Posted
on 01/11/2011 by
Lê Thy
Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ
Trích:
phần III -8 NGÔ-ĐÌNH-DIỆM và
CHÍNH-SÁCH DÂN-TỘC
(Minh Võ)
Như đã hứa,1 ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
1.
Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An
với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải.
Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên
huyện Nam Đàn về phía núi.
2.
Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên
hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi
được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế
có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích,
giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một
phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là
hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)
3.
Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của
Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất
Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế,
để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều
này có đúng không?
Đáp: Đúng.
Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan
cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ
khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài
thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy
có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.
4.
Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của
Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được
gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có.
Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị
chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ
cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả
Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này,
ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức
thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành
công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5.
Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu?
và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy
tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính
quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người
Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình.
Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó
hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi
mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt
Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người
biết Việt Minh là Cộng Sản.
6.
Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có.
Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được
hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc
ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao
ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này
tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên
Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi
biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và
quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với
Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
7.
Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì
chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá
nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng
tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…
8.
Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền
khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và
đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà
trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê
Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản
chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu
Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9.
Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36
nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ
không?
Đáp: Tôi
còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc
Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy
Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán
tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với
thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng,
với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi
nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo.
Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là
những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng
Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng
Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi
Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động
từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn
Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.
10.
Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn
và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng
tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu
năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở
chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho
chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có
chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả
Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê
Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới
chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức
Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn
Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng
tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm
1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy
não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà
các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố
cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông
hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội
cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy.
Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất
thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.
11.
Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối
năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới
thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần
lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng
bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã
Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du..
12.
Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình
Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn
Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí
Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy
ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể
để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao
nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy
chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là
chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên,
hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực
khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay
quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách
là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy
thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì
ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc
theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có.
Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan
trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh
tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một
mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.
13.
Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về
Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức
này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ,
để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.
Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và
chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và
khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân
quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và
tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không
bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân
soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính
phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc
thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là
tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông,
giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được
quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc”
trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp
đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những
hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho
Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc
sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao,
nằm trên đất.
14.
Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra
sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai
người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc
Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà
gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của
Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới
thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh
nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông
Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh
Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có
người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông
Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như
Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là
cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm
mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống
Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do
một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
15.
Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong
đảng Cần Lao không?
Đáp: Không.
Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và
Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao
nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp
để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo
là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một
trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống:
Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì.
Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh…
Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói:
giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và
những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.
16.
Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình
Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều
người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với
cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm
chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu
ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ
tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã
thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes.
Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt.
Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình
thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì
tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng
nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể
họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc
trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp
hóa hành động của chúng tôi.
17.
Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963,
Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc
Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn
toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ
chức phi vũ trang mà.
18.
Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm
Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với
ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông
Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này
không?
Đáp: Không
cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ
để vậy để theo dõi.
19.
Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở
Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy
thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng
quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu
bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng
chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì
ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng
hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ
rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu
cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó
chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người
dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ
đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông
có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều
lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu
bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi
cho dân qua lại tự do
- Thứ
3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ
4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của
miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và
sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự
đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự
do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu
người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất
cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân
số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam
thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì
chắc mình sẽ thắng.
20.
Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng
quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến
Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp
thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ
nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với
ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong
việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu.
Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều
lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho
biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle
giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại
hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can
thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau
chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.
21.
Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có
điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.
22.
Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống
đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính.
Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy
tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe
điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì?Ở với tôi bấy lâu mà không
hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân
đội là cách bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh
lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng
đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn
nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh
Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước
Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.
Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên
tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích
thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo
cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại
đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống
để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn
là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như
vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề
nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu
tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu
từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó
hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.
23.
Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai
có khả năng nhất?
Đáp: Tôi
hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như
chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy
mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó
sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm
mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững
tình hình và nhất là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân
sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông
đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch
Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên
cứu trình lên.
24.
Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp
lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông
nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở
Seattle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được.
Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu.
Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi
biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ
hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm
1960, mà hông đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu
sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà
Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận
tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã
viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống
như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc
giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.
25.
Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ
Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm
tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy
nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta
phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử
của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy
người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi phải trả lời cho họ
chứ.
26.
Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông
bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân
mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có
biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của
miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề
nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía
ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc.
Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.
27.
Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và
trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa
chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông
vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi
quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy
Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa
Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng,
các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác
cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn
cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn
Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng
bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những
yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không
giúp gì được với tư cách là một Phật tử.
28.
Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là
tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không
biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông
ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành
nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng
Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao
găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử”
của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại
trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn
tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương
Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành).
Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì
không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.
29.
Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là
trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi
của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi
cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài
điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục
vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ
đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay
thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm
no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai
ông tôi mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi
từ biệt ra về.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết