Việc thi hành hiệp đinh Genève
Trại Tập Trung
Trần Gia Phụng
(Danlambao) - Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève
(20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi
binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
1. Hiệp định Genève
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève
về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết
bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào
hiệp định Genève là HenriDelteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên
Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản).
Đại diện các nước khác
cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
(Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không
ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt
là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung,
ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và
biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông
Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến
17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt
Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi
quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm", có hiệu lực từ ngày 14-8-1954.
Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu
lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung
Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự
tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù
hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương.
Trong thời gian 300
ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm
đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường
dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng
bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc
tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80
ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80
ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết
Trung Việt (300 ngày).
2. Ai vi phạm hiệp đinh Genève
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là
một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình
chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève
không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho
tương lai Việt Nam.
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và
thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền
Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy
chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu
sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc.
Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng
đắn hiệp định.
Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản
cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng
chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:
Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây
(Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ
Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký
kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác
chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở
lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị
[Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005,
bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm
1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn:
Internet).
Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán
bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở
lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy
Đức,Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273),
để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành
lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng
10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ
(khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành
TƯCMN.)
Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam
tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy,
rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã
có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả
sau khi hiệp định được ký kết.
3. Bắc Việt Nam đòi hỏi điều không có
Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình
chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi
chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ
tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình
Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định
trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống
nhất đất nước. (John S.Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The
Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ
đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các
văn kiệnGenève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH),
thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy
hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan
tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế
giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của
Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève,
không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo
hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở
Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genèvehọp tiếp
vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố gồm 13
điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:
"Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam,
việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam
được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập
sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại hòa bình tiến
triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện,
cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban
Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế
đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự.
Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương
cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn
đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn:
Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào:
google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en
1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng
Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH,
VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy,
Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris:Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái
đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố,
nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những
phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt
Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính
cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt
buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN
vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào
hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương"
ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi
phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
4. Bắc Việt Nam bịa đặt lý do để tấn công miền
Nam
Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi
hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN:
1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử
thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định
chống Mỹ cứu nước.
Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định
Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp
tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại
không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ
không có tính cách bắt buộc phải thi hành.
Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng
vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước,
ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân
sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự
trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự
do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng
sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến
BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả
Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo
vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên
và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà
còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người
Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại
cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động
chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không
đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới
đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960
là hoàn toàn hoang tưởng.
Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ
cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần
chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc
tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho
Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng
vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
Kết luận
Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự.
Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi
VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ
trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung
Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức
NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước.
Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại
điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến
1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất
phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.
Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH,
cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm
lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính
nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu
tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.
(Toronto, 20-7-2014)
CUỘC DI CƯ VĨ ĐẠI TỪ BẮC VÀO NAM 1954
Đúng 60 năm 20/7/1954 – 20/7/2014
GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Chúng ta hãy nhìn lại những gì đã xẩy ra trong
thời gian sôi bỏng tháng 7-1954. Hiệp Định Genève chia đôi đất nước Việt Nam,
ấn định 300 ngày để dân hai Miền có th ể di chuyển vào Miền mình ưa thích mà
sống.
Miền Bắc hầu hết chộn rộn lo di cư vào
Nam.
Nhà nhà lo di cư vào Nam nhưng dù không mong, ba
ngày Tết vẫn tới. Đó là Tết Ất Mùi (1955). Người Hà Nội đồn ầm lên về hai câu
thơ trong Sấm cụ Trạng Trình mà người ta cho rằng nhất định phải xẩy ra y như
lời Sấm.
Mã
đề dương cước anh hùng tận
Thân
Dậu niên lai kiến thái bình.
Mã đề, dương cước: móng ngựa, chân dê ý nói cuối
hai năm 1954 (Giáp Ngọ) và 1955 (Ất Mùi), kẻ anh hùng tận số. Kẻ anh hùng này
là ai đây? Thân Dậu, hai năm 1956 (Bính Thân) và 1957 (Đinh Dậu) nhìn thấy thái
bình. Hai năm này, vì mới xong cuộc di cư vĩ đại, vả lại lính Việt Minh đã chết
nhiều cần phải bổ xung trước khi xua quân đánh tiếp nên lính Việt Cộng bớt quấy
rối miền Nam, lúc đó là đệ nhất Cộng hòa do Tổng Thống Ngô đình Diệm lãnh đạo.
Chiến tranh quá khốc liệt, người chết, của cải
bị tàn phá, có ai không mong một cảnh tượng thái bình của giang sơn cho con
người bớt khổ?
Sau 9 năm thiệt hại trên nửa triệu quân chính
qui và các lực lượng võ trang do tiêu chí đánh biển người của Trung Cộng (tướng
Cheng Ghai thực sự chỉ huy trận Điện Biên Phủ chứ không phải Võ nguyên Giáp),
lực lượng Việt Minh đã thấm đòn và kiệt quệ thấy rõ, cần mộ thêm quân, rèn cán
chỉnh quân cái đã.
Các nước quan thầy và đàn anh Cộng sản cũng chậm chậm đưa
thêm viện trợ vì Bắc Việt nghèo đói quá, vực lên không nổi, cả miền Bắc không
làm được cái đinh, cái kim khâu, kim máy, cái đinh ốc bởi ông Hồ chí Minh chỉ
chú tâm vào chiến tranh để chiếm đất giành dân còn đời sống kinh tế lụn bại,
dân chúng đói nhao lên cũng mặc kệ.
Phần lớn các gia đình ăn độn ngô, khoai, sắn,
mỗi người một năm được mua 4 mét vải để may quần áo, tháng vài lạng thịt, vài
lạng đường, năm 1975 khi các tù nhân chính trị từ trong Nam ra Bắc gặp một anh
xưng là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ ra đón tiếp ở phi trường Nội Bài, Hà Nội, anh Thứ
trưởng này đi cái xe đạp cà tàng, vẫn còn mặc quần vá buột chỉ ở mông quần
trông thấy da bên trong. Cán bộ cao cấp nghèo thế thì người dân khổ sở đến
đâu!(Mà bây giờ!)
Tết năm 1954, để qua năm mới 1955, quả thực là
cái Tết không vui gì. Người Hà Nội như gia đình ông bà phán Quế và gia đình tôi
chỉ chăm chăm lo đi chót lọt xuống Cảng để vào Nam đâu có thiết tha gì Tết với
tư.
Sau ngày 20-7-1954, các miền quê Bắc Việt cũng
như thành phố, đi đâu cũng nghe người dân nói về chuyện di cư vào Nam. Đây là
một quyết định tối quan trọng cho mỗi gia đình: hoặc ở lại với chế độ Cộng sản
kềm kẹp bức hiếp của ông Hồ chí Minh, hoặc xuống tầu di cư vào Nam tránh CS và
được hưởng một cuộc đời tự do, dân chủ.
Nhiều gia đình đã bỏ hết tất cả để vào
Nam với hai bàn tay trắng: họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vướn, tài sản, thóc lúa,
nông cụ, ngay cả mồ mả tiên nhân, có những người không kịp sắp xếp, đã bỏ cả
cha mẹ, ông bà, vợ con là những người thân thiết cật ruột nhất đời để ra đi tay
không vì nếu còn thương tiếc, chần chờ thì, họ đã nhìn thấy, chính họ không đi
được nữa. Câu thành ngữ:” Chết một đống hơn sống một người” phải đổi lại là:
“Sống một người còn hơn chết cả đống với nhau.”
Nhưng không phải hễ muốn đi là đi được, muốn bỏ
CS là được, nhất là dân quê. Câu chuyện sau đây sẽ giải thích rõ ràng chuyện
đó.
Nhiều gia đình nông dân ở nhiều nơi, người chết,
tài sản bị cướp hết vì Cải Cách Ruộng Đất, vì bom đạn đôi bên, vì con cái ra
trận tử thương, không gia đình nào vui hoàn toàn thế thì họ tha thiết gì với
cái Tết Ất Mùi 1955. Vả lại của cải không còn một tí gì, bữa ăn hàng ngày không
có, sao dám nói đến chuyện Tết tư?
Thời gian tháng 2-1955 chính là thời gian
nước rút cho những dân quê chưa vào được Hải Phòng phải tìm mọi cách để vào vì
hạn chót hết đi đã lù lù trước cửa: 18-5-1955 (tức là 300 ngày tại thành phố Hải
Phòng tính từ ngày 20-7-1954).
Cán binh của ông Hồ đã vào Hà Nội từ tháng
10-1954. Họ là những người vui nhất bởi họ nghĩ rằng họ chiến thắng mà thực sự
không phải vậy. Sau này TBT Lê Duẩn tuyên bố, Việt Nam ta đánh Pháp-Mỹ đây là
đánh cho Tàu-Nga, thì cái chiến thắng Điện Biên Phủ đó là Tàu-Nga chiến thắng,
chứ không phải ta bởi thắng Điện Biên Phủ rồi sau đó mới cưởng chiếm Miền Nam
30-4-1975.
Những bộ quần áo đại cán mầu cỏ úa, những nón
cối, nón tai bèo, dép râu được dịp khoe khoang nơi các phố hàng Đào, hàng
Ngang, Bờ Hồ, niềm kiêu hãnh bật ra từ những khuôn mặt kẻ cả, những giọng nói
trịch thuợng, những câu nói hơi lạ đối vớí người Hà Nội như bức xúc, chất
lượng, đề cao cảnh giác, triển khai, tham quan, sự cố, mất lập trường v.v...
Nét mặt họ vui tươi hớn hở vì họ cho rằng họ đã chiến thắng, đã đuổi được thực
dân Pháp ra khỏi Bắc Việt.
Họ không hiểu cái chiến thắng đó đã phải mua bằng
một giá quá đắt là hàng triệu đồng bào, anh em ruột thịt của họ đã nằm xuống
vĩnh viễn, hàng triệu khác lê lết một cuộc đời tàn phế cụt chân, cụt tay, đui
mù và nhiều triệu khác trở nên nghèo đói lầm than cơ cực không bút mực nào tả
xiết.
Họ cũng không hiểu của cải, tài sản người dân Bắc Việt, tài sản công như
dinh thự, trường học, nhà thương đường xá, đường xe lửa v.v..., tài sản của các
tôn giáo như nhà thờ, đình chùa, miếu mạo, tài sản của người dân như nhà cửa,
thực phẩm, đồ đạc, quần áo, tất tật mọi thứ, vì chiến tranh tiêu thổ đã thành
tro, than hết cả. Thật đau xót cho cả dân tộc!
Chiều mồng một Tết, lúc ông bà phán Quế vừa đi
mừng tuổi ông bà chú thím họ là cụ Ký Cương về thì có một anh thanh niên khoảng
gần 30 tuổi, quần áo tồi tàn, mặt mày thất sắc, đi xộc vào nhà. Anh ta vừa
chào:
“Thưa chú thím phán....” thì òa lên khóc.
Ông bà phán Quế và chúng tôi hết sức bỡ ngỡ. Ông
phán Quế hỏi:
“Suý ơi! Lâu quá mới gặp lại chú thím. Làm sao
mà cháu khóc vậy?”
Anh thanh niên vẫn nức nở, vừa khóc vừa nói
trong nước mắt:
“Chú thím ơi, bố mẹ con chết cả rồi!”
Câu nói đó làm ông bà phán, Kim Vân và Ngân Hà
đều sửng sốt, trố mắt nhìn người thanh niên.
“Vì sao mà bố mẹ con chết?” ông phán hỏi tiếp,
“Ngồi xuống ghế này đã.”
Anh thanh niên ngồi xuống ghế, nói:
“Từ dạo chú thím gặp bố mẹ con, sau đó chú thím
rời khỏi làng được mấy tháng thì bọn du kích xã phát động cuộc Cải Cách Ruộng
Đất, chúng đưa cả chục người mà chúng ghép là địa chủ ra đấu tố rồi chúng lập
tòa án nhân dân kết án tử hình tất cả. Bố mẹ con bị chúng chôn sống chỉ để chìa
cái đầu lên khỏi mặt đất.
Hai cặp vợ chồng khác cũng bị như vậy. Rồi chúng cho
trâu cày, bừa vào những cái đầu ấy, cả giờ sau bố mẹ con mới chết. Đau đớn lắm
chú thím ạ. Sau đó chúng cũng không cho lấy xác về nhà chôn mà chỉ cho đổ thêm
đất cho lấp hai cái đầu đi mà thôi. Chúng tàn ác quá, chú thím ơi! Chúng bao
vây anh em con không cho đi đâu cả, nhân dịp Tết chúng ăn uống vui chơi nên con
trốn lên đây báo tin cho chú thím...”
Kim Vân và Ngân Hà ngồi nghe chuyện anh Suý, và
cả ông bà phán Quế và tôi, rùng mình kinh hãi cho những hành động tàn bạo của
Việt Minh. Anh Suý là con hai bác lý Sủng, đã một thời là lý trưởng mua (chỉ có
danh vị) ở làng Vị Xá gần núi Gôi, Ninh Bình.
Bác Sủng là người Công giáo, làm
ruộng chỉ đủ ăn, tư điền không có lấy một sào nhưng cấy rẽ ba mẫu vì gia đình đông
con. Với tài sản như thế làm sao có thể ghép bác Sủng vào thành phần địa chủ
nhưng bọn du kích xã vốn ghét bác hay phê bình những điều sai trái của chúng
nên tiện dịp chúng bàn với nhau đưa bác ra giết bỏ.
&&&
Mới hôm qua chú Kế, người cùng làng, vai em họ
xa với thầy tôi rất quí trọng thầy tôi, chú đến gặp tôi tại phố Huế Hà Nội, hỏi
thăm về mẹ và các anh chị, các cháu tôi đã lên được Hà Nội chưa đồng thời cho
tôi biết gia đình chú 4 người gồm chú, hai con trai và thằng con rể đã
lần mò lên tới Hà Nội. Còn 11 người gồm thím và con, cháu bị bỏ lại ở dọc
đường.
Chú Kế nói không dám đi trên lộ mà toàn dùng
đường ruộng, lối tắt để tránh những con mắt cú vọ của du kích xã.
Đi đến ngày thứ năm, khi chỉ còn cách một đồn
lính Pháp chừng hơn 1km, mọi người mừng rỡ chắc mẩm sẽ nhờ xe nhà binh Pháp chở
vào Hà Nội vì Kiếm, người con trai út của chú Kế biết ít tiếng Pháp có thể giao
dịch với người Pháp được.
Dù Pháp đã đánh nhau với Việt Minh 9 năm nhưng
theo kinh nghiệm, Pháp không làm hại các người di cư, mỗi khi có người chạy vào
đồn Pháp xin giúp đỡ thì Pháp sẵn sàng giúp ngay nếu những người ấy là dân chạy
loạn thật. Trái lại với Việt Minh, họ nghi ngờ hết thảy và dễ dàng bỏ mình vào
tù hoặc bắn bỏ. Những người dân nào xưa kia từ vùng VM vào thành đều có kinh
nghiệm xương máu đó.
Vào được đến Hà Nội là coi như sống, có thể mua
vé xe lửa xuống Cảng dễ dàng để vào Nam. Việt Cộng dù sao vẫn còn sợ những nhân
viên Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến giữ trật tự cho dân chúng di cư từ Bắc
vào Nam hoặc từ Nam ra Bắc theo ý nguyện của mỗi người theo đúng những qui định
trong Hiệp định chia đôi đất nước Geneva 20-7-1954.
Nhưng khi chỉ còn cách đồn hơn 1km, chú Kế kể
tiếp, bỗng nhiên từ trong một đường hẻm xông ra 6,7 thanh niên nam nữ mặc quần
áo đen, hai, ba người đeo súng tự xưng là du kích xã sở tại. Họ chận chú Kế là
chủ gia đình, người lớn tuổi nhất hỏi rằng ông bà và gia đình đi đâu?
Chú Kế trả lời quanh co chứ không nói sự thực:
“Gia đình tôi ở quê tuốt miền biển Hải Hậu, Nam
định mới bị cháy hết nhà cửa không còn gì. Chúng tôi phải lên Hà Nội đi ăn xin để
nuôi mấy đứa trẻ qua ngày. Ở đó tôi còn một đứa con gái buôn bán ở chợ Đồng
Xuân, tôi dắt gia đình lên nương nhờ nó kiếm sống.”
Một tên trong bọn đeo súng lục, ý chừng là chỉ
huy nói:
“Nước nhà ngày nay độc lập rồi, Tây phải cút
rồi, toàn dân sẽ có tự do, hạnh phúc. Hai bác và gia đình rồi sẽ được Hồ chủ
tịch và chính phủ chu cấp tiền nong dựng lại nhà cửa, lại có mọi thứ như xưa.
Hai bác và gia đình không cần chi phải lên Hà Nội. Lên đó biết đâu không tìm ra
người con gái mà có khi bị Tây nó bắt theo nó vào Nam, đàn ông làm cu li đồn
điền cao su thì lúc đó hối không kịp. Còn đàn bà như mấy chị trẻ trẻ này thì
phải làm điếm cho chúng để kiếm miếng ăn. Khổ cực nhục nhã lắm!
Ở trong Nam, từ Tây đến người Việt mình ai cũng
có một cái đuôi như đuôi trâu và lông lá mọc ra đầy mình vì đói quá không có
gạo ăn phải ăn thịt trẻ con.
Hai bác và gia đình hãy đi theo chúng cháu về trụ
sở du kích xã, chúng cháu đãi bữa cơm xong sáng mai trở về làng cho sớm. Cháu
sẽ kí Lệnh đi đường cho hai bác và gia đình về đến làng an toàn không ai phiền
hà gì nữa.”
Chú Kế trả lời:
“Đội trưởng hãy để cho chúng tôi đi gặp con, gặp
chị, em chúng tôi cái đã vì đã lên đến đây, bao nhiêu là công lao, đường đất,
cha con, mẹ con anh chị em đã mấy năm không gặp. Chúng tôi hứa chỉ ở chơi vài,
ba ngày là lại trở về liền.”
Tên chỉ huy nhất định không cho gia đình chú đi,
chú Kế kể tiếp. Y quay qua đám du kích hất hàm, nói:
“Nào các đội viên hãy làm nhiệm vụ!”
Tức thì những nữ du kích giật phắt lấy ba đứa
nhỏ đang ẵm trên tay chạy biến vào con đường nhỏ. Các thanh niên thì xách lấy
mấy cái tay xách đựng quần áo và giấy tờ cùng những đồ cần thiết đi đường của
gia đình chú.
Một nữ du kích cứ bám cứng lấy thím vì biết giữ được thím thì chú
không thể đi được mà chú không đi được thì cả nhà coi như tê liệt.
Con nữ du kích quàng tay thím nói với thím ngọt
sớt:
“Mẹ ơi, lước nhà độc nập rồi, mẹ còn đi đâu nàm
chi?
Con nói sật, không có ông vua nào ngày thưa mà quảng đại, nhân đức, sương
rân như Hồ chủ tịch đâu. Mẹ khuyên bảo bố lên trở về nàng nàm ăn, lếu nhà cháy thì
chỉ vài sáng sau là chính phủ sẽ cấp phát cho gấp đôi số đó để thây nại nhà.
Con không lói náo đâu. Mẹ tin con đi. Ai chứ Hồ chủ tịch tốt nắm và nhân đức nắm
mẹ ạ. Hồ chủ tịch chỉ ăn cơm với rau muống nuộc, muối vừng còn gạo sóc, sịt
nợn, sịt bò, tiền bạc là rành hết cho rân nghèo.
Mẹ không thấy tiệu tiệu người
hoan hô Hồ chủ tịch à? Con biết gia đình mẹ đi như sế lày nà nên Hà Lội, rồi
xuống Hải Phòng, theo Tây, theo Mỹ vào Lam. Trong Lam đói khổ nắm, toàn ngô
khoai bobo không hà! Sao bố mẹ tính quẩn vậy? Người trong Lam lay mai sẽ ri cư
ra Bắc cả tiệu cho mẹ coi vì ở tong đó đói quá không chịu lổi, giết trẻ con ăn
sịt không hà!”
Gia đình chú thím đã quê mà chúng còn quê hơn.
Phải bấm bụng không dám cười!
Chúng ôm những đứa trẻ (mặc cho trẻ la khóc) và
mấy cái xách tay đi làm cả gia đình chú cũng phải đi theo. Đi một quãng xa thấy
có nhà cửa, chúng đưa gia đình chú vào một cái điếm canh khi xưa, nay chúng gọi
là trụ sở du kích xã. Chúng bảo cho ăn cơm mà nào thấy gì.
Chúng để lại hai tên
canh coi còn đi đâu mất tăm mất dạng. Ba đứa con nít chúng bế vào một nhà nào
đó trong xóm, chúng cho phép hai người mẹ là con dâu và con gái chú đi theo để
dỗ ba đứa trẻ khỏi khóc.
Khoảng tối mịt chúng đưa ba đứa trẻ và mẹ chúng
trở lại điếm canh, một tên đưa đến cho chú và gia đình mỗi người một cái
bắp ngô hay một củ khoai.
Chúng bảo nằm ở đó ngủ và sáng hôm sau chúng cho trở
về làng. Nước uống không có, con trai và con rể với chú phải đi theo một tên du
kích ra bờ sông kín nước vào hai cái hũ sành chúng cho mượn về cho mọi người
uống.
Nhân lúc tên du kích không có mặt khi chú và hai
thằng con lội xuống sông lấy nước, chú hỏi nhỏ hai thằng con, chúng mày định ra
sao?
Thằng rể bảo phải tìm cách trốn đi bố ạ. Chú hỏi
thế còn mẹ, vợ con mày và những đứa khác? Nó bảo phải đành bỏ lại rồi tính sau
chứ không thì chúng bắt trở lại làng, chết cả đống. Về làng không yên với du
kích làng đâu.
Chú nghe thằng con rể nói có lí. Còn thằng con
trai không nói gì. Chú biết nó rất thích vào Nam nhưng tính hơi nhát không dám
liều như thằng anh rể nó. Chú bảo thằng Khả là thằng rể và thằng Kiệm là thằng
con trai, hễ đêm khuya chú nháy chúng nó thì liệu dậy mà chuồn. Cấm không cho
đàn bà con nít biết gì hết. Đau khổ chưa cháu Vũ?
Sau đó ba cha con trở lại điếm canh, mỗi người
uống một bát nước sông cho đỡ khát rồi nằm ngủ.
Hình như bọn này còn giữ nhiều người khác cũng
theo kiểu bắt cóc như đã bắt cóc gia đình chú. Chúng thấy gia đình chú không
phản đối nhiều, cho rằng đã ưng thuận trở lại làng nên chúng đi làm việc với
đám khác, chỉ để một tên lại canh gác.
Khoảng hai giờ sáng, ai nấy đều ngủ say, chỉ
riêng chú và thằng con rể lớn là vẫn thức vì nó nằm cạnh chú. Thằng du kích gác
gia đình chú ngồi tựa đầu vào gốc cây bàng ngáy khò khò ở cách chỗ ngủ của gia
đình chú một khoảng vài chục mét. Nó cũng sợ bố con chú cướp súng giết nó.
Chú thấy đã đến lúc bèn bấm ba thằng con. Thằng
Khả và thằng Kiếm nhỏm dậy ngay cùng với chú, thằng rể thứ nhì không chịu trốn
vì nó thương vợ con nó quá, nhưng thằng con trai lớn, thằng Kiệm có vẻ do dự.
Chắc nó sợ những bất trắc xẩy ra vì trốn không thoát. Chú kéo tay nó, thì thầm
vào tai nó mãi rồi nó mới ngồi dậy.
Chú bảo chúng:
“Đi theo bố!”
Ngay lúc đó thím nghe được. Bà ấy níu lấy chú:
“Bố con ông đi đâu vậy?”
Chú nói rất ngắn:
“Đi trốn rồi ra Hà Nội. Bà với lũ trẻ đi không
thoát đâu. Thôi để bố con tôi đi rồi tính sau.”
Thím chắc là đau khổ lắm nhưng biết chú nói
đúng. Thím nắm lấy tay chú trong hai tay bà ấy, hình như thím khóc lặng lẽ:
“Xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ bố con ông đi cho
thoát. Thoát được thì lo cho mẹ con tôi nhá!”
Chú Kế ngưng lại một lúc vì kể đã mệt. Tôi đưa
chén nước trà cho chú:
“Chú uống đi cho bớt mệt. Cháu có thuốc lá, chú
hút một điếu.”
Tôi giở bao thuốc Capstan (lúc ấy có nhiều ở Hà
Nội) mời chú Kế, xong bật cái Zippo cho chú mồi. Chú hít một hơi rồi thở ra:
“Cháu Vũ, cháu phải nhớ lời chú nói đây. Không
một người nào sinh ra ở cái nước Việt Nam này mà không bị liên luỵ, đau khổ
không nhiều thì ít vì giặc Hồ. Mấy đứa nhỏ 1, 2, 3, 4 tuổi cháu nội, cháu ngoại
của chú đã phải chịu khổ vì Việt Minh rồi. Đời thuở nào mới mấy tuổi đầu đã nếm
mùi chiến tranh, bom đạn, bắt cóc, nhìn thấy xử bắn, tra tấn, đánh đập, nạt nộ,
cướp nhà, cướp đất dân quê ở nông thôn. Cháu có thấy xứ sở nào khốn khổ như thế
không?
Ngay mọi Phi châu cũng không khốn nạn như thế. Mà chúng luôn mồm ca tụng
cách mạng, giải phóng, nhân dân làm chủ, cán bộ là đầy tớ nhân dân. Đầy tớ nhân
dân mà chúng bắt cóc người ngang xương, cấm không cho lên Hà Nội để vào Nam thế
sao? Chúng thật là một bọn dã man. Kể từ nay gia đình chú coi như tan nát chia
li rồi cháu à. Thôi để chú kể tiếp. ”
Chú Kế rít thêm một hơi thuốc nữa xong nói:
“Bốn bố con chú lẩn lút ra đến đầu làng, vừa đi
vừa phải đề phòng. Nhờ vì thằng Khả nhớ đường, nó nói lúc bọn du kích dẫn vào
nó để ý từng mái nhà, từng gốc cây, cố nhớ lấy để lúc ra dễ dàng vì nó đinh
ninh sẽ phải trốn ra.
Kia là đường cái quan, như thế này hi vọng có
thể thoát được. Tuy nhiên như đã nói có một đồn lính Pháp khoảng hơn 1km, chú
bảo ba thằng con phải cẩn thận. Việt cộng không được phép tấn công đồn binh
Pháp sau ngày 20-7-1954 vì đã đình chiến và Pháp, trong thời gian chờ vận
chuyển rút lui, cũng không bắn người bị nghi ngờ là Việt cộng.
Chú bảo ba thằng
con kiếm một cành cây bên đường, lấy cái áo cộc trắng buộc vào đầu làm cờ hàng
rồi bốn cha con đi chậm chậm đến lối vào đồn. Nhờ có vài ngọn đèn điện mờ mờ,
bốn cha con chú đã đến gặp được người lính Pháp gác đêm. Lúc ấy cũng đã hơi
sáng.
Nhờ thằng Kiếm biết chút ít tiếng Pháp, bốn bố
con chú được cho tá túc ở đồn. Sáng hôm sau họ phát đồ hộp cho ăn rồi cho quá
giang xe lên Hà Nội. Nhờ thế chú mới gặp cháu đây.
Hiện giờ, chú không biết thím và các con các
cháu chú ra sao? Chú nghĩ thím và cả nhà mừng vì chú và ba anh con trai đã
thoát được nanh vuốt Cộng sản nhưng thương nhớ và đau khổ, mấy mẹ con, bà cháu
khóc lóc lắm đây.
Cháu biết đường đi nước bước xuống Cảng, vui
lòng hướng dẫn cho chú và các em với. Ra đi thế này là đau khổ lắm vì chẳng biết
gia đình còn ở lại có sống được với chúng không nhưng không còn con đường nào
khác cháu à!”
Việt cộng đã dùng cách níu kéo này để ngăn cản
nhiều triệu người Bắc lũ lượt vào Nam vì nhất quyết không ở lại sống với VC.
Mẹ, các anh chị và các cháu tôi ở làng quê cũng không trốn thoát được vì sự đe
dọa sẽ mất nhà, mất mạng nếu cố tình trốn đi!
20-7-2014
GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết