From: Viet <vietn
Đảng Dân chủ trả thù VNCH Nguyên nhân và hậu quả
Tác Giả:
Trọng Đạt
-
11/05/2017
TT Nguyễn Văn Thiệu. Ảnh minh họa, nguồn
Kienthuc
Giữa
tháng 4-1975 miền nam Việt Nam kiệt quệ tiếp
liệu đạn dược, Quốc hội Dân chủ Mỹ đã bác bỏ khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu
do TT Ford đưa ra để giúp Việt Nam Cộng Hòa, quyết định đã
khiến Cộng sản Bắc Việt tiến vào Sài gòn y như vào chỗ không người. Biến
cố lịch sử này mọi người đều biết cả, hành động cạn tầu ráo máng của họ đã có
nguyên nhân. Có người cho vì trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 1968, ông
Thiệu đã nghe lời khuyên của ứng cử viên Nixon (Cộng Hòa) không tham gia cuộc
Hòa đàm Paris tháng 11-1968 khiến Dân Chủ thất cử năm đó. (1)
Xin
sơ lược vấn đề: năm 1965 Tổng thống Johnson đưa quân ồ ạt vào bảo vệ miền nam
VN chống Cộng Sản xâm lược, tới cuối năm quân số Mỹ lên tới gần 200,000 người.
Johnson tiếp tục tăng quân cho tới 1968 tổng số đã lên tới hơn nửa triệu. Cuộc
chiến kéo dài, số lính Mỹ chết trận tính tới năm 1968 tổng cộng trên ba mươi
ngàn khiên phong trào phản chiến lên cao dữ dội.
Tháng 3-1968 CS Hà Nội chịu thương thuyết tại Paris sau khi thảm bại
trận Mậu Thân tết 1968, Johnson tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ hai (tháng
11-1968) vì biết trước cử tri sẽ không bầu cho ông.
Hòa
đàm Paris khai mạc tháng 5-1968 giữa Mỹ và CSBV, VNCH chưa chịu tham gia vì
chống sự hiện diện của Mặt trận giải phóng (VC). Hai bên Mỹ-Hà Nội đang bàn
thảo về thành phần Hội nghị dự trù chính thức khai mạc đầu tháng 11-1968 sẽ có
đủ bốn bên Mỹ, VNCH, CSBV và Mặt trận giải phóng. Trong khi ấy cuộc bầu cử Tổng
thống Mỹ đang diễn ra sôi nổi, phó TT Humphrey đại diện đảng Dân chủ, Nixon đại
diện Cộng hòa.
Ông
Thiệu phản đối không tham dự Hòa đàm vì Mỹ để phái đoàn Việt Cộng tham
dự. Nixon nhân cơ hội cử sứ giả (bà Anna Chennault, người Hoa) sang Sài
Gòn khuyến khích ông Thiệu đừng tham gia Hội nghị, chờ Nixon thắng cử (vào đầu
tháng 11-1968) ông sẽ giúp VNCH tích cực hơn là Dân Chủ.
Kết
quả bầu cử ngày 5-11 là Nixon (Cộng hòa) thắng cử với 301 phiếu cử tri đoàn
trên 32 tiểu bang, Humphrey được 191 phiếu trên 13 tiểu bang và DC, Wallace
(ucv độc lập) được 46 phiếu, trên 5 tiểu bang, Nixon thắng cử với tỷ lệ 56%. TT
Johnson kết án ông Thiệu vì không tham dự hòa đàm nên Humphrey (Dân chủ) thất
cử, ông đã cho nghe lén và biết là ứng cử viên Nixon đã âm mưu cử sứ giả sang
Sài Gòn thuyết phục ông Thiệu không tham dự Hòa đàm Ba Lê. GS Nguyễn Tiến Hưng
cho biết năm 1985 tại Luân Đôn ông Thiệu kể lại rằng hồi ấy (1968) nếu Humphrey
(DC) đắc cử thì nửa năm sau sẽ ép miền nam VN liên Hiệp với CS để họ rút quân, ông
Thiệu đi với Nixon (CH) còn hy vọng hơn. Tôi tin là ông Thiệu nói đúng, chẳng
thà theo Cộng Hòa còn hy vọng tồn tại một thời gian.
Từ
đó đảng Dân chủ thù ghét VNCH, cho rằng vì ông Thiệu mà họ thất bại. Tác giả
Trần Đông Phong cho biết tháng 4 năm 1975 (2) Quốc hội Mỹ do Dân chủ kiểm soát đã
cắt bỏ hoàn toàn quân viện miền nam VN để trả thù việc ông Thiệu 7 năm trước
(1968) đã ủng hộ Cộng hòa và giúp Nixon thắng cử. Ông Phong nói một số dư luận
tại Washington hồi đó nhận định như thế, ông trích dịch cuốn A Better War của
Lewis Sorley trang 366: “….Quốc
hội Mỹ đã sắp xếp chuyện đó với một sự trả thù”
Theo
tôi nghĩ ông Thiệu chỉ là Tổng thống một nước nhược tiểu rất khó có thể gây ảnh
hưởng tới cán cân tranh cử nước Mỹ và đã viết riêng một bài về chuyện này (3). Lý do chính mà Dân
chủ thất cử vì đã làm hai nhiệm kỳ (1960-68) đã lãnh đạo cuộc chiến tồi tệ, gây
thiệt mạng cho hơn 30,000 lính Mỹ, bị dân chống đối.. Cử tri bầu cho Cộng hòa
để tìm hòa bình, rút ra khỏi cuộc chiến. Chẳng lẽ đảng Dân chủ lại nói sở dĩ
người dân không bầu cho chúng tôi vì họ quá chán cuộc chiến, quá chán đảng Con
Lừa … mà phải đổ thừa ông Thiệu cho nó đỡ quê. Ngày nay năm 2017, Dân chủ lại
đổ thừa cho ông Putin đã làm họ thất cử, cũng lại nói
cho đỡ mắc cở.
Dù
ông Thiệu có gây ảnh hưởng tới cuộc tranh cử hay không nhưng ông ta đã theo phe
đối thủ Cộng hòa năm 1968, đã phản lại Dân chủ vì TT Johnson (DC) đã giúp chính
phủ Thiệu-Kỳ từ 1965 cho tới 1968 nên họ coi như ông Thiệu đã phản bội họ Tôi
nghĩ không phải đợi tới năm 1975 họ mới báo thù, mà ngay sau khi TT Nixon (Cộng
hòa) nhậm chức năm 1969. Theo lời kể của Kissinger (4) khi Nixon vào Tòa
Bạch Ốc (1969), những người đã đưa quân can thiệp vào VN (Dân chủ) mới đầu đứng
trung lập (giữa phản chiến và chính phủ) sau quay ra a dua với bọn chống chiến
tranh, kết tội Nixon hiếu chiến….
Nói
về chớp thời cơ thì Dân chủ là hạng nhất, năm 1965 họ thăm dò thấy tỷ lệ ủng hộ
cuộc chiến rất cao VN vội đưa quân ồ ạt vào, nay phong trào phản chiến rất mạnh
lại nhẩy hùa theo bọn phá hoại…cái gì thì dở nhưng mị dân thì họ vào hạng nhất.
Trong
suốt thời kỳ chiến tranh VN Dân chủ đều nắm Quốc hội dù Hành pháp thuộc đảng
nào (5),
họ thao túng Lập pháp nhất là từ cuối thập niên 60. Năm 1970 khi TT Nixon cho
tấn công qua biên giới Miên để phá hủy các căn cứ CSBV và VC, đáng lý ra ông có
thể quét sạch được Cộng quân trên đất Chùa Tháp nếu không bị Dân chủ phản chiến
và truyền thông đánh phá ngăn cản mà chỉ được phép tiến vào đất Miên vài chục
cây số.
Năm
sau 1971, trong cuộc hành quân sang Lào, Quốc hội Dân chủ cấm không cho quân Mỹ
vượt qua biên giới cùng quân đội VNCH kể cả cố vấn nên chiến dịch đã không được
thành công.
Năm
1972 Quốc hội Dân chủ chống đối chiến tranh và tỏ ra thù hận VNCH rõ nét hơn
trước, cuối tháng 11-1972, ông Nguyễn Phú Đức, phụ tá đặc biệt ngoại vụ của TT
Thiệu được cử đi Washington để họp với Kissinger, Tướng Haig, TT Nixon
về việc ký kết Hiệp định Paris. Trong phiên họp phía Mỹ cho biết VNCH
phải chấp thuận bản Dự thảo Hiệp định nếu không sẽ đưa tới việc bị Quốc hội cắt
hết viện trợ (6).
Nguyễn Phú Đức mang theo những điều khoản của TT Thiệu (đòi CSBV phải rút về
Bắc) và nói rõ ông ta không sợ Kissinger, Tướng Haig dọa cắt viện trợ. TT Nixon
có nói với NP Đức nếu ông Thiệu không hòa hợp với chính phủ Mỹ để ký Hiệp định
sẽ không xin được viện trợ. Nixon nói ông đã được các vị Trưởng khối tại Quốc
hội như John Stennis, Barry Goldwater, Gerald Ford.. cảnh cáo cho biết nếu VNCH
không thuận ký thì Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh đưa ra Hạ viện với
tỷ lệ 2-1, để đổi lấy tù binh và rút quân về nước. TT Nixon nói thật chứ không
dọa, Quốc hội Dân chủ lúc này sẵn sàng bức tử miền nam VN nếu ương ngạnh với họ.
Ngay
từ tháng 10-1972, khi Kissinger đưa ra bản dự thảo trong đó Hà Nội đã chịu
nhượng bộ những điểm chính như: không đòi lật đổ chính phủ Thiệu, không đòi
liên hiệp.. nhưng họ vẫn đóng quân tại miền Nam, không rút về Bắc. Ông Thiệu
cương quyết chống đối bản dự thảo, Nixon mới đầu ủng hộ VNCH sau đó bị các vị
chức sắc Quốc hội đe dọa ra luật chấm dứt chiến tranh nếu ông Thiệu không chịu
ký, họ cảnh báo TT Nixon như vậy. Quốc hội cho bản Hiệp định như thế là được
rồi, không được đòi hỏi thêm kéo dài thời hạn ký kết.
Sang
tháng 12, phái đoàn CSBV cố tình phá hòa đàm, không chịu thương thuyết nghiêm
chỉnh, họ hy vọng Quốc hội mới của Mỹ họp đầu năm (đầu tháng 1-1973) sẽ ra luật
chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền nam VN theo yêu cầu BV để đổi lấy tù binh,
sau đó rút quân về nước. TT Nixon đã phải dùng sức mạnh tối đa để đưa Hà Nội
trở lại bàn hội nghị bằng 200 pháo đài bay B-52 oanh tạc liên tực 11 ngày đêm,
dội 20 ngàn tấn bom xuống miền Bắc VN Ông ta sợ nếu BV không trở lại bàn hội
nghị Quốc hội có thể ra luật chấm dứt chiến tranh.
Sau
ngày oanh tạc Giáng Sinh, sang tháng 1-1973 Quốc hội Dân chủ luôn hăm dọa ra
luật chấm dứt chiến tranh nếu Hiệp định bị trở ngại. Ngày 2-1-1973 Hạ viện Dân
chủ bầu nội bộ với
lệ 154 thuận và 75 chống để cắt hết viện trợ mọi hoạt động quân sự ở
Đông dương vừa khi rút quân về nước và lấy lại tù binh. Hai ngày sau, Dân chủ
Thượng viện bầu nội bộ cũng thông qua Dự luật tương tự với số phiếu 36 thuận và
12 chống. (7)
Người
ta thường nghĩ TT Nixon và Kissinger hăm dọa, bắt ép ông Thiệu ký kết Hiệp định
Paris với điều khoản bất lợi cho VNCH (Cộng quân không phải rút về Bắc) sự thực
không phải như vậy. Quốc hội Dân chủ đã
bắt ép Nixon phải ký sớm hiệp định nếu không
muốn bị cắt hết nguồn tài chính quân sự cho Đông Dương. Chúng ta thấy rõ
tháng 1 năm 1973 họ cương quyết hơn trong áp lực VNCH phải chấp nhận ký một
hiệp ước bất bình đẳng.
Tác
giả, Giáo sư Mark Clodfelter nói
“Ta không biết Quốc hội có cắt viện trợ VNCH hay
không nếu không có trận oanh Giáng sinh (cuối tháng 12-72) nhưng sau trận oanh
tạc, Lập pháp phẫn nộ và việc cắt viện trợ miền Nam chắc chắn sẽ xẩy ra nếu TT
Thiệu từ chối ký kết Hiệp định. Nhà lãnh đạo miền Nam (tức ông Thiệu) không dám
liều lĩnh như vậy, không có viện trợ, không thể sống còn. Ông ta đồng ý ký
nhưng sau hạn chót của TT Nixon”
(8)
Nhận
xét của GS Mark Clodfelter cho thấy Dân chủ sẽ thẳng tay trừng trị VNCH không
thương tiếc trong trường hợp ông Thiệu không chịu ký Hiệp định (vào tháng 1-73)
và ông Thiệu là người biết rõ hơn ai hết, mặc dù ông lớn tiếng chỉ trích
Kissinger, Nixon bắt ép miền Nam ký Hiệp định nhưng thực ra ông không dám liều
lĩnh với Quốc hội Dân chủ. VNCH thắng trong trận tấn công 1972 mà như thua vì
Dân chủ muốn như vậy, họ không đếm xỉa gì tới sự tồn tại của miền Nam mà chỉ quan
tâm đến hòa bình, lấy tù binh, rút quân về nước.
Như
thế ông Thiệu phải chấp nhận một Hiệp định bất bình đẳng (BV vẫn đóng quân ở
miền nam) không phải vì sợ TT Nixon dọa chặt đầu hay đảo chính mà là vì biết
Quôc hội Dân chủ sẽ thẳng tay bức tử VNCH ngay khi đó. Hơn ai hết ông Thiệu
biết rõ sự thật
phũ phàng này, chẳng thà ký kết còn hy vọng sống sót thêm ít năm vẫn hơn là để
người ta bóp chết ngay lúc này.
Hiệp
định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, ngay sau đó CSBV vi phạm thỏa ước vì
không bị oanh tạc, họ vội vã chuyên chở vũ khí, nhân lực vào nam trước mùa mưa
(vào tháng 4), TT Nixon không dám oanh tạc vì còn chờ lấy tù binh vào tháng 3.
Tại Căm Bốt, Khmer đỏ được BV giúp bao vây Nam Vang khiến Nixon phải oanh tạc
mạnh để cứu chính phủ Lon Nol (9).
Kể
từ sau ngày ký Hiệp định, Quốc hội Dân chủ thẳng tay triệt hạ VNCH ngày càng rõ
nét, họ tích cực phản đối chính sách can thiệp của Nixon, ra tu chính án cắt
ngân khoản quân sự cuối tháng 6-1973, Tổng thống miễn cưỡng ký thành luật có
hiệu lực từ 15-8-1973. Nội dung như sau:
“Tu chính án này xác định từ nay không còn ngân
khoản nào để yểm trợ trực tiếp, gián tiếp cho các hoạt động quân sự Mỹ tại
Miên, Lào, Bắc VN, Nam VN hoặc ngoài khơi Miên, Lào, Bắc Việt, Nam Việt và từ
sau ngày 15-8 sẽ không có ngân khoản nào khác của bất cứ Điều luật nào dành cho
những mục đích này”.
Tu
chính án trên coi như đã bức tử VNCH và cả Đông Dương
từ giữa năm 1973 vì Hành pháp Mỹ sẽ không có ngân khoản oanh tạc yểm trợ
quân đội đồng minh. Như ta đã thấy, với hỏa lực, nhân lực yếu hơn CSBV, miền
nam VN vẫn phải dựa vào B-52 của Mỹ. TT Nixon nói đạo luật này đã khiến ông bất
lực không bảo vệ được Hiệp định tại VN và cho phép Hà Nội xâm chiếm VNCH thoải
mái.
Về
điểm này Giáo sư Robert
F. Turner nói
“Tôi xin nhắc lại cho quý vị
trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris .
Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.Nhưng
quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự luật vào tháng Năm
1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ
cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển
thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các
nước không Cộng sản tại Đông Dương” (10)
Quốc
hội Dân chủ liên tiếp ngay sau đó ra những quyết định thù nghịch miền nam, họ
cắt giảm viện trợ quân sự xương tủy với VNCH
mỗi năm khoảng 50%: Từ
2,1 tỷ tài khóa
1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975
(11). Họ
lý luận theo kiểu đạo đức giả nếu tiếp tục viện trợ quân sự, ông Thiệu sẽ vẫn
gây chiến tranh.
Tháng
8-1974, TT Nixon từ chức vì vụ Watergate, phó TT Ford lên thay.
Miền
Nam ngày càng suy yếu rõ rệt, 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay thiếu cơ
phận thay thế phải nằm ụ. Hỏa lực giảm từ 60% tới 70% , tháng 3 -1975 đạn chỉ
còn đủ xử dụng trong một tháng, tháng 4 chỉ còn đủ cho xài khoảng hai tuần (12). Đảng Dân chủ trả
thù miền nam VN bằng lối giết người không dao đã khiến cho bao nhiêu đồng minh
của họ ngã gục trước họng súng, hỏa lực vũ bão của quân thù.
Tình
hình quân sự tháng 4-1975 của miền nam vô cùng bi đát, Tướng Weyand và
Kissinger đề nghị TT Ford ra Quốc hội xin khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho
VNCH, lúc này Dân chủ nắm đại đa số 67% Hạ viện và 60% Thượng viện, họ chống
chiến tranh VN kịch liệt, đối với họ giờ là lúc phục thù.
Ngày
10-4-1975 TT Ford ra Quốc hội xin viện trợ cho VN, có hai dân biểu Dân Chủ
Moffet và Miller bỏ ra khỏi phòng họp.
Ngày
18-4-1975, quân viện khẩn cấp 722 triệu bị Quốc hội bác, họ lý luận số ngân
khoản này cũng chỉ kéo dài chiến tranh gây thêm tang tóc. TT Ford xin viện trợ
nhân đạo để cứu người tỵ nạn khi CS đang xâm chiếm miền Nam, nhiều vị thuộc Dân
chủ chống mạnh, đài VOA hồi đó cho biết Thượng nghị sĩ Joe Biden đã để lại câu
nói bất hủ “cương quyết không cho một tên tỵ nạn VN nào vào Mỹ” sau này trong
cuộc tranh cử TT năm 2008, cử tri VN hỏi ông về lời tuyên bố này thì ông chối
ngay.
Trong
khoảng thời gian này Kissinger tiên đoán:
“Chúng ta đang đối diện
với tấn thảm kịch vĩ đại, trong đó có cái gì liên quan tới uy tín, tới
danh dự của Hoa Kỳ, tới cái mà các dân tộc khác trên thế giới sẽ nhìn chúng ta
như thế nào”
(13)
Tướng
Weyand cũng đã phát biểu
“Uy tín lâu dài của Hoa Kỳ trên thế giới phụ
thuộc vào nỗ lực thiện chí của ta cố gắng làm hơn là thành công hay thất bại
trong lúc này, nếu ta không nỗ lực uy tín của ta như một đồng minh sẽ bị tiêu
tan, có lẽ sẽ qua hết đời này sang đời khác”.(14)
Hoặc
“Uy tín của Hoa Kỳ với tư cách một đồng minh
đang có nguy cơ bị mất tại Việt Nam . Để giữ uy tín ấy chúng ta phải cô gắng
tối đa trợ giúp miền nam VN” (15)
Hành
động thù ghét VNCH của Quốc hội Dân chủ ít nhiều cũng khiến đất nước họ phải
trả giá: tại Đông nam Á ngày nay nhiều nước đồng minh của Mỹ đã có khuynh hướng
ngả về Trung Cộng như Thái Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Miên, Lào…người ta không
còn dám tin tưởng vào sự bảo vệ của một siêu cường thất tín.
Xưa
thì họ báo oán miền nam VN, kết án ông Thiệu giúp đảng Cộng Hòa thắng cử, nay
lại kết án Putin giúp Donald Trump thắng cử và ra biện pháp trừng trị Nga …họ
xóa sổ VNCH thì dễ nhưng chỉ đánh Nga bằng võ mồm.
Năm
1964, khi thấy thăm dò đại đa số người dân (78%, 85%) ủng hộ cuộc chiến VN (16) đảng Con Lừa vội
đem đại binh đổ bộ vào ngay. Bốn năm sau (1969) khi thấy phong trào chống đối
lên mạnh họ vội hùa theo bọn phản chiến đánh phá Chính phủ đối lập cật lực ngay
từ năm 1969, 70…
Nhưng
nay chiến lược mị dân kiếm phiếu đã hoàn toàn sụp đổ, sự thảm bại của Con Lừa
trong cuộc tranh cử 2016 vừa qua cho thấy gió đã đổi chiều.
Từ
nhiều thập niên trước, đảng Con Lừa được truyền thông, quyền lực thứ tư yểm trợ
hết mình và có phương tiện mạnh để trấn áp đối phương, tiếc thay truyền thông
cũng vừa hết thời oanh liệt. Nay internet, mạng xã hội Facebook, Tweeter…. ngày
càng bành trướng khiến truyền thông mất dần địa vị độc tôn. Năm 1968 sau trận
Mậu Thân, Walter Cronkite giám đốc chương trình CBS sang VN về chỉ phán một câu
chỉ trích cuộc chiến thất bại thế là phong trào phản chiến bùng lên dữ đội đưa
Đông Dương tới chỗ sụp đổ tan tành năm 1975
Trước
đây, năm 2008 truyền thông có thể đưa một người da mầu không ai biết tới như
ứng cử viên Obama lên làm Tổng thống, đánh bại cả hai nhà chính trị da trắng
tiếng tăm như Hillary Clinton, John McCain. Nay
gió đã đổi chiều, mặc dù 90% TV, báo, đài… tập trung hỏa lực yểm trợ tối đa cho
đảng Con Lừa năm 2016 nhưng thay vì chiến thắng vinh quang chỉ là thất bại ê
chề.
..
Nhà Phật gọi là vô thường…chẳng có gì là thường còn. …
Trọng Đạt
——————————————–
(1)
Chuyện này đã được GS Nguyễn Tiến Hưng kể lại trong Chương Một của cuốn Khi
Đồng Minh Tháo Chạy năm 2005 và
năm sau 2006 ông Trần Đông Phong cũng bàn kỹ về đề tài này trong cuốn
Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng (từ trang 41 tới trang 69)
(2)
VNCH, 10 Ngày Cuối Cùng trang 41, 42
(3)
Ông Thiệu và cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ tháng 11- 1968
(4)
White House Years, Chương VIII, trang 227
(5)
Composition of Congress, by Political Party, 1855–2017:
1961,
Hạ viện DC 60%, Thượng viện DC 64%, năm 1968, Hạ Viện DC 56%, Thượng viện DC
57%, 1972 Hạ viện DC 55%, Thượng viện DC 57%
(6)
Larry Berman: No Peace, No Honor.. trang 198, 200.
(7)
Nixon: No More VN trang 169, 170; Larry Berman:
No Peace No Honor trang 221
(8)
Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 200
(9)
Richard Nixon: No More Vietnams trang 175-180
(10)
Trích trong bài Hậu
Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
của GS Robert
F. Turner
(bản dịch đăng trên
nhiều trang mạng)
(11)
Nixon: No More Vietnams trang 185-186, Henry Kissinger: Years of Renewal trang
471
(12)
Nixon: No more Vietnams trang 187, Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối VNCH trang 82,
83, 91, 92, Phillip B. Davidson: Vietnam At War , The History 1946-1975 trang
748
(13)
Walter Isaacson: Kissinger a Biography trang 641,642
(14)
Walter Isaacson: Kissinger a Biography trang 640,641
(15)
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam trang
266.
(16)
Karnow: Vietnam a History trang 390; Answer.com, domino theory
Lịch Sử
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết