng của Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình.

        Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
        Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi.  
 
        Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, Đại-Tá Tây nói với tôi:
        Qua Sắc-Phục thì có tiền...
 
        Câu nói ngắn-ngủi mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ.
        Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang… .
*
        Tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay Đại-Tá Tôn Thất Khiên và Thiếu-Tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.
        Tân Tỉnh/Thị-Trưởng là Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ.
 
        Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa Thiếu-Tá Liên-Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh.*
        -------
        *Xem “Trung-Tá Hoàng Thế Khanh”, trang 367.

        Những lần trước, tôi có thể ở lại với gia-đình vài ngày; vì tuy ở xa nhiệm-sở, dù ở Tỉnh/Thị/Quận nào khác, kể cả những ngày ở Sài-Gòn và ở Nha-Trang, nhưng qua một hệ-thống liên-lạc đặc-biệt mà tôi đã tự mình sắp-xếp và đặt trong tình-trạng thường-trực 24/7, tôi vẫn liên-tục trực-tiếp điều-khiển và giải-quyết mọi việc ở cơ-quan.
 
        Lần nầy thì tôi phải gọi Hãng Hàng-Không Air Vietnam yêu-cầu dành chỗ ưu-tiên để sáng hôm sau tôi ra Đà-Nẵng ngay**.

        -------
        **Bản gốc Chương này đã được in trong cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” do Nhà “Văn Nghệ” ở Nam California, USA, xuất-bản năm 1996, nay được in lại, giữ nguyên tất cả các sự-kiện và nội-dung cốt-yếu chỉ thêm vào một số hiệu-đính, phụ-chú, giải-thích cho đầy-đủ và rõ-ràng hơn mà thôi.


LE XUAN NHUAN









__._,_.___

Posted by: Nhuan Xuan Le 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List