Giới Thiệu
Sách Mới:
Chiến Tranh 1946-1954
Từ Chiến Tranh Việt Minh-Pháp
Đến Chiến Tranh Ý Thức Hệ Quốc-Cộng
Nguyễn Đức
Bộ sách Việt Sử Đại Cương tập I
của tác giả Trần Gia Phụng ấn hành năm 2004 và trong mười năm qua đã xuất bản 6
tập kế tiếp theo dòng lịch sử từ thượng cổ đến hiện đại. Trong hai thập niên
qua, tác giả Trần Gia Phụng đã viết nhiều quyển sách liên quan đến lịch sử Việt
Nam, và quyển sách mới của tác giả tựa đề là “Chiến Tranh 1946-1954” và phụ đề
là ”Từ chiến tranh Việt Minh-Pháp đến chiến tranh ý thức hệ Quốc-Cộng”, vừa ấn
hành vào đầu năm 2018.
Mở đầu sách, tác giả đặt Việt
Nam trong khung cảnh quốc tế, từ khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945,
trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Thoát cảnh Pháp thuộc, vua Bảo Đại và chính
phủ Trần Trọng Kim đang cố gắng xây dựng đất nước thì Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản cướp chánh quyền.
Tác giả đưa ra những tài liệu
cho thấy rằng nhờ cộng tác với cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh biết
tin tức thời sự, từ việc Mỹ thả bom nguyên tử ở Nhật, Nhật đầu hàng Đồng minh,
đến việc Anh và Trung Hoa đem quân vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật, nên Việt
Minh vội vàng cướp chính quyền, chuẩn bị cơ sở chính trị và hành chánh trước
khi quân Đồng minh đến Việt Nam, để nói chuyện với Đồng minh. Trước đây, Việt cộng
ca tụng rằng Hồ Chí Minh nhạy bén về chính trị, tiên đoán được thời cuộc, nay
thì hóa ra chỉ là nhờ tình báo OSS Mỹ.
Theo tác giả, khi quân đội Pháp
tái chiếm Việt Nam năm 1945, đất nước lâm nguy, nhưng Việt Minh cộng sản không
chống Pháp, mà nhượng bộ Pháp, để được tiếp tục cầm quyền. Khi Pháp đòi nắm quyền
kiểm soát an ninh Hà Nội, Việt Minh sợ bị Pháp tóm cổ, nên Việt Minh mở cuộc tấn
công Pháp để có lý do chạy thoát khỏi Hà Nội, rồi Việt Minh gọi là toàn dân
kháng chiến chống Pháp.
Như vậy theo tác giả, Việt Minh
chống Pháp vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải vì tổ quốc lâm nguy. Cũng theo
tác giả, nếu Pháp để cho Việt Minh tiếp tục cầm quyền, Việt Minh không lâm
nguy, thì Việt Minh không chống Pháp. Vì vậy tác giả gọi đây là chiến tranh giữa
Việt Minh thuộc đảng cộng sản Đông Dương với Pháp, chứ không phải chiến tranh
giữa dân tộc Việt với Pháp. Việt Minh lợi dụng chiêu bài kháng chiến chống Pháp
để giành lấy chính nghĩa cho cuộc chạy trốn của Việt Minh.
Cũng theo tác giả, sau khi cầm
quyền năm 1945, Việt Minh chủ trương độc quyền cai trị đất nước, tiêu diệt tất
cả những thành phần dân tộc, không theo Việt Minh, nên những thành phần nầy quy
tụ theo cựu hoàng Bảo Đại, liên kết với Pháp, thành lập Quốc Gia Việt Nam, chống
Việt Minh cộng sản. Từ đó, chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp biến thành chiến
tranh giữa Quốc gia với cộng sản, nên gọi là chiến tranh ý thức hệ quốc-cộng.
Đề tài chiến tranh 1946-1954 đã
được nhiều người viết, nhưng sách nầy đưa ra một cách nhìn mới, một cách giải
thích mới, có tính cách khai phá mới về những sự kiện trong giai đoạn nầy, nhất
là tác giả đưa ra những tài liệu mới phô bày những mưu mô trong chiến tranh mà
lâu nay cộng sản che đậy và bóp méo.
Cũng trong cách nhìn mới nầy,
tác giả luôn luôn đặt vấn đề Việt Nam trong toàn bộ hoàn cảnh chính trị và quân
sự quốc tế. Có những chương trong sách khá đặc biệt cho thấy điều nầy, như
chương “Việt Nam trên bàn hội nghị quốc tế”, hoặc “Việt Minh và OSS”, hoặc
chương “Sự thành lập chế độ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”... Những chương như thế
giúp soi rọi và làm rõ giai đoạn lịch sử trong sách.
Trong sách nầy có một chương rất
hữu lý nhưng chẳng giống ai, vì từ xưa tới nay chẳng có ai viết về vấn đề mà
tác giả đặt ra. Đó là chương “Tình hình dân chúng và điều kiện thiên nhiên”.
Trước đây, cộng sản thường xuyên tuyên truyền rằng toàn dân Việt Nam lên đường
hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác giả viết ra chương nầy để đặt một
câu hỏi thật đơn giản là lúc chiến tranh xảy ra năm 1946, thì thành phần toàn
dân mà cộng sản tuyên truyền là những ai?
Phân tích của tác giả cho thấy
là toàn dân không theo kháng chiến.. Dân chúng vẫn sống phây phây đông đúc
trong các thành phố do Pháp kiểm soát. Các thành phố như Hà Nội, Sài Gòn, Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang vẫn đông đúc, có khi còn đông đúc hơn trước chiến
tranh, vì người ta về thành phố tránh lửa đạn. Những người lớn tuổi đã sống qua
thời kỳ nầy có thể thấy rõ điều tác giả trình bày.
Còn dân nông thôn thì phải bám
đất mà sống tại chỗ. Đất đai là tài sản vốn liếng của nông dân. Nông dân ở yên
tại chỗ, khai thác đất đai, trồng trọt để mà sống, nên không chạy đi đâu được.
Dù muốn chạy cũng không có tiền mà chạy. Dân nông thôn đành phải chết cứng tại
thôn làng, không theo Việt Minh thì cũng bị Việt Minh nắm đầu cai trị. Việt
Minh buộc làm gì là phải làm ngay. Nếu không thi hành, sẽ bị Việt Minh đấu
tố, thủ tiêu. Dân nông thôn lại đông đúc, nên Việt Minh hô hoán lên là toàn dân
kháng chiến.
Những điều kiện thiên nhiên nước
ta như núi đồi hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, nắng nhiều mưa nhiều, rừng cây rậm
rạp, ảnh hưởng rất lớn đến chiến tranh, nhất là chiến tranh du kích của Việt
Minh. Chẳng những khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt với lính Pháp, mà muỗi mòng, vắc,
bù chét cũng gây khó khăn không ít cho lính viễn chinh. Cũng có lý đấy chứ.
Chương nầy đúng là một cách nhìn mới, giải thích vì sao cộng sản lợi thế trong
chiến tranh du kích, sẽ làm cho sách của tác giả khác hẳn với các sách trước
đây.
Chẳng những đưa ra một cách
nhìn mới về chiến tranh 1946-1954, tác giả còn đưa ra nhiều tài liệu mới khá lý
thú về giai đoạn nầy. Ví dụ như bộ hồ sơ gốc trong thư khố Anh, nhan đề là
“Nguyen ai Quoc: arrangement for deportation”. Bộ hồ sơ nầy cho thấy Nguyễn Ái
Quốc bị người Anh giam giữ tại Hồng Kông từ 1931 đến 1933, nghĩa là từ khi Nguyễn
Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) bị bắt cho đến khi vụ án Nguyễn Ái Quốc được giải quyết
bằng thương lượng ngoài tòa án. Chính tay người Anh đưa Nguyễn Ái Quốc lên tàu
thủy rời Hồng Kông, chứ không phải Nguyễn Ái Quốc chết năm 1932 như nguồn tin
do một người Đài Loan đưa ra. Đây là tài liệu gốc trong thư khố Anh từ 1931 đến
1933. Mời mọi người vào đọc tài liệu này và nếu còn nghi ngờ tài liệu nầy do
tac giả đưa ra, thì mọi người có thể e-mail tới địa chỉ thư khố Anh Quốc được
tác giả chỉ dẫn trong sách, để hỏi thẳng thư khố Anh cho chắc ăn. Như thế, quả
thật tên tội đồ dân tộc Hồ Chí Minh bán nước cho Tàu, Nga, đúng là con của phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc ở Nghệ An, là kẻ đang bị giam xác ở Ba Đình. Chết mà còn bị
giam. Đúng là quả báo! Quả báo!
Sách nầy còn ghi lại những chuyện
thú vị, như chuyện CSVN xin vào Liên Hiệp Quốc năm 1948 mà bị từ chối. Chưa bao
giờ có sách nào viết điều nầy. Chuyện Hồ Chí Minh bị Stalin nghi ngờ là thiếu
trung kiên với cộng sản vì cộng tác với OSS, nên lúc đầu, Stalin không chịu
giúp Hồ Chí Minh và Việt Minh. Đó là lý do khiền Hồ Chí Minh chạy theo Mao Trạch
Đông.
Một chuyện lạ khác nữa là tác
giả mô tả Điện Biên Phủ chẳng những là một ngã tư giao thông chiến lược, mà Điện
Biên Phủ còn là một vựa thuốc phiện lớn nhất Đông Dương, nên quân Pháp cũng như
Việt Minh đều ra sức giành giựt để kiểm soát nguồn lợi thuốc phiện.
Việt Minh cần thuốc phiện để
bán lấy tiền mua vũ khí. Pháp cũng cần thuốc phiện, vừa chận đứng nguồi lợi vũ
khí của Việt Minh, vừa tăng ngân sách cho Pháp vì nhà cầm quyền Pháp công khai
buôn thuốc phiện. Đọc đến đây tôi giật mình vì có thể hiện nay, Việt cộng trong
nước đang sản xuất thuốc phiện tại Điện Biên Phủ, rồi đem bán cho dân chúng để
thu nhập ngân sách, bất kể sức khỏe dân chúng. Điện Biên Phủ xa xôi. Ít người đến
du lịch Sợ gì mà cộng sản không trồng thuốc phiện đem bán cho toàn vùng
Đông Nam Á. Dám lắm chứ!
Nhục nhã nhất là đoạn Hồ Chí
Minh qua Tàu làm kiểm điểm với Lưu Thiếu Kỳ để xin viện trợ. Tác giả tin rằng bản
kiểm điểm nầy còn lưu trữ ở Bắc Kinh, hoặc nếu không còn, thì Bắc Kinh làm giả
tở kiểm điểm của Hồ Chí Minh, để áp lực cộng sản Việt Nam. Nếu cộng sản Việt
không nghe lời Bắc Kinh, Bắc Kinh sẽ đưa ra công khai bản kiểm điểm của Hồ Chí
Minh thì quá mất mặt đảng Cộng Sản Việt Nam!
Nhờ Trung Cộng viện trợ và cố vấn
Trung Cộng điều khiển chiến tranh, Việt Minh chiến thắng lần đầu tiên trận Đông
Khê năm 1950. Tác giả dẫn chứng hồi ký của Hoàng Tùng, ủy viên trung ương đảng
cộng sản, cũng xác nhận Trung Cộng giúp Việt Minh cộng sản thắng trận
Đông Khê.
Nhờ Trung Cộng viện trợ tối đa,
Việt Minh mạnh lên, dần dần đi đến chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954. Theo
tác giả, chính Trung Cộng chiến thắng Pháp chứ không phải Việt Minh chiến thắng
Pháp. Vì vậy, tác giả gọi Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chẳng qua chỉ là thơ ký
chiến trường cho Quân ủy Bắc Kinh. Thật khá thú vị.
Buồn cười nhất là tác giả tả cảnh
các phái đoàn cộng sản tham dự hội nghị Genève năm 1954, sắp hàng một rất trật
tự, mỗi ngày đi vào và đi ra phòng họp để tham dự hội nghị như trẻ em đi học.
Theo đúng tôn ti trật tự cộng sản quốc tế, phái đoàn Liên Xô đi đầu, rồi đến
phái đoàn Trung Cộng, và sau cùng là phái đoàn Việt Minh. Sắp hàng đi vào phòng
họp đàn anh trước, đàn em sau như học trò đã đành. Còn sắp hàng đi ra khỏi
phòng họp thì ngoan ngoãn hơn học trò là cái chắc. Chỉ có cộng sản mới trật tự
kiểu đó. Tác giả có chú thích rõ nguồn tin đáng tin cậy việc nầy và chú thích
rõ các phát hiện khác.
Sách này còn bạch hóa những
chuyện cộng sản bịa đặt như Hồ Chí Minh giả vờ giải tán đảng cộng sản để hòa giải
bịp bợm, chuyện Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, chuyện Pháp không treo cờ trắng ở Điện
Biên Phủ hay chuyện lá cờ Việt Minh cộng sản trên hầm De Castries. Tác giả đã vạch
ra những trò ăn gian lịch sử của cộng sản.
Cuối sách, tác giả đưa ra một
tài liệu mà nhiều người hiện đang quan tâm. Đó là nguồn gốc bản quốc ca Quốc
Gia Việt Nam, sau trở thành quốc ca Việt Nam Cộng Hòa, do một người đồng thời với
người đã sáng tác bản nhạc là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước kể lại. Đó là học giả Nguyễn-Ngu-Í.
Học giả Nguyễn-Ngu-Í kể lại đầy đủ từ lúc Lưu Hữu Phước bắt đầu sáng tác cho đến
khi bản nhạc nầy được chọn làm quốc ca. Như vậy bản quốc ca Quốc Gia Việt Nam
có trước khi đất nước bị chia hai. Đồng bào từ Bắc vào Nam Việt Nam đều đã có dịp
chào cờ Vàng và hát bản quốc ca này. Lúc sáng tác bản nhạc nầy năm 1940, Lưu Hữu
Phước là một sinh viên yêu nước, người miền Nam, ra học đại học Hà Nội, chưa bị
lôi cuốn vào phong trào Việt Minh cộng sản năm 1945.
Phần nhìn lại cuộc chiến của
tác giả cũng không kém phần thú vị. Theo tác giả, Phap thất bại ở Paris trước
khi thất trận ơ Việt Nam. Cộng sản nhờ Trung Cộng chống Pháp không khác gì nhờ
kẻ cướp đuổi tên ăn trộm. Thằng ăn trộm bỏ chạy, thì tên cướp giành nhà. Cũng
theo tác giả, trong bang giao quốc tế, chẳng bao giờ có tình nghĩa cộng sản chủ
nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, mà chỉ có quyền lợi chủ nghĩa giữa các nước mà
thôi.
Cách trình bày sách mới của tác
giả cũng khác các sách trước đây của ông. Ông không viết những chương dài, gồm
nhiều tiết mục, mà trong sách này, ông chia ra thành từng chương ngắn, gồm tất
cả là 36 chương liên tục, mỗi chương khoảng 8 đến 10 trang sách, rất mạch lạc,
chương trước kéo theo chương sau, trình bày như thể kể chuyện, làm cho độc giả
đọc không chán, cứ ưa theo dõi tiếp, nhưng muốn tạm dừng ở đâu cũng được. Cở chữ
trong sách vừa đọc cho những người lớn tuổi, chú thích không ở cuối chương mà ở
cuối sách theo kiểu các sách Âu Mỹ.
Đọc thêm phần chú thích trong
sách cũng thú vị không kém đọc các chương sách, vì chú thích mở ra nhiều chuyện
bất ngờ ngoài sách. Phải nói rằng tác giả chẳng những chịu khó đọc nhiều sách
báo mà còn chịu khó ghi chú, trích dẫn và chú thích đầy đủ chi tiết, chứng tỏ
tác giả rất là hữu nghị với người đọc. Hữu nghị với người đọc nhất là tác giả
chăm sóc phần chính tả thật kỹ, khá tốt, ích lợi cho giới sinh viên ngày nay ở
hải ngoại, vừa học Việt sử, vừa học Việt ngữ.
Ngoài ra, như thường lệ sách có
bản danh mục cho độc giả dễ nghiên cứu khi cần. Bản danh mục lần nầy chẳng những
là tên các nhân vật trong sách mà còn có tên các địa danh, và nhất là tên các sự
kiện cần ghi nhớ nữa. Muốn tìm một vấn đề gì thì nhìn vào danh mục sự kiện là
có thể tìm ra ngay nó nằm ở đâu.
Trong phần chú thích và danh mục
rất công phu cho công trình biên soạn với 47 trang (từ trang 421 đến 467) để dẫn
chứng rõ ràng dựa theo sách báo và các nguồn tài liệu liên quan đến nội dung.
Có thể nói sách này với cách
nhìn khách quan, trung thực là bản lên tiếng phản bác mới và mạnh tất cả những
tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản Việt Nam về cuộc chiến 1946-1954 và vạch trần
những mặt khuất tất mà cộng sản che giấu bằng những thủ đoạn thâm hiểm rất kín
đáo. Tác giả còn làm rõ vị thế của Quốc Gia Việt Nam trong giai đoạn lịch sử thời
hậu thuộc địa.
Vì vậy, dầu đã đọc những sách
trước đây về chiến tranh 1946-1954, thì cũng xin mời quý vị tìm đọc sách “Chiến
tranh Việt Nam 1946-1954” của Trần Gia Phụng để nhận diện rõ thêm những
điều còn khuất tất của những biến cố rất quen thuộc, và nhất là để phân biệt giữa
quốc gia và cộng sản ngay từ đầu, tức từ năm 1945.
Sách dày trên 560 trang, lay
out trang nhã, ấn phí 25 đô. Độc giả có thể tìm mua ở các hiệu sách, hay liên lạc
với tác giả ở địa chỉ e-mail ghi trong sách: trangiaphung@gmail.com.
Nguyễn Đức
(California, 12-3-2018 )
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết