.Vết Đau Thương Của Lịch Sử Việt Nam : Hiệp Định Genève Ngày
20/7/1954....
Hậu Quả Của Hiệp Định Geneve...
CHIẾN TRANH VIỆT NAM....'' ÁC THẮNG THIỆN!"
CHIẾN TRANH VIỆT NAM....'' ÁC THẮNG THIỆN!"
Hiệp
Định genève niềm đau và nỗi nhục của đất nước.
23 Tháng 8 2011 lúc
21:12
Tại Hội nghị thượng đỉnh
Malta, ngày 3/12/1989, Gorbachev và George H.W.Bush tuyên bố cuộc Chiến tranh
lạnh chấm dứt. Cuộc chiến tranh giữa khối tự do chống lại sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản đã đem lại đau nhục cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên điều này
không thể hiện rỏ ràng vì được lồng vào bên trong cái vỏ bọc « giành độc lập
dân tộc và thống nhất đất nước ». Và cũng nhờ cái vỏ bọc này những người cộng
sản đã dành được chiến thắng và luôn còn gây ngộ nhận cho thế hệ sao.
Để nhìn lại thực chất
của cuộc chiến tranh Việt nam phải nhìn lại Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7
năm 1954.
Sau chín năm chiến tranh
triền miên (1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc
mơ hòa bình vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc
chia đôi ! Giòng sông Bến Hải, giữa nhịp cầu Hiền Lương luôn luôn là niềm đau
và nỗi nhục của đất nước.
Người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không
thể tự quyết định tương lai của chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt
của ngoại bang, dù đó là ngoại bang tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một
ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ
chẳng phải vì yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam của chúng ta. Chẳng bao giờ
có tình nghĩa xã hội chủ nghĩa hay tình nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có ‘’quyền
lợi chủ nghĩa’’ giữa các nước mà thôi.
Nhiều câu hỏi luôn được đặt
ra ngay tới tận ngày nay
I/ Cách nhận định của hai
miền Nam Bắc sau Hiệp định Genève ?
2/ Sau trận Điện Biên Phủ
(7.5.1954), khi Pháp quyết định bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Hồ Chí minh
không thừa thắng xông lên, chiếm lấy tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định
chia đôi đất nước ?
3/ Ai vi phạm Hiệp định
Genève ?
4/ Xương máu của nhân dân
Việt Nam đã đem lại những lợi lọc cho ai ?
Niềm đau nhục của dận tộc:
1/Cách nhận định của hai
miền chiến tuyến :
Sự khác biệt trong nhận
định của hai miền Nam Bắc sau hiệp định là :
-Miền Nam xem đó là ngày
Quốc Hận vì là ngày tấm bi kịch huynh đệ tương tàn.
-Miền Bắc xem đó là một thành
quả thắng lợi.
Trong khi ngoại trưởng
miền Nam Trần Văn Hữu đã rơi lệ tại bàn Hội nghị vì viễn cảnh Trịnh Nguyễn phân
tranh xắp tái diễn. Tiếng sáo thở than của Võ Thành Minh đã tuyệt thực ở bên hồ
Leman để chống lại việc cắt đôi đất nước. Thì các lãnh tụ cộng sản thì còn đang
lo hô hào cán bộ đẩy mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực
hiện tư tưởng Mao Trạch Đông.
Qua cái đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng
Mười Hai năm 1953 mà Hồ Chí Minh xem là một “bước tiến” trong cuộc cách mạng
quốc tế mà ông theo đuổi. Khi một người tin mình nắm chân lý tuyệt đối trong
tay thì họ dám làm bất cứ cái gì để thực hiện chân lý đó, dù phải hy sinh hàng
triệu người chỉ là chuyện nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi là cần
thiết. Hiệp định Genève đối với người cộng sản luôn luôn là một thắng lợi.
Hôm nay nhìn lại trang
sử đau thương của dân tộc nhiều người Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận
việc chia đôi đất nước năm 1954 là một mối đau nhục, gây nên cảnh nồi da xáo
thịt vô ích. Nhưng chúng ta cũng phải nhìn lại để biết phải làm gì cho một ngày
mai của đất.
2/ Vì sao Hồ Chí Minh
không thừa thắng xông lên mà chịu ký Hiệp định Genève : Có nhiều lý do được đưa
ra không ai biết chắc đúng hay sai. Nhiều người cho là Cộng Sản Việt Nam đã
chịu áp lực của Liên Xô và Trung Cộng. Các đàn anh cộng sản này muốn kết thúc
cuộc chiến ở Đông Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc.
Nghĩ như vậy tức là coi như Cộng Sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất
nước. Để làm áp lực, hai nước cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều
kiện Cộng Sản Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.
Có người lại nói chính
Cộng Sản Việt Nam muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải
ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J.
Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng Hồ Chí Minh
đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong đảng Cộng Sản, trong phiên họp
Trung Ương Đảng vào Tháng Bảy năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung
Ương Đảng muốn tiếp tục chiến tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể
sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp.
Trong thời gian chiến
cuộc Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung
quanh thung lũng này để tiêu diệt quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến
tranh lạnh” bao trùm thế giới từ sau Đại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi
ngờ nhau. Bộ Quốc Phòng Mỹ vẫn giả thiết rằng sớm muộn Nga xô sẽ đánh Âu Châu
và Trung Cộng sẽ tấn công chiếm các nước Đông Nam Á. Mà các nước trong vùng đó
đều có một (hay hai) đảng Cộng Sản địa phương đang nổi dậy, làm nội ứng. Lúc đó
Mỹ đã rảnh tay ở Cao Ly mà lực lượng máy bay bom đạn của họ vẫn sẵn sàng ở Nhật
Bản và Đài Loan.
Nhưng chính phủ Mỹ đã từ chối không giúp Pháp ở Điện Biên Phủ.
Nếu sau đó chính phủ Pháp chấp thuận những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại
nhiều quyền tự quyết về quân sự và ngoại giao cho chính phủ quốc gia Việt Nam
hơn, sau khi Bảo Đại đã phong nhậm một ông thủ tướng thân Mỹ, thì việc tham dự
của Mỹ có thể thành sự thật. Đó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người
có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lãnh tụ cộng sản khác.
Ông Duiker cũng cho là
vì lo ngại Mỹ sẽ nhúng tay trực tiếp nên Hồ Chí Minh đã lựa chọn giải pháp chia
đôi Việt Nam, thay vì giải pháp ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất mình
đang kiểm soát. Trong trường hợp ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến
cố nào đó để lấy cớ mà viện trợ trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm đánh nhau
với Việt Minh trở lại.
Khi chính phủ Mỹ không ký vào Hiệp Định Genève chia đôi
Việt Nam, chúng ta có thể hiểu là họ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, vì
nó thích hợp với mưu đồ của họ hơn, đúng như ông Hồ lo ngại. Mặt khác, nếu chia
đất theo lối “da beo” thì ông Hồ khó thi hành được chương trình đấu tố trong
cải cách ruộng đất mà ông đã bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung
Quốc.
Nhưng một câu hỏi thực
tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can
thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng
trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch
Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy
động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế
cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi
phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó 10,000 người chết.
Nhiều người phía
Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở
ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng
Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể
xảy ra, và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng
màHồ Chí Minhbiết.
Tướng Navarre thì nói sau trận Điện Biên Phủ các hoạt động
tấn công của Việt Minh đã giảm hẳn đi, nhưng khi ông ta xin thêm 2 sư đoàn viện
binh thì chính phủ Pháp từ chối. Mặt khác, thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendes
France, đã hứa trước quốc hội khi nhậm chức là sẽ giải quyết chiến tranh Đông
Dương trước ngày 21 Tháng Bảy, cho nên có ký hiệp định đình chiến thì ngôi thủ
tướng của ông mới tồn tại.
Bên cạnh các giả thuyết
của các sử gia, có một tài liệu có thể coi là khách quan đối với tình hình quân
sự tại Việt Nam lúc đó, trong cuốn Hồi Ký Khrushchev (Khrushchev Remembers),
của người lãnh đạo Liên Bang Xô Viết năm 1954, bản dịch cuốn sách này xuất bản
năm 1971 ở Mỹ. Gọi là khách quan, vì ông Nikita Khrushchev rất có cảm tình với
ông Hồ Chí Minh. Hơn nữa, lúc đó ông nắm đủ các tin tức mà người ngoài không
biết, do guồng máy các cố vấn Nga Xô bên cạnh Việt Minh cũng như ở Trung Quốc
cung cấp.
Khrushchev kể rằng đầu
năm 1954 Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đến Mát Cơ Va họp để bàn một lập trường chung
tại Hội Nghị Genève, “dựa trên tình hình ở Việt Nam.” Và Khrushchev mô tả,
“Tình hình rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt Nam đang trên đà sụp
đổ. Các dân quân hy vọng Hội Nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa hiệp ngưng bắn để
họ có thể tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp...” Đó là nhận xét của Khrushchev.
Ông còn thuật lại lời Chu Ân Lai. Sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai
kéo Khrushchev vào một góc, nói, “Đồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi rằng tình
hình ở Việt Nam đang tuyệt vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng
bắn sớm, thì người Việt Nam không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, họ
đã quyết định nếu cần sẽ rút lui về biên giới Trung Quốc, và họ xin Trung Quốc
sẵn sàng tiến quân sang Việt Nam, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên. Nói cách
khác, người Việt Nam muốn chúng tôi đánh đuổi Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể
nào đáp ứng yêu cầu của đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã tổn thất quá nhiều ở
Triều Tiên, cuộc chiến đó tốn kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể
nào dự vào một cuộc chiến tranh khác trong lúc này.”
Nghe Chu Ân Lai xong,
Khrushchev đã tìm cách thuyết phục ông ta đừng từ chối ngay, “Đồng chí không
thể nào nói với ông Hồ là đồng chí sẽ không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh
phải rút quân về biên giới Trung Quốc. Tại sao đồng chí không cứ nói dối một
cách vô hại đi? Cứ để cho người Việt Nam họ tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần,
cái đó sẽ khích lệ họ chiến đấu chống quân Pháp hăng hái hơn.” Chu Ân Lai đã
nghe lời khuyên đó, Khrushchev kể, ông ta “không nói với ông Hồ là Trung Quốc
sẽ không đánh nhau với Pháp trên lãnh thổ Việt Nam.”
Chúng ta có thể tin
những lời Khrushchev thuật lại là đúng, vì ông ta tỏ ra rất hâm mộ Hồ Chí Minh.
Lần đầu Khrushchev gặp ông Hồ là vào Tháng Hai năm 1950, khi ông Hồ sang Mát Cơ
Va xin Stalin viện trợ. Khrushchev mô tả Hồ Chí Minh là một con người “thành
thật, nhân từ, trong sáng;” và nói rằng “Ông ta có thể chinh phục tất cả mọi
người với tấm lòng chân thành và niềm tin tưởng không thể nào lay chuyển của
ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tốt nhất cho dân tộc ông và cho cả loài người.”
Khrushchev tả Hồ Chí Minh có đôi mắt “chân thành trông thơ ngây như trẻ em.”
Khrushchev ca ngợi, coi Hồ Chí Minh đáng là một vị “thánh tông đồ” của chủ
nghĩa Cộng Sản.Nhưng cáo già Stalin thì không tin.
Trong cuộc gặp gỡ đầu năm
1950 này, Hồ Chí Minh đã rút ra một tờ báo hình ảnh của Liên Xô, có hình
Stalin, xin ông ta ký tên vào đó làm kỷ niệm. Stalin vui vẻ ký, nhưng sau đó đã
ra lệnh mật vụ tới phòng Hồ Chí Minh lén thu hồi lại, vì Stalin cũng sợ ông Hồ
sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi người đều biết hồi ông Hồ ở bên
Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức tình báo Mỹ, ông có xin Tướng
Chennault, chỉ huy phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc, ký tặng Hồ một bức
hình.
Sau đó ông Hồ mang bức hình về Việt Nam, rồi khi họp hội nghị Tân Trào
thì đem bức hình đó trưng bày, để mọi người nghĩ rằng ông đã được Mỹ ủng hộ, mà
Mỹ thì đang thắng Nhật. Chưa chắc Stalin biết câu chuyện này, nhưng một lãnh tụ
cộng sản như ông ta thì chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng những lãnh tụ
cộng sản khác.
Câu chuyện Khrushchev kể
trong cuốn hồi ký về cuộc đối thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. Vì
ông ta không có lý do nào để nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện
ra nói với Khrushchev. Năm 1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa còn rất
thân thiện, mà nếu Chu Ân Lai nói dối thì Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết
liền. Cho nên chúng ta có thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đã thú nhận với cả
hai lãnh tụ Nga và Trung Quốc tình hình lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới
mức có thể phải rút sang Trung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí
Minh đã xin Trung Cộng đem quân vào Việt Nam.
Khi Chu Ân Lai nói với
Khrushchev rằng Trung Cộng không thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đã
tiêu hao lực lượng ở Cao Ly, điều này cũng đúng. Nhiều người vẫn nghĩ là chính
Stalin thúc đẩy Trung Cộng đem quân sang Cao Ly để làm tiêu mòn lực lượng nước
cộng sản anh em này, vì ai cũng biết chính Stalin bật đèn xanh cho Kim Nhật
Thành gây chiến. Nhưng sau khi ký hiệp ước đình chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đã
thấy sự thiệt hại của họ quá lớn, cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến
khác. Theo William Duiker thì vào Mùa Thu năm 1953, Ngoại Trưởng Mỹ Foster
Dulles đã cảnh cáo nếu Trung Cộng dính vào Chiến Tranh Đông Dương thì sẽ “có
hậu quả nghiêm trọng” khiến Bắc Kinh chấp nhận chính sách ôn hòa của Nga Xô,
sau khi ông Stalin qua đời.
Như vậy thì việc ký Hiệp
Định Genève một phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu tiếp tục chiến tranh thì Mỹ sẽ
can thiệp, mà sức lực Việt Minh lúc đó đang yếu; một phần khác cũng vì chủ
trương ôn hòa của Nga Xô khiến cho ông Hồ lo ngại nếu không theo thì sẽ không
còn được Nga và Trung Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất
nước đó dẫn tới cuộc chiến tranh Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam,
cũng vì ông Hồ là một người cộng sản kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca
ngợi. Ông “thánh cộng sản” đó muốn cả hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế
độ cộng sản để tiến hành việc “giải phóng” cả vùng Đông Nam Á và cả thế giới.
Chính phủ Ngô Đình Diệm lúc đó không chịu ký vào Hiệp Định Genève, cũng vì
không muốn chịu trách nhiệm trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh.
3/Ai vi phạm Hiệp định
Genève ? :
Có thể nói không ai vi
phạm cả vì Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến
Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân,
thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa
là không phải là một Hiệp định Hòa Bính.
Và điểm đặc biệt không
có phái đoàn nào ký tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954
về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng
là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được
chú ý và ít được sách báo viết đến ?
Để bỏ chạy an toàn, Pháp
thỏa mãn những đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai
nước Việt Nam và ấn định lịch Tổng Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến
ý nguyện của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Pháp quyết ký Hiệp Định Genève
(20.7.1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên
hệ gì đến Việt Nam.
Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch Tổng
Tuyển Cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử
nầy lại không được các phái đoàn tham dự ký kết để bảo đảm thi hành. Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy cộng sản luôn luôn ký kết hiệp ước để làm kế hoãn binh
và không bao giờ tôn trọng hiệp ước đã ký kết, huống gì là những văn bản không
có chữ ký như bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954.
I/Tình hình thế giới đưa
đến HỘI NGHỊ GENÈVE
Chiến tranh Triều Tiên
kết thúc bằng hiệp ước đình chiến được ký kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon),
ngày 27.7.1953, chia Triều Tiên thành hai vùng Bắc và Nam Triều Tiên, ranh giới
là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là hiệp ước đình chiến, chứ không phải là hòa ước giữa
các bên lâm chiến. Dầu vậy, hiệp ước và giải pháp chia hai nước Triều Tiên được
một số nước, kể cả Pháp, xem là mẫu mực để giải quyết vấn đề Đông Dương.
Ngày 4.8.1953 Liên Xô đề
nghị họp Hội Nghị ngũ cường gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa vào tháng 9.1953 để tiếp tục giải quyết những tranh chấp ở Triều
Tiên, đồng thời tại khu vực Á Châu, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề Việt Nam.
Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ
bác bỏ ngày 2.9.1953. Trong cuộc họp tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày
kể từ 16.10.1953, cả ba nước đưa ra tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên
Xô, chủ yếu vì các cường quốc Tây phương không muốn thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa là một cường quốc ngang hàng với họ. Lúc đó, Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa chưa được vào Liên Hiệp Quốc. Chiếc ghế thường trực tại Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) nắm giữ.
Lúng túng trong chiến
tranh Việt Nam, ngày 27.10.1953, Thủ Tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn
sàng tìm kiếm cơ hội tái lập hòa bình ở Đông Dương. Ông được Quốc Hội Pháp ủng
hộ để thương thuyết và đi đến một giải pháp chính trị. Ra trước Thượng Viện
Pháp ngày 12.11.1953, Thủ Tướng Laniel lập lại ý kiến trên thêm một lần nữa.
Laniel hy vọng kế hoạch hành quân của Đại Tướng Henri Navarre tại Việt Nam sẽ
có thể đem lại thành công trên chiến trường, để có thể thương thuyết trong thế
mạnh.
Đề nghị của Laniel được
phía cộng sản đáp ứng ngay. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Expressen (Norway
= Na Uy) vào cuối tháng 10.1953, Hồ chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa do đảng lao động và mặt trận Việt Minh điều khiển, sẵn sàng
tìm hiểu các đề nghị của Pháp và chỉ thương thuyết với Pháp, chứ không nói
chuyện với chính phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng.
Về phía Liên Xô, vừa trả
lời cho tam cường Tây phương, vừa trả lời cho đề nghị của Thủ Tướng Pháp
(Laniel), Ngoại Trưởng Mikhailovich Molotov tuyên bố ngày 26.11.1953 đồng ý
tham dự Hội Nghị tứ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ
triệu tập Hội Nghị ngũ cường sau đó. Mãi đến ngày 29.11.1953, bài phỏng vấn Hồ
chí Minh mới được báo Expressen công bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh
đăng lại ngày 1.12.1953, kèm theo bài xã luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của
Việt Minh.
Ngày 6.12.1953, theo
quyết định của các cố vấn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quân đội Việt Minh bắt
đầu mở cuộc tấn công Điện Biên Phủ. Một tuần sau, Hồ chí Minh tuyên bố chấp
nhận thương thuyết với Pháp ngày 14.12.1953. Hỗ trợ ý kiến của Hồ chí Minh,
ngày 26.12.1953, Liên Xô đưa ra đề nghị họp tứ cường tại Berlin ngày 25.1.1954,
và được các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ chấp thuận.
Vào ngày nói trên
(25.1.1954), Hội Nghị tứ cường vừa khai mạc tại Berlin, thì Ngoại Trưởng Liên
Xô, Mikhailovich Molotov, đề nghị mời Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cùng họp để
giải quyết các vấn đề tranh chấp trên thế giới. Mãi đến ngày 18.2.1954, ý kiến
của Liên Xô mới được ba nước Tây phương đồng ý.
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
được mời tham dự Hội Nghị Genève, sẽ bắt đầu từ ngày 26.4.1954 để bàn về các
vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.
Hội Nghị ngũ cường Anh,
Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tại Genève chính thức khai
mạc ngày 26.4.1954, một ngày bàn về Đông Dương, một ngày bàn về Triều Tiên.
Liên Xô đề nghị mở rộng những nước tham dự bằng cách mời thêm các phe lâm chiến
ở Đông Dương. Ý kiến nầy được chấp thuận tại phiên họp ngày 2.5.1954.
Như thế,
về vấn đề Đông Dương, hội nghi Genève sẽ có tất cả là 9 phái đoàn tham dự: Anh,
Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), Lào và Cambodge (Cambodia).
Hội Nghị Genève về Đông Dương
với sự tham dự của 9 phái đoàn, chính thức khai mạc ngày 8.5.1954. Một ngày
trước đó, cứ điểm Điện Biên Phủ tại Việt Nam của liên quân Pháp-Việt bị thất
thủ vào tay quân đội Việt Minh ngày 7.5.1954.
II.- HỘI NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về vấn đề
Đông Dương có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khi khai mạc
(8.5.1954) đến khi tạm nghỉ ngày 20.6.1954. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ ngày
10.7 đến ngày 21.7.1954. Giữa hai giai đoạn là sự thay đổi chính phủ tại Pháp
và Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai (Trung Cộng) và Hồ chí Minh (Việt Minh).
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT HỘI
NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về Đông
Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là Quốc Gia Việt Nam, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày
8.5.1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.
Thời điểm khai mạc Hội Nghị
Genève về Đông Dương rõ ràng rất thuận lợi cho phía cộng sản: Liên Xô và Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa lúc đó chưa rạn nứt mà còn liên lạc ngoại giao gắn bó
trong tinh thần cộng sản quốc tế, tích cực giúp đỡ Việt Minh.
Trong khi đó, sau
khi thất trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), nội tình nước Pháp chia rẽ. Pháp đang
muốn kiếm cách rút lui khỏi Đông Dương. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam gặp nhiều
khó khăn, quân đội mới được thành lập nên chưa vững mạnh.
Phái đoàn Quốc Gia Việt
Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để
tăng cường, Quốc Gia Việt Nam gởi phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng
Đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, thì
tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do
Phạm Văn Đồng lãnh đạo. Lúc đó ông Đồng đã được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Sau gần 20 ngày hội họp
tại Genève, ngày 26.5.1954, Pháp và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam,
rút quân về những khu vực chỉ định. Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật
giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút
về Nam. Pháp chưa quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ
Quốc Gia Việt Nam chủ trương thống nhất, không chia cắt. Tại Sài Gòn, Thủ Đô
của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng
trong ngày 26.5.1954, phản đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước.
Tại Genève, trong cuộc
họp mật riêng với Pháp ngày 10.6.1954, Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt
Minh, nói với đại diện Pháp là Delteil rằng:
‘’Chúng tôi cần một thủ
đô [Hà Nội] và cần một hải cảng [Hải Phòng]’’. Hội Nghị toàn thể tại Genève gặp
bế tắc ngày 12.6 khi phái đoàn Việt Minh không chấp nhận sự kiểm soát quốc tế,
mà đòi rằng ban kiểm soát chỉ có đại diện Pháp và Việt Minh. Việt Minh còn đòi
giải pháp ngưng bắn ở Đông Dương bao gồm luôn cả vấn đề Việt-Miên-Lào.
Khi họp riêng ngày
15.6.1954, với đại diện Liên Xô (Ngoại Trưởng Molotov) và đại diện Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa (Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Châu Ân Lai), Phạm văn Đồng bị
đại diện hai nước nầy ép phải chấp nhận những giải pháp riêng biệt về ba nước
Đông Dương, nghĩa là Việt Minh phải rút quân ra khỏi Lào và Miên. Kể từ
20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ và về nước tham khảo ý kiến.
NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG THỜI
GIAN HỘI NGHỊ GENÈVE TẠM NGHỈ
Mendès France, Thủ Tướng
Pháp: Sau thất bại Điện Biên Phủ (7.5.1954), chẳng những Pháp thay lãnh đạo ở
Đông Dương, mà thay luôn cả chính phủ Pháp ở Paris. Nội các Joseph Laniel từ
chức ngày 13.6.1954, và Mendès-France, người Pháp gốc Do Thái, thuộc đảng Xã
Hội Cấp Tiến (Socialiste Radical), một thành viên Hội Tam Điểm Pháp, được mời
lập chính phủ.
Điều trần trước Quốc Hội
Pháp, Mendès-France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn
tuần lễ (chưa đầy một tháng). Nói cách khác, với ý nguyện của Quốc Hội Pháp,
chính phủ Mendès-France quyết định bỏ rơi Quốc Gia Việt Nam, và bằng mọi giá ký
kết hiệp ước đình chiến, rút quân Pháp ra khỏi Đông Dương. Mendès-France chính
thức nhậm chức ngày 21.6.1954. Nếu tính thêm bốn tuần lễ thì vào khoảng
21.7.1954.
Hội Nghị Liễu Châu:
Trong thời gian nghỉ họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và
Võ nguyên Giáp qua Liễu Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay
Guangxi), hội họp từ ngày 3.7.1954.
Trong cuộc gặp gỡ nầy,
đại để Châu Ân Lai cho rằng có ba cách để đối phó với tình hình mới:
1.- Thượng sách là hòa.
2.- Trung sách là đánh
rồi hòa.
3.- Hạ sách là đánh
tiếp.
Châu Ân Lai khuyên Hồ
chí Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp
tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên
giải quyết riêng biệt chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở
khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên
Việt Minh không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can
thiệp.
Cũng theo Châu Ân Lai,
trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng
hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước
đây.
Như vậy Việt Minh sẽ
đuổi được kẻ địch yếu, nhưng lại rước kẻ địch mạnh. Hơn nữa, Việt Minh nên giúp
Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France, để ông ta không bị Quốc Hội Pháp lật đổ.
Nếu Mendès-France không thành công, chính phủ Mendès-France sẽ bị đổ, thì có
thể sẽ bất lợi đối với phía cộng sản.
Về phía phái đoàn Việt
Minh, trong Hội Nghị nầy, Võ nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, thì chỉ rút
những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại miền Nam chờ
thời cơ, có thể khoảng 10,000 cán bộ.
Hội Nghị Liễu Châu giữa
Châu Ân Lai và Hồ chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5.7.1954.
Nhân Dân Nhật Báo của Bắc Kinh ngày 8.8.1954, đăng
‘’Tuyên bố về cuộc hội
đàm Trung Việt của chính phủ Trung Quốc’’, được dịch nguyên văn như sau:
‘’Thủ Tướng nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân Lai và Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Hồ chí Minh đã cử hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5
tháng 7 năm 1954. Thủ Tướng Châu Ân Lai và Chủ Tịch Hồ chí Minh đã trao đổi ý
kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên
quan khác. Tham gia Hội Nghị còn có: Hoàng văn Hoan, Đại Sứ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn Đại Biểu nước Cộng
Hòa Nhận Dân Trung Hoa tại Hội Nghị Genève’’.
Về lại Việt Nam, Hồ chí
Minh họp bộ chính trị đảng lao động (tức đảng cộng sản Việt Nam) tại Thái
Nguyên, ra nghị quyết theo quyết định của Hội Nghị Liễu Châu, nghĩa là Việt
Minh chấp nhận giải pháp chia hai đất nước, tạm thời hòa hoãn và chuẩn bị tiếp
tục tranh đấu sau khi ký kết hiệp ước đình chiến.
Chủ trương mới nầy được
Hồ chí Minh nêu ra trong báo cáo ngày 15.7.1954 tại Hội Nghị lần thứ sáu ban
chấp hành trung ương đảng lao động (tức đảng cộng sản) khóa II từ 15 đến 17.7.1954
tại Việt Bắc, trong đó có đoạn viết: ‘’Trước kia khẩu hiệu của ta là: ‘’Kháng
chiến đến cùng’’. Nay vì tình hình mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ’’.
Trong khi đó, thực hiện
sự thỏa thuận ngày 26.5 tại Hội Nghị Genève, các phe lâm chiến ở Việt Nam mở
Hội Nghị Trung Giá từ ngày 4 đến 27.7.1954 để bàn về chi tiết việc ngưng bắn.
Trung Giá, hay Trung Giã, nằm về phía Nam Thị Xã Thái Nguyên khoảng 30 cây số.
Đại diện cho Pháp là Đại Tá Lennuyeux, đại diện cho Quốc Gia Việt Nam là Thiếu
Tá Nguyễn Phước Đàng, đại diện cho Việt Minh là Thiếu Tướng Văn tiến Dũng.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI HỘI NGHỊ
GENÈVE
Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France
đích thân đến Genève để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich
Molotov ngày 10.7, và Ngoại Trưởng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai
trong hai ngày 12 và 13.7. Pháp, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thỏa
thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa
đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17.
Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn
Đồng, đại biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc.
Phạm văn Đồng đành chấp nhận. Đại Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ
phản đối việc chia cắt đất nước bất cứ ở đâu.
Cuối cùng, sau những tranh
cãi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20.7.1954, hiệp ước đình chiến được soạn thảo
xong và ký kết sau 12 giờ đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ
sở ký kết vẫn giữ nguyên ở 12 giờ đêm 20.7.1954.
III.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức của
Hiệp Định Genève là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được
viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính
ký vào hiệp ước đình chiến Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng
Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ
Quốc Phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Các nước khác cùng ký vào Hiệp
Định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia.
Hai chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản Hiệp Định nầy. Hiệp
Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều
chính như sau:
- Việt Nam chia làm hai
vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị), theo
dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Không nói đến vĩ tuyến 17.
Trong thực tế, sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được
chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt
Nam ở phía Nam.
- Dọc hai bên bờ sông,
thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm ‘’khu đệm’’, có
hiệu lực từ ngày 14.8.1954.
- Thời hạn tối đa để hai
bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày Hiệp Định có hiệu lực.
- Cuộc ngưng bắn bắt đầu
từ 8 giờ sáng ngày 27.7 ở Bắc Việt, 1.8 ở Trung Việt và 11.8 ở Nam Việt.
- Mỗi bên sẽ phụ trách
tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng.
- Cấm phá hủy trước khi
rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối
phương.
- Trong thời gian 300
ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia.
- Cấm đem thêm quân đội,
vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới.
- Tù binh và thường dân
bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn.
- Sự giám sát và kiểm
soát thi hành Hiệp Định sẽ giao cho một Ủy Ban Quốc Tế.
- Thời hạn rút quân
riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100
ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100
ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự
ở Việt Nam chỉ là một Hiệp Định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như
hiệp ước đình chiến Panmunjon (Bàn Môn Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đình
chiến Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị
nào cho tương lai Việt Nam.
IV.- BẢN TUYÊN BỐ CUỐI
CÙNG KHÔNG CHỮ KÝ
Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ
Chiến Sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21.7.1954 và
‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái
đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn
nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ ký.
Khi chủ tịch phiên họp là
Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh,
Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và
Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn
Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.
Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng
của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ gồm 13 điều,
trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:
‘’Hội Nghị tuyên bố rằng
đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân
dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân
chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại hòa
bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý
nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của
một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát
Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những
nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng
về vấn đề đó’’.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố
được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một
cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy
Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức Tổng Tuyển Cử trên toàn
quốc.
Bắc Việt thường nói và
viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết
định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định Đình
Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải
pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự
tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội
Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’.
Trong Bản Tuyên Bố riêng
của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải
thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp Định Genève. Sau khi
phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết Hiệp
Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt
Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết:
‘’Vì thế cho nên chính
phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long
trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng
nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận
rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc
Lập, và Tự Do cho xứ sở’’.
Vì phái đoàn Quốc Gia
Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định
Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ
Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố
nầy.
Về phía Hoa Kỳ, Trưởng
Phái Đoàn là Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21.7.1954 theo đó,
tuy không ký vào Hiệp Định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng võ lực
để sửa đổi Hiệp Định, Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi
phạm thỏa hiệp trên, đe dọa hòa bình và an ninh thế giới, Hoa Kỳ tôn trọng việc
thực hiện thống nhất Việt Nam bằng Tổng Tuyển Cử tự do đặt dưới sự giám sát của
Liên Hiệp Quốc. Ông Bedell Smith kết luận:
‘’Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng
rằng các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của
họ, trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng hòa
bình của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định
đoạt lấy tương lai của mình’’.
V.- VIỆC THI HÀNH HIỆP
ĐỊNH GENÈVE
Hội Nghị Genève kết thúc
với ba văn kiện chính thức (ngày 20.7.1954) và một Bản Tuyên Bố chung (ngày
21.7.1954) là:
1.- Hiệp Định đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam.
2.- Hiệp Định đình chỉ
chiến sự ở Lào.
3.- Hiệp Định đình chỉ
chiến sự ở Cambodge (Cambodia).
4.- Tuyên bố cuối cùng
của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngoài bốn văn kiện trên,
còn có hai văn kiện do hai phái đoàn đưa ra là:
1.- Tuyên ngôn của phái
đoàn Quốc Gia Việt Nam.
2.- Tuyên ngôn của phái
đoàn Hoa Kỳ.
Cần chú ý hai điểm:
Thứ nhất, Hiệp Định Đình
Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần
túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà
hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị.
Thứ hai, không có phái
đoàn nào ký tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề
lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc
bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú ý và
ít được sách báo viết đến.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố
nầy mở đầu bằng câu ‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam...’’ (La
Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam…), nghĩa là về vấn đề Việt
Nam, Hội Nghị nghĩ rằng, đưa ra ý kiến rằng, hay dự kiến rằng…một cuộc Tổng
Tuyển Cử sẽ được tổ chức vào tháng 7.1956…, còn làm theo hay không làm theo,
nghĩa là thi hành hay không thi hành, là tùy các bên liên hệ. Hội Nghị không
cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành Tổng Tuyển
Cử, vì bằng chứng rõ ràng nhất là Hội Nghị không yêu cầu bên nào ký vào Bản
Tuyên Bố nầy, để cam kết hay để giữ lời cam kết. Những Hiệp Định với đầy đủ chữ
ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những Bản Tuyên Bố không chữ ký.
Hơn nữa, đây là một Bản
Tuyên Bố chứ không phải là một bản hiệp ước. Môt Bản Tuyên Bố lại không có chữ
ký của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở
Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lý để thi hành hay
không ?
Vì những lý do căn bản
nầy, bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương’’, trong đó đặc biệt điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy về dự kiến
một cuộc Tổng Tuyển Cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lý để bắt buộc
bất cứ nước nào thi hành.
Nói cho cùng, có thể nói
rằng Bản Tuyên Bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể
cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đình chiến.
Tinh thần của Bản Tuyên
Bố Genève ngày 21.7.1954 khiến người ta liên tưởng đến ‘’Tối hậu thư Potsdam’’
mà các nước Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật
Bản ngày 26.7.1945. Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và
quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía
Bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến
16 (ngang qua Tam Kỳ). Tuy nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến việc ai sẽ
cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là
không đưa ra một giải pháp chính trị cho Đông Dương.
Điều nầy sẽ tạo ra một
khoảng trống hành chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những
quyết định trong tối hậu thư Potsdam được thi hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính
phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, thì ai sẽ là người có thẩm
quyền tại Đông Dương ? Đây là thâm ý của Anh và Hoa Kỳ, cố tình bỏ ngỏ khoảng
trống chính trị để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương.
Nay bản ‘’Tuyên bố cuối
cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ cũng đi
vào vết xe cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương,
ngoài một Bản Tuyên Bố không có người ký. Từ đó, các bên liên hệ đến Bản Tuyên
Bố có thể tùy tiện giải thích Bản Tuyên Bố một cách khác nhau, tùy theo chủ
trương chính sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo ‘’lý của kẻ mạnh’’.
Ngay trong Hội Nghị Liễu
Châu từ ngày 3 đến ngày 5.7.1954, cả Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lẫn Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa đã thỏa thuận tạm hòa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong Hội
Nghị Liễu Châu, những nhà lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trình bày kế
hoạch hậu chiến, trường kỳ mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền
Nam để chờ đợi thời cơ nổi dậy.
Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam,
vi phạm Hiệp Định Genève đã được phía cộng sản dự tính trước khi ký kết Hiệp
Định.
Cho đến nay, chưa có một
giải thích cụ thể nào cho biết tại sao bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’, lại không không có chữ
ký của phái đoàn các nước ? Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn
quá mệt mỏi với những tranh cãi triền miên, nên chỉ hỏi ý kiến bằng miệng cho
chóng thông qua ? Hay phải chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ
hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị
kế tiếp sau Hiệp Định Genève ? Và ai là người đã chủ xướng biện pháp chính trị
lập lững nầy ? Nước nào chủ xướng thì chưa biết, nhưng chính phủ Quốc Gia Việt
Nam rất yếu thế, ngay từ đầu lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối Hiệp
Định Genève, nên chắc chắn Quốc Gia Việt Nam không phải là nước chủ xướng.
Ngày 22.7.1954, Thủ
Tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc
chia hai nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam vẫn
chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, chia hai đất đất nước ở
sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam,
có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước
Việt Nam riêng biệt.
Thi hành Hiệp Định đình
chiến Genève, việc ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27.7.1954 tại Bắc
Việt, ngày 1.8.1954 tại Trung Việt, và ngày 11.8.1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp
thời của hai chính phủ là tập trung và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ
của mình và cả dân chúng, về khu vực cai trị của mình. Điều 2 của Hiệp Định
Genève (20.7.1954) cho phép thực hiện việc di chuyển các lực lượng của hai bên
về vùng tập hợp ở hai bên giới tuyến tạm thời trong thời gian 300 ngày.
Ngày 9.10.1954 là hạn
chót cho những người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày
10.10.1954, quân đội Việt Minh vào tiếp thu Hà Nội. Chủ Tịch ủy ban quân quản
Hà Nội của Việt Minh là Vương thừa Vũ tức Nguyễn văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc
tấn công Hà Nội ngày 19.12.1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của Việt
Minh là sư đoàn 308. Hải Phòng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư
bằng tàu thủy vào miền Nam, do Việt Minh tiếp thu ngày 13.5.1954. Ba ngày sau,
toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi Đảo Cát Bà (Vịnh Hạ Long, vùng Hải Phòng)
ngày 16.5.1955. (Nếu tính từ ngày ngưng bắn có hiệu lực ở Bắc Việt (27.7.1954)
cho đến ngày 16.5.1955 là 9 tháng 20 ngày.)
Số người từ miền Nam tập
kết ra Bắc không được thống kê đầy đủ. Theo sự trình bày của Võ nguyên Giáp tại
Hội Nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3.7.1954 giữa Hồ chí Minh và Châu
Ân Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, Việt Minh dự tính bước đầu rút khoảng
60.000, trong đó 50.000 người là bộ đội và 10.000 người làm công tác chính trị,
nhất là những người ‘’đỏ’’ quá, không thể ở lại.
Ngoài ra, Việt Minh dự tính sẽ
lưu lại miền Nam từ 5.000 đến 10.000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất
giấu được thì cất giấu sau khi quân đội rút đi. Theo một tài liệu khác cũng của
cộng sản, số người tập kết ra Bắc khoảng 175.000 người và 15.0000 học sinh. Số
lượng nầy có thể đã được phóng đại và không thể kiểm chứng được.
Số người từ miền Bắc di
cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900.000 người. Trong số nầy, nhân viên chính
quyền (tức công chức) và quân nhân chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân
chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng
là đợt di dân nội địa lớn lao nhất trong lịch sử nước ta.
Vài điểm đáng chú ý về
cuộc di cư vĩ đại của dân chúng miền Bắc vào miền Nam như sau:
Thứ nhất, số người ra đi
đông đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng lao động, vì những thành phần
chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái
Quốc Gia, đều rút về miền Nam, nên không còn, hay ít còn người ở lại đối kháng
với chế độ mới ở ngoài Bắc.
Thứ hai, người Việt Nam
vốn rất ràng buộc với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người đành phải bỏ xứ ra
đi. Trong chiến tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh luôn luôn ca tụng chế
độ cộng sản và chê bai chính thể Quốc Gia Việt Nam. Nay cuộc di cư vĩ đại có
thể xem là cuộc trưng cầu dân ý cho thấy số người miền Bắc chọn lựa vào miền
Nam đông hơn số người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ lòng dân như thế nào
đối với chế độ của đảng lao động (tức là đảng cộng sản Việt Nam)?
Thứ ba, sự chọn lựa nầy
củng cố niềm tin nơi chính phủ Quốc Gia Việt Nam, giúp chính phủ Quốc Gia Việt
Nam vững tâm hành động, và làm tăng giá trị của chính thể Quốc Gia Việt Nam đối
với thế giới.
Thứ tư, ngoài những cán
bộ cộng sản được cài lại ở miền Nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng,
chắc chắn đảng lao động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len lõi vào
đoàn người di cư vào miền Nam để làm tình báo.
Đúng một năm sau Hiệp
Định Genève, để kiếm cớ gây chiến, Phạm văn Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, tức Bắc Việt gởi thư ngày 19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam
tức Nam Việt là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày
20.7.1955, để bàn về việc Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp
Định Genève.
Ngày 10.8.1955, Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Phạm văn Đồng, dựa vào lý
do rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam không ký vào Hiệp Định Genève và nhất là vì
không có bằng chứng nào cho thấy Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đặt quyền lợi quốc
gia lên trên quyền lợi quốc tế cộng sản.
Chính thể Quốc Gia Việt
Nam đổi thành Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 26.10.1955. Tuy chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa nhiều lần từ chối, Phạm văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào
các ngày 11.5.1956, 18.7.1957, và 7.3.1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần
cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, bác bỏ đề nghị
trên vào ngày 26.4.1958.
Do vào sự bác bỏ của của
chính phủ Nam Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam Việt không tôn trọng Hiệp
Định Genève. Trong khi đó, Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định đình chiến và
đã được các phe liên hệ tức là chính phủ Việt Minh và chính phủ Quốc Gia Việt
Nam thi hành xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt Nam thành Bắc Việt và Nam
Việt dưới sự giám sát của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, gồm đại diện các
nước Canada (Gia Nã Đại), Poland (Ba Lan), India (Ấn Độ). Còn bản ‘’Tuyên bố
cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’
không có chữ ký, thì chẳng có giá trị pháp lý để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây
hấn thì luôn luôn có lý do để gây hấn.
4/ Cuối cùng đất nước
của chúng ta trở thành nơi thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật giết người của
Hoa-kỳ và Liên-xô. Và khi Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Quốc, các cường
quốc Tây phương không công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và không cho Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Nhờ chiến
tranh Việt Nam, Trung Quốc được các cường quốc mời họp Hội Nghị Genève. Nghĩa
là Trung Quốc được ngồi ngang hàng với các cường quốc Tây phương nhờ chiến
tranh Việt Nam, nhờ xương máu của dân tộc Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong
chiến tranh 1960-1975, vì do cuộc chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao
Trạch Đông và Châu Ân Lai. Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào
Liên Hiệp Quốc.)
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết