Chuyện chắc gì ai cũng biết ?
Tại sao? Vì sao? Minh, Khiêm, Khánh, Đôn, Đính... không tên
nào dám nhận mình đã ra lệnh giết Ô. Diệm.
Nếu vì nhân dân xóa bỏ bạo quyền sao lại lấp la lấp lúng. Nếu có
chính nghĩa thì sao lại bán cái lan cho nhau?
G2
TÀI LIỆU LỊCH SỬ:
Ngô
Đình Cẩn, ông là ai? (p1)
Nguyễn
Văn Lục
<ngodinhcan4.jpg>
Tựa đề trên cho bài viết này, tôi lấy cảm hứng
từ bài biện hộ ba tiếng đồng hồ của luật sư Võ Văn Quan đặt ra cho những kẻ
đứng trên cả pháp luật như Nguyễn Khánh với sắc luật 4/64, những quan tòa nhân
danh công lý ngồi xử ông Cẩn, cho các nhân chứng tố cáo ông Cẩn, cho tất cả
những ai thù ghét cũng như quý mến ông Cẩn phải trả lời được câu hỏi: Ngô Đình
Cẩn. Ông là ai?
<ngodinhcan64.jpg>
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi bệnh tiểu đường, ra toà ngày 16 thang4,
1964. IIng tuyên bố vô tội. Nguồn: UPI
Theo dõi phiên tòa với lời biện hộ của luật sư
Quan cho ông Cẩn, hầu như có một sự im lặng chạy suốt căn phòng tòa án. Sự im
lặng ấy phải chăng luật sư đã đánh động được một cái gì, cái gì đó của những
người có mặt.
Nam Đình có đặt câu hỏi: tôi không biết 9 năm ở
Huế ông hét ra lửa như thế nào, chớ hôm nay ra tòa, tôi ngồi cách bị can 4
thước mà tôi không nghe thấy gì hết, mặc dầu tôi ở cạnh sông Hương núi Ngự bao
nhiêu năm. (Bài tường thuật của nhà báo Nam Đình cho tờ báo Thần Chung)
Xin trích lại lời luật sư Võ Văn Quan sau lời
bào chữa cho ông Cẩn:
“Dứt
lời, tôi ngồi xuống trong im lặng. Nơi cuối phòng xử có tiếng vỗ tay lẻ loi của
một người nào đó.(..) Tôi day lại nhìn ông Cẩn Ông nói: cám ơn luật sư thật
nhiều”. Anh cựu thủ lãnh luật sư đoàn Phan Kiến Khương nhìn tôi gật đầu mỉm
cười. Phần ông thủ lãnh luật sư đoàn Nguyễn văn Huyền trầm tĩnh hơn, kéo tay
tôi ra nói riêng: “ Ông ủy viên chính phủ này không phải tay vừa. Anh nên cẩn
thận đừng nóng nảy đi quá trớn, sơ xuất để cho Tòa có cớ làm khó dễ anh. Lúc
nào tôi cũng có mặt trong phòng xử để bênh vực anh.”
(Võ
Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành
nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn”. Hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội” Độc quyền
của tờ Ngày Nay, 1992)
Ghi chú về Ls Quan: Luật sư Võ Văn Quan tốt
nghiệp luật năm 1954 về luật dân sự tại Sài Gòn, chuyển hướng sang hành nghề
luật hình sự từ 1960. Ông từng là luật sư của nhiều vụ án liên quan đến chính
trị thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa như vụ các nhân sĩ trong nhóm Caravelle, vụ
tướng Dương Ngọc Lắm, vụ thiếu tướng Lâm văn Phát, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, vụ
đại tá Đàm Quang Yêu, vụ dân Biểu Trần Ngọc Châu, vụ kỹ sư Trương Như Tảng,
v.v..
Tư cách và sự can đảm của Ls Võ văn Quan trong
vụ biện hộ cho nhóm Caravelle, thời đệ nhất cộng hòa, là nguồn cớ cho việc ông
được bà Trần Trung Dung đến mời ông cãi dùm cho ông Cẩn. Có nhiều luật sư có
tiếng tăm, quen thân thiết với gia đình đã từ chối không dám nhận cãi cho ông
Cẩn.
Tại sao có sự im lặng ấy? Đó là cái nghịch cảnh
của vụ xử án này. Kẻ dưới quyền, ra vào luồn cúi chịu ơn mưa móc nay trở thành
kẻ ngồi xử án. Trong buổi trả lời ký giả Hồng Phúc, Ls Võ Văn Quan đã tiết lộ
cho biết,
“sau
phiên tòa đầu tiên, ông Cẩn cho biết những kẻ ngồi xử án ông (3 sĩ quan cấp đại
tá, một trung tá), ông Cẩn có nói rõ tên là những kẻ phản phúc. Đôi khi ông Cẩn
nhìn họ với cặp mắt long lanh qua gọng kính của ông, những kẻ ấy gặp cái nhìn
ấy thì bẽn lẽn quay mặt ra chỗ khác.”
(Trong vụ xử ông Ngô Đình Cẳn, theo luật sư Võ
Văn Quan khi trả lời phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc cho Thế giới Ngày Nay, ngày
17-3-2012 Trích nguyên văn lời luật sư Quan.)
Theo Ls Quan:
“Thành
phần xử án ông Ngô Đình Cẩn gồm: Lê Văn Thụ, chánh án. Phụ thẩm: đại tá Nguyễn
Văn Chuân, đại tá Đặng Văn Quang, đại tá Trương Văn Chương, trung tá Dương Hiếu
Nghĩa. Phụ thẩm Nhân dân gồm quý ông|: Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn
Hữu Sửu và Bùi Văn Nhu. Chưởng lý: Thiếu tá Nguyễn văn Đức. Lục sự Nguyễn văn
Tâm. Trong hồ sơ ghi: Án Tòa Cách Mạng, do sắc luật 4/64, ngày 20-2-1964.”
Không dám đoan chắc
nhưng trong 1 số video clip và hình ảnh xem được có C.Á. Lê Văn Thu/Thụ trông
rất giống thầy Đẩu dạy lớp đêm về Littérature Frse. rất nổi tiếng ở trường
Huỳnh Thị Ngà cuối thập niên 50 đầu 60, nhà thầy là 1 căn phố ngó cheo chéo
sang trường. Hai người khá giống nhau về tướng tá, nươc da nhất là cái miệng
hơi lệch ( giống chiếc mồm méo mó của Thủ Tướng Jean Chrétien của Canada nhưng
đở hơn nhiều) G2
Thành phần xử án này do chính tay Nguyễn Khánh
ký Sắc lệnh số 120-TP cử các tay chân của ông như các các đại tá kể trên.
Cũng theo Ls Võ văn Quan nhận xét về 4 vị sĩ
quan trên trong sách của ông:
“Thành
tích của ông Đặng Văn Quang thiên hạ biết quá nhiều, xin miễn nhắc đến. Thành
tích của đại tá Nguyễn văn Chuân ra sao, xin quý độc giả độc xem quyển Việt Nam
Nhân Chứng của tướng Trần văn Đôn sẽ thấy không có gì đáng đề cao. Đại tá
Trương Văn Chương về sau dính líu trong một vụ buôn lậu. Về phần Trung tá Dương
Hiếu Nghĩa không đầy một năm sau vụ án Ngô Đình Cẩn, tôi lại gặp ông một lần
nữa trong phòng xử này, nhưng ông tụt xuống ngồi trên ghế bị cáo vì dính lứu
trong vụ đảo chánh ngay 13-9-năm -1964, chuyện đời có lắm sự trớ chêu không thể
nghề được như vậy.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Thế giới ngày nay, số 108, tháng 2-3 93,
trang 89)
Phải chăng đây là một ván bài lật ngửa? Kẻ kết
ân trở thành bị cáo?
Trong phần phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc với Ls
Võ Văn Quan có một câu hỏi khá là quan trọng như sau:
“Theo luật sư, Ông Ngô Đình Cẩn là người có tội hay vô tội?
Ls Võ Văn Quan: Để trả lời câu hỏi này, tôi chỉ căn cứ trên hồ sơ
của bị can Ngô Đình Cẩn. Nếu căn cứ trên hồ sơ thì không có bất cứ bằng cớ nào
cũng không có bất cứ giấy tờ của ông Cẩn ra lệnh cho các công an trong vụ tống
tiền và thủ tiêu các nạn nhân gián điệp miền Trung. Tôi đã xin hỏi Ủy Viên
chính phủ: “Trong hồ sơ có công văn nào giao quyền cho ông Cẩn chỉ huy bộ máy
tư pháp, có một chỉ thị do bị can ký tên ra lệnh cho các công an viên đó hay
không?” Tuyệt nhiên không có. Không có văn thư, không có bằng cớ đích xác đó,
ủy viên chính phủ đành phải đưa ra nhân chứng để buộc tội ông Cẩn cho được.
Nhưng nếu không được xác nhận bằng văn thư cụ thể khách quan, có gì bảo đảm rằng
các nhân chứng vô tư, không bị chi phối vì tư lợi, không bị mua chuộc hay hăm
dọa. Những người được gọi là nhân chứng này thực sự họ là ai? Mấy nhân chứng
này là những người lật lọng tráo trở, quý tòa không thể nào tin vào lời nói của
họ được!
Luật sư Võ Văn Quan đã trích dẫn một nguyên tắc
pháp luật trong luật Hình sự được quy định rõ ràng như sau:
“Một
điều luật trong Bộ Hình Sự quy định rằng Tòa phải – và chỉ – căn cứ vào hồ sơ
mà thôi để phán xử, thậm chí những điều gì vị thẩm phán tự mình biết được,
nhưng không có ghi nhận trong hồ sơ, thẩm phán ấy cũng không được quyền căn cứ
sự hiểu biết riêng tư đó mà xử tội. Điều luật ấy rất công minh: những hiểu biết
riêng tư không có ghi lại trong hồ sơ, không được Công Tố Viện và bên biện hộ
nghiên cứu và tranh luận để nhận định xác tín, tức nhiên không thể dùng làm căn
bản cho việc xét xử được.””
(Võ Văn Quan, ibid., Ngày Nay, số 107, tháng 1-93).
Và sau đây là lời nói chót của ông Cẩn:
“Ông
diềm nhiên, chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không có ra
lịnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết.
Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận,
mặc dầu đối tượng cuộc chơi chính là sanh mạng của mình.”
(Võ Văn Quan, Ibid, Ngày Nay, số 110. Tháng 5-93)
Về phía ông Ngô Đình Cẩn, sau khi bị tuyên án tử
hình, ông Cẩn không nhận tội và một mực kêu mình vô tội.
Luật sưu Võ Văn Quan và ông Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hoà
(1964). Nguồn: Petrotimes.
Nhưng Ls Võ Văn Quan cũng thừa biết ràng không
thể nào có bản án tha bổng. Phiên xử tại Sài Gòn từ ông Ngô Đình Cẩn, bà Trần
Trung Dung, Ls biện hộ thì đều tin chắc rằng: Bản án tử hình đã được định trước
rồi. Tất cả chỉ là màn trình diễn như một vở kịch lớp lang có thứ tự đầu đuôi.
Người ta tự hỏi Công lý nằm ở chỗ nào trong Tòa
án? Nằm ở phía trên ba tòa quan lớn với Lê Văn Thụ, Chánh thẩm. Lê Văn Đức,
Công Tố Viên? Hay là nằm ở đằng sau cánh cửa tòa án với những nguời mà bà Trần
Trung Dung sau này ở bên Mỹ có dịp kể lại từng chi tiết rõ ràng cho Ls Quan về
những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn gian manh đằng sau vụ án? Và
quan trọng hơn cả là việc trao đổi trên xác chết Ngô Đình Cẩn của Nguyễn Khánh
muốn lấy lòng nhóm Phật giáo Trí Quang? Khánh xoay đổi sự liên kết của ông cho
phe phái nào hứa hẹn xét ra có lợi cho ông, ông sẽ ngả về phía ấy
Luật sư Võ văn Quan thừa hiểu dụng tâm của
Nguyễn Khánh:
“Để
mua chuộc cảm tình của giới Phật giáo. Chánh quyền tuyên bố sẽ đem Ngô Đình Cẩn
ra xét xử ngay. Đúng. Ông Cẩn phải bị đưa ra xét xử để trả lời về những tội
trạng của ông. Nhưng đột ngột đưa ông ra xét xử, với mục đích mua chuộc sự ủng
hộ của giới Phật Giáo, mua thời gian cho chánh quyền- Đó không phải là hành xử
công lý, nhưng là “ thủ đoạn chính trị lợi dụng công lý.”
(Ls Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 107, tháng 1-93)
Nguyễn Khánh đã chuẩn bị một hành lang pháp lý
với sắc luật số 4/64 ngày 28.2.1964 để có thể đưa những người như Phan Quang
Đông, Ngô Đình Cẩn, Đặng Sỹ ra tòa và họ sẽ không tránh khởi bản án tử hình.
Khánh đã đưa đại tá Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng
tư pháp để đưa ra luật 4/64.
Hiện nay tôi cũng không ai biết danh tánh nhóm
luật sư nào đã soạn thảo bộ luật 4/64. Và dù nay có biết, họ cũng cố tình dấu
nhẹm không để lộ danh tánh. Rồi ai là người ký bộ luật này để đem ra thi hành?
Quốc Trưởng Dương Văn Minh hay Thủ tướng Nguyễn
Khánh? Nhưng Nguyễn Khánh đã khẳng định đổ hết tội lên đầu Dương văn Minh: cái
chết của anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Cẩn là do sự trả thù cá nhân của
Dương Văn Minh.
Nguyên tắc của Bộ luật này là không tôn trọng
nguyên tắc bất hồi tố của hình luật. Vì thế, tòa án có thể xử những tội ác gây
ra trong thời gian từ 26-10-1955 đến 1-10-1963.
Điều 5, cấm tòa án cách mạng không được quyền
giảm khinh, cũng như không được phạt án treo. Điều 16, cấm các bị cáo không
được kháng cáo.
Đây là những điều luật giết người vô cùng dã
man. Ngậm ngùi thay cho đất nước vào hồi mạt vận nên gặp phải những kẻ gian sảo
vô tài lại bất lương, chối tội.
Đối với luật sư biện hộ thì văn hoa hơn, ông cho
rằng khi “chính trị đi vào cửa trước thì pháp luật phải luồn ra cửa sau”. Ông
cũng không quên viện dẫn trường hợp cách mạng Pháp như lời nói cuối cùng trước
khi tòa định án như sau:
“Trong
cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, Quốc Hội gọi là Convention Nationale, bầu
trong thời kỳ La Terreur (Khủng bố) gồm đa số là những người do tên độc tài
khát máu Ropespierre dùng áp lực đưa vào. Ropespierre đã tuyên bố là phải có án
tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt đó, Nhiều người của Convention Nationale đã
cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho thấy trước rằng họ sẽ bỏ
phiếu tuyên án tử hình.
Khi
đứng lên biện hộ cho Louis XVI, luật sư De Sège đã can trường nói thẳng với họ:
“Je
viens ici chercher des Juges, mais je ne trouve que des Bourreaux.” (Tôi đến
đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.)”
(Ls Võ Văn Quan, Ibid, số 119, tháng 5-93)
Dẫn chứng này của luật sư Võ Văn Quan có khác
chi chỉ thẳng vào các sĩ quan đang ngồi xử án trên kia, họ không phải quan tòa
mà chỉ là những tên đao phủ thủ không hơn không kém!
Lời kết án nặng nề như thế vậy mà các vị phán
quan ngồi xử án ngồi im lặng không một ai lên tiếng phản đối.
Hay ngược lại, phải chăng nó nằm ở phía bị cáo ở
vành móng ngựa? Ngô Đình Cẩn là ai? Nếu không có luật 4/64 thì cái đầu của Ngô
Đình Cẩn vẫn còn dính trên cổ? Ông Cẩn khong chết vì tội đã làm mà chết vì
khung pháp lý bất nhân như lưỡi hái tử thần phập xuống.
Vì thế, cho đến khi tôi cầm bút viết bài này,
câu trả lời Ông Cẩn là ai? không phải là dễ cho bất cứ ai. Nhiều uẩn khúc vẫn
còn đó.
Tướng Khánh phủ nhận mọi cáo buộc ông
Trong suốt thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa, hầu như
không một ai đã có dụng tâm muốn dở lại hồ sơ vụ án tử hình Phan Quang Đông,
Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ. Mọi người muốn quên chăng? Cùng lắm người ta nhắc
nhiều đến cái chết của anh em ông Diệm-Nhu với hằng trăm tài liệu phần lớn của
người ngoại quốc viết.
Trường hợp ông Cẩn là bị bỏ quên hoàn toàn.
Chê có thể không đáng chê mà khen thì không tiện
vì ông chỉ là một người ít học quê mùa, việc chính yếu của ông là thay anh em
phụng dưỡng mẹ già. Thói thường người mình thường coi thường kẻ ít học. Dĩ chí
đến anh em trong nhà cũng có thể có tâm trạng coi khinh “Cậu Cẩn”. Cộng thêm
chức cố vấn chỉ đạo miền Trung mà chắc chắn không có văn thư chính thức nào của
tổng thống phủ. Theo Trung tá Nguyễn Văn Minh do nhu cầu kết hợp các tổ chức
đoàn thể miền Trung đã đưa đến quyết định thiết lập một văn phòng chỉ đạo do
ông Ngô Đình Cẩn cầm đầu. Nó không có ngân sách, không thuộc hệ thống hành
chánh chính phủ. Trong đó văn phòng cố vấn chỉ đạo chỉ có tính cách nội bộ, địa
phương, không dính dáng đến chính quyền, được thành lập từ cuối năm 1957.
Sau này ra Hải ngoại tôi thấy đã bắt đầu xuất
hiện nhiều hồ sơ lẻ tẻ liên quan xa gần đến nội vụ như: Bạch truyện tự ghi của
Trí Quang, Thôn nữ Tự Truyện, của bà Ngọc An, vợ của Trung Tá Trần văn Thưởng,
giám đốc Nha công an Trung Phần. Hồ sơ Thống Nhất Phật Giáo của Đỗ Trung Hiếu.
Nhất là cuốn: Tổng kết nội vụ Phật giáo và |Đại Học (ghi Tối mật, dạng photoco
y có dấu triện trên từng trang một) của Lê Dư, trưởng ty Cảnh sát Quốc Gia Thừa
Thiên kính gửi Trung tướng chủ tịch Ủy Ban điều hành Trung nguyên Trung Phần.
Rồi Bạch Thư của TT Thích Tâm Châu. Có những tài liệu đáng nghi ngại in photocopy,
không đề tên tác giả như: Giấc Mơ lãnh tụ, ám chỉ hoạt động của Trí Quang và
Phật giáo miền Trung.
Càng đọc càng thấy nhiều uẩn khúc, nhiều điều
cần được suy nghĩ và nói ra.
Tôi cũng biết chắc, 10 người hết cả mười không
mấy ai có cơ hội đọc Cuốn Hồ sơ Nhân Quyền: Phúc trình của phái đoàn điều tra
Phật giáo. Bản báo cáo đầy đủ của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc phỏng vấn
các nhân chứng nạn nhân, 1963. Và khi về họ đã đi đến kết luận: Không có đàn áp
tôn giáo ở Việt Nam.
Và nếu ai cũng có cơ hội đọc được cuốn này thì
hiểu rõ thực chất vụ tranh đấu Phật giáo, tránh được biết bao tranh cãi vô ích?
Về sách Mỹ liên quan đến Phật giáo, tôi rất trân
trọng với cuốn: Lotus Unleashed, The Buddihst Peace movement in South Vietnam
1964-1966 của Robert J. Topmiller 2002.
Đọc cuốn này để hiểu Trí Quang là ai? Và Phật
giáo trong giai đoạn 1964-1965 thực chất là một lực lượng chính trị đi song
song với MTGPMN.
Tuy nhiên, cá nhân tôi bắt đầu lưu ý tới ông Ngô
Đình Cẩn khi được Trung tá Nguyễn Văn Minh, Văn phòng ông Cẩn trong 9 năm viết
hai cuốn sách: Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt và cuốn thứ hai gần đây: Dòng
họ Ngô Đinh, Giấc mơ bị phản bội. Tôi có cơ hội hiểu biết thêm về ông và những
nguồn dư luận bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự chú trọng tới hồ sơ
Ngô Đình Cẩn khi được đọc các tài liệu phía bên kia: Cuốn Bội Phản hay Chân
Chính của Dư Văn Chất cũng như bài “Nhà văn bất đắc dĩ” của Dư Văn Chất. (Tài
liệu này được Dư Văn Chất trao cho Nguyễn Văn Trung khi ra hải ngoại).
Tài liệu tiếp theo là của Mười Hương trong cuốn:
Tình Báo Chiến Lược. Và cuốn mới đây nhất cũng chỉ nhắc lại những ý kiến trước
đây: cuốn Trần Quốc Huong, người chỉ huy tình báo, do Nguyễn Thị Ngọc hải chấp
bút, 2015.
Nhưng tôi phải thú thực cuốn sách có khả năng
lôi cuốn và thuyết phục tôi một cách mãnh liệt và dứt khoát là cuốn sách của
luật sư Võ Văn Quan, lúc còn in trên báo Ngày Nay, năm 1992 trở đi: Luật sư
Nghề hay Nghiệp. Nay luật sư cũng đã không còn nữa.
Tôi viết bài này phần lớn dựa trên tài liệu của
tác giả, người đã hết lòng biện hộ cho Ngô Đình Cẩn. Và nay cúi mình trước vong
linh cả hai người: kẻ bị cáo và kẻ biện hộ.
Tiếp theo là các bài phỏng vấn giá trị của Ls
Lâm Lễ Trinh với những nhân vật như tướng Nguyễn Khánh (Bài phỏng vấn Nguyễn
Khánh nay không còn truy cập được nữa) Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Văn Y,
Tướng Huỳnh Văn Cao, v.v..
Cũng không thể nào không nhắc đến các bài phỏng
vấn của ký giả Hồng Phúc phỏng vấn Trung tá Trần Văn Thưởng, trung tá Nguyễn
Văn Minh.
Sau đó đến bài viết của tác giả Tú Gàn lên án
kết tội tướng Khánh. Cũng như ông Bùi Duy Liêm, đài truyền hình Hoa Thạnh Đốn,
phỏng vấn tướng Nguyễn Khánh và trong bài phỏng vấn này đã tránh né một cách
vụng về những luận điểm của Tú Gàn.
Trong phần này, chúng tôi ghi lại những gì tướng
Khanh nói để trả lời những lời kết án ông trong âm mưu giết Phan Quang Đông,
Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ.
Tướng Khánh trả lời phỏng vấn của đài truyên
hình Hoa Thịnh Đốn.
Trong dịp trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình
Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn THVN-HTĐ ở vùng thủ đô Washington do ông Bùi Dương
Liêm phụ trách. Người phỏng vấn đã đề cập đến việc ai ra lệnh giết ông Ngô Đình
Cẩn để hỏi tướng Khánh
Tướng khánh cho biết: ông rất quý mến ông Ngô
Đình Cẩn, vì ông Cẩn là người hy sinh để ở nhà lo cho mẹ, thay cho các anh.
Nhưng ông đã trả lời vụng về là ông không còn
nhớ ông hay ông Dương Văn Minh đã ký các sắc luật ấy.
Ông đã tìm hết cách cứu mạng ông Ngô Đình Cẩn.
Ông nhìn nhận là chính ông ký sắc lệnh bổ nhiệm các sĩ quan trong bồi thẩm đoàn
trong đó có Đặng Văn Quang là người công giáo, rất thân cận với ông Cẩn cũng
như hai sĩ quan công giáo khác và hai sĩ quan Phật giáo.(Thật ra chỉ có 4 bồi
thẩm đoàn, không phải năm). Và ông hy vọng ba sĩ quan công giáo sẽ bỏ phiếu
không kết án tử hình ông Cẩn.
Nhưng theo ông Khánh, cuối cùng thì Ông đại tá
Quang đã không làm gì cả. Mặt khác thì Đỗ Mậu mỗi ngày cũng đến hầu tòa và dọa
mấy ông ngồi trên đó
Khi hay tin ông Cẩn bị giết, cũng theo lời tướng
Khánh nói, ông đau đớn lắm. Ông nói ông có liên hệ gia đình với ông Ngô Đình
Diệm gần lắm, người ngoài không biết. Ông cũng từng nói với ông Dương Văn Minh,
lúc đó làm Quốc Trưởng, quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của tướng Dương Văn
Minh. Quốc Trưởng có thể đổi án tử hình thành tù chung thân, tại sao không làm
như thế.
Ông Khánh còn cho rằng các tài liệu liên quan
đến vụ án Ngô Đình Cẩn nay không còn nữa, ai tố cáo ông, xin nêu ra bằng cớ đi.
Ông Bùi Dương Liêm có đặt ra câu hỏi: “Luật tòa án Măt trận không
được kháng án. Ai đặt ra luật đó?” Ông Khánh nói “Tôi không biết. Nhưng
cứ cho tôi coi tài liệu!”
Trong đó, ông đặc biệt nhắc đến trường họp nhà
báo Tú Gàn, tức Lữ Giang trong một bài báo viết tại California. Sau đó Tú Gàn
có bài viết trả lời ngày 12.4.2009.
Tôi nghĩ rằng, Dương văn Minh được ông Khánh
dựng lên, rồi bỏ đi như một thứ vật làm vì. Quyền hành tuyệt đối nằm trong tay
một mình Nguyễn Khánh.
Tướng Nguyễn Khánh cũng như các tướng lãnh khác,
cho đến khi chết, không một ai dám nói sự thật.
Đấy là sự thật trên cả sự thật. Họ tất cả đều
hèn nhát.
Ghi lại quang cảnh ngày ông Ngô Đình Cẩn ra pháp
trường do các nhà báo ghi lại tại chỗ.
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Nhà báo Lý Quý Chung.
Một nhà báo trẻ tuổi Lý Quý Chung lúc bấy giờ,
hẳn là không có mối hận oán gì với chế độ Đệ Nhất cộng hòa đã ghi lại tóm tắt
như sau.
“Tôi
vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến
diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba
lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có
cử chỉ tỏ vẻ khinh miệt khi các tướng tá đang ngồi xử mình.”
Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quý Chung viết:
“Ông
bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt, muốn được nhìn tận
mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thich với ông rằng luật
lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng
kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc
đảo chính 1-11-1963.
Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông
Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông ta tại tòa.”
(Nguyễn Văn Lục, Đọc Nhật ký của im lặng của Lý
Quý Chung, DCVOnline)
Theo tôi, bài báo tuy tóm tắt. Nhưng ý nghĩa
phiên tòa xử cũng như ý nghĩa cái chết đã nói lên đủ về con người ông Cẩn. Dư
luận có thể coi thường ông, coi ông là lãnh chúa độc ác, là hung thần! Nhưng
trước lúc đối diện với cái chết can đảm của ông buộc mọi người phải nghĩ lại về
ông.
Tin và bình luận trên báo Chính Luận ngày
12-5-1964, “Báo chí Thủ đô và hai vụ hành quyết Cẩn, Đông”
“Khoảng
18 giờ 27 phút, im lặng đến tức tưởi, đòi hỏi sự phựt đứt ngay trong khoảng 1,2
tích tắc.
10
Quân Cảnh ( QC) ngắm vào cái đích là tử tội. 10 QC đều biến thành 10 cái tượng,
không nhúc nhích. Lần đầu tiên trong đời, tôi nghe được sự im lặng lạ lùng ma
quái. Sân banh sắp chuyển theo một cái chớp mắt của thời gian để chính thức
biến thành một Pháp trường. Vẻ nhợt nhạt của kiếp sống lởn vởn trong không khí.
Khẩu lệnh “bắn” được phát ra, những tiếng nổ giòn mang ý nghĩa của những tiếng
giải thoát che lấp một phần nào sự trống phẳng.
Tử
tội ngoẹo đầu sang phía tay mặt, gục xuống, bàn tay trái có máu, cả thân hình
sụm đổ, nhưng bị giữ lại nửa vời thân trên tách khỏi cái cột nhô về trước. Máu
túa ra nhiễu ở ống quần chân mặt, đỏ tươi. Hai chân tử tội gập khúc nơi đầu
gối, xoạng ra, cong vòng.
Sự im
lặng biến thành ghê rợn, nghe rõ tiếng quần áo của tử tội phất theo gió thổi.
Người chỉ huy 10 quân cảnh, chạy tới bên tử tội – bây giờ là một tử thi – dùng
súng ngắn bắn phát thi ân vào đầu. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận một cái chết,
chiếc cáng trắng mới rồi đưa tử tội từ khung cửa sổ có song sắt lại được mang
ra.
Người
ta tháo dây trói cho tử tội, thật lúng túng, sau nhờ bàn tay chuyên môn của ông
Phối mới xong. Thây tử tội được đặt trên cáng, đưa trở vào khung cửa sổ có song
sắt, đóng lại.”
Và ông (Chu Tử) kết:
“Người
đã chết, không còn là “người” nữa nên hết là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta, đều
muốn gạt họ qua một bên, gửi vào quên lãng, nhưng cần phải có một thời gian và
một thực tế đẹp đẽ để niềm vui xóa nhòa những nghẹn ngào bi thảm hôm qua.”
Một vài nhận xét của báo Chính Luận ngày
12-4-64.
Không hiểu nhà văn Chu Tử có vạch đầu gối ra để
nói chuyện hay không. Chỉ biết ông công nhận cho Cẩn một điểm là Cẩn đã biết
chết tương đối đàng hoàng. Ông cho rằng
“trong
lúc sắp bắn Cẩn giữ sự im lặng hoàn toàn đến nỗi các ký giả ngồi cách xa hơn 10
thước còn nghe thấy hơi thở, mồ hôi của Cẩn và tiếng gió thổi phành phạch vào
ống quần trắng của Cẩn.”
Cảm tưởng chung của ông là:
“Cẩn
chết là đáng vô cùng, nhưng án tử hình là một án không nên tồn tại trên thế
gian. Trên thế gian này, không ai nên nhân danh công lý hoặc nhân danh cách
mạng, hoặc nhân danh nền văn minh nhân loại để tỗ chức “lễ” bắn một người khác
dù là một kẻ trọng tội chồng chất trăm nghìn tội ác trên đầu như Cẩn.”
Tôi không thấy cần thiết phải có thêm ý kiến gì
nữa, vì tờ Chính Luận khi đăng lại bài viết của Chu Tử, họ đã có ý kiến rồi.
Bài viết của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung
Sau đây là bài viết của ký giả kỳ cựu Nam Đinh,
báo Thần Chung. Một tờ báo bị ông Diệm đóng cửa ngay giai doạn 1954, vì nghi
ngờ là tờ báo thiên Cộng. Ông viết:
“Tưởng
chừng mình đau khổ vì tinh thần hơn ai hết, khi phải chịu đựng 9 năm trời: từ
1954, Diệm hạ lệnh đóng cửa Thần Chung. Tội gì?”
Ông đã tham dự các phiên tòa xử 42 trí thức bị
mật vụ tra tấn và khảo của, ngày 23-6-64. Vụ 13 nhân viên cao cấp trong ngành
Cảnh sát Quốc gia, Chúa nhật 18, thứ hai 19-7-65.
Và dĩ nhiên, trong đó có vụ xử Ngô Đình Cẩn mà
nhà báo Nam Đình đã đặt ra với rất nhiều tiêu đề như: Cả ba anh em Diệm Cẩm,
Nhu chết hụt nhiều lần. Diệm thoát chết hồi 1945. Ai cho Cẩn hay giờ hành
quyết. 12 giờ trưa mà Cẩn không đói Khi hay tin không được ân xá. 10 phút riêng
với cha Thí. Tên Thánh của Cẩn Tại sao bịt mắt tôi. Những chi tiết. Ngô Đình
Cẩn trối trước giờ chết.
Với một giọng văn có sự miệt thị và hận oán
không cần thiết đối với một tử tội. Tôi không phục tư cách hành nghề của ký giả
Nam Đình. Ông thiếu hẳn một tấm lòng cũng như thiếu hẳn tư cách của một ký giả
chuyên nghiệp trước một tử tội. Tôi xin trích dẫn:
“Trong
vụ xử bắn Ngô Đình Cẩn, ngoài những người có trách nhiệm như ông Chưởng lý
Nguyễn Văn Đức, Thừa phát lại Lâm Văn Sáu, bác sĩ Phúc, đại tá Bùi, Quân vụ Thị
trấn ngoài ra còn có ông Lục Sự, Cha Thí (Linh mục của Trung tâm cải huấn Chí
Hòa) Và ông Trung tá Quản đốc Trung tâm cải huấn và hai hiến binh. Tất cả đám
người này đã lên lầu ba, nơi Cẩn bị giam giữ Ông Cẩn đã nằm nghe ông Lục sự đọc
bản án tử hình, có lẽ đến hơn 10 phút. Sau bản án tử hình, tới sắc luật Quốc
Trưởng bác đơn ân xá.
Khi
nghe ông Lục sự đọc tới đây, Ông Cẩn đưa tay lên kệ, lấy sâu chuỗi mà người
Thiên Chúa giáo thường có.
Ông Cẩn đọc kinh lần chuỗi
Ông
Lục sự hỏi:
Ông có tuyên bố gì không?
Cẩn
nói:
Tôi
cầu nguyện cho Quốc Gia Việt Nam… Tôi sẵn sàng chết”
“Súng
nổ đúng 6 giờ 20 phút. Chùa Bửu Liên? Sự ngẫu nhiên là Hòa thượng đọc kinh lúc
Ba Cụt Lê Quang Vinh lên gươm máy Cần Thơ, lại là Hòa thượng ở chùa Bửu Liên.
Một sự tình cờ khác là Ngô Đình Cẩn day mặt về hướng chùa Bửu Liên lúc thọ
hình. Cũng như Diệm Nhu được đưa xác vào nhà thương St Paul gần chùa Xá Lợi!”
(Trích Ký giả Nam Đinh, Báo Thần Chung, 9-5-64)
Linh mục Thí làm lễ giải tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp
trường. Nguồn: http://kienthuc.net.vn
Gớm thay tâm địa con người và nghề làm chính trị
thật nhiều nỗi oan khiên!
Ngoài ra còn có khoảng có 200 người đến tham dự
như gia đình bị can, đại diện báo chí, đại diện cho đủ mọi thành phần xã hội,
cho cả người xấu lẫn kẻ tốt, đại diện cho công lý của giới quan tòa, thẩm phán,
luật sư. Đại diện cho dư luận báo chí cũng có. Như Chu Tử ở trên, như Nam Đình,
như Lý Quý Chung. Đại diện cho giới Phật tử cũng có, giới tu sĩ công giáo cũng
không thiếu.
200 người này có thể còn đại diện cho những
người không có mặt, đang ngồi ở nhà theo dõi trên báo chí truyền thanh như
trường họp Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và cả Trí Quang.
Ai là người cảm thấy mình vô tội? Chu Tử ở trên
cũng nhận xét là Ngô Đình Cẩn chết đàng hoàng? Thế nào là chết đàng hoàng? Sống
không đàng hòang mà chết lại đàng hoàng? Rồi một lần nữa vừa kết án, vừa quân
tử tàu khuyên: “không ai nên nhân danh công lý hay cách mạng … để rồi tổ chức
“lễ” bắn một người khác như Ngô Đình Cẩn.”
Đọc bài tường thuật trực tiếp trên báo chí thời
1964, tôi liên tưởng đến câu chuyện Chém treo ngành của nhà văn Nguyễn Tuân,
ghi lại khung cảnh xử chém những người tử tù của chính quyền thực đân Pháp.
Mặc dầu sự liên tưởng này không nhất thiết có
cùng một nội dung và hoàn cảnh. Nhưng bầu khí tử thần lảng vảng đâu đó thì ở
đâu cũng vậy, thời nào cũng thế.
Chết trở thành một thông điệp của người chết để
lại cho người còn sống.
Nhưng nó đều giống nhau ở cái không khí lành
lạnh, mùi tử khí luẩn quẩn đâu đây với sự thê lương và im lặng ma quái.
Và trong cái giờ phút ấy, những kẻ gây ra “tội
ác” ấy nghĩ gì? Ai là người đưa Ngô Đình Cẩn đến chỗ chết? Câu hỏi ấy chỉ quan
trọng đối với người còn sống, nhưng lại trở thành vô nghĩa đối với người chết.
Tôi là người còn sống nên tôi có dịp dở lại đọc
tờ báo Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân dân cứu quốc ngoài Huế
có bài viết sặc mùi sắt máu: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra
tòa tại Sài gòn? Theo bài báo: Lúc xử ông Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn
đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sĩ cũng
vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có tòa án cách mạng? (Báo Lập Trường, tháng 6,
1964)
Như vậy cái chết của Ngô Đình Cẩn là do Nhân dân
xử mà những vị như ông Thẩm Phán Lê Văn Thụ chỉ là người thừa hành ý của nhân
đân? Rồi luật sư biện hộ như Võ Văn Quan hẳn là biết rõ công việc mình làm và
đã làm một cách hết mình, cô đơn trong những ngày xử án?
Chính cái Hội Đồng ấy gián tiếp giết Phan Quang
Đông, rồi Ngô Đình Cẩn. .
Sức mạnh của Hội đồng ấy sau trở thành như một
chính phủ “ma”. Chính Hội đồng ấy phủ nhận chính phủ Tam đầu chế (ông Minh- ông
Khánh-ông Khiêm). Và rồi ông Minh và ông Oánh phải lục tục kéo nhau ra Huế để
thỉnh ý Hội Đồng. Hội Đồng với quyền lực thương thuyết tay đôi với chính phủ.
Tại nhiều tỉnh miền Trung, nhiều Hội Đồng đã được thiết lập và người ta đã
chứng kiến cái tấn bi hài kịch của những người dư đảng Cần lao ra trình diện
ông Tỉnh trưởng. Ông Tỉnh trưởng lại chuyển qua Hội Đồng xét xử.
Cho nên, cái chết của Ngô Đình Cẩn chung cuộc là
để thỏa mãn lòng hận thù được ngụy trang đưới cái được gọi là Nhân Dân? Nhưng
Nhân dân là ai mới được?
Trong lời khởi đầu bài biện hộ, luật sư Quan đã
nói:
“Tôi
khởi đầu với một giọng trầm trầm: “ Bên ngoài là cả một biển hận thù. Hận thù
đối với chế độ đã bị lật đổ, hận thù đối với bị can Ngô Đình Cẩn, đã thành là
biểu tượng của Ngô triều. Tòa chưa xử, nhưng đã có nhiều người nhứt quyết đòi
cho được một bản án tử hình, đòi mạng phải đền mạng, nợ máu phải trả bàng máu.”
(Võ Văn Quan, Ibid. Ngay Nay, số 108, tháng
2-3-93)
Theo tôi, giết ông Ngô Đình cẩn là một cái chêt
vô ích cho mọi phía. Cùng lắm chỉ thỏa mãn lòng hận thù của một thiểu số người
Tuy nhiên, theo tôi giữa cái chết của anh em ông
Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu và cái chết của ông Ngô Đình Cẩn có những sự khác
biệt nên nói ra.
Trong vụ thảm sát anh em ông Diệm-ông Nhu. Cho
đến giờ này, mọi người trong cuộc đều không nhìn nhận là kẻ trực tiếp ra lệnh
giết ông Diệm. Để tránh né, hay chạy tội, không một tướng lãnh nào đã nhận giết
ông Diệm, ngay cả cái người được coi là chủ mưu với nhiều bằng cớ như Dương Văn
Minh. Dương Văn Minh đã tìm cách đổ lên đầu Nguyễn Văn Thiệu! Nguyễn Văn Thiệu
đã phản ừng một cách quyết liệt và chê trách Dương Văn Minh hèn. Phần đông,
cách hay nhất là cứ đổ thừa cho ông Cabot Lodge hay người Mỹ đã chủ mưu giết
anh em ông Ngô Đình Diệm.
Dương Văn Minh là một Pilate của thời đại, rửa
tay để như thể không dính vào máu cho đến lúc ông chết.
Theo tôi, ông Diệm và ông Nhu bị giết chết không
phải vì căm thù mà vì cái tai họa phát xuất từ chính họ, bởi vì họ còn quá
mạnh. Tướng lãnh quá sợ hãi hai người họ, nhất là ông Nhu. Vì thế cách tốt nhất
là trừ hậu họa để tránh một sự lật ngược thế cờ như hồi 1960 thì số phận họ sẽ
ra sao?
Cái chết của hai anh em ông Diệm là để trừ hậu
họa mà người Mỹ có thể bất lực không can thiệp được hoặc gián tiếp chấp nhận!
Mới đây, nhà báo kỳ cựu Nguyễn Ngọc Linh vừa mới
qua đời, tờ Người Việt đã cho phát lại 6 buổi phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Linh.
Trong đó ông Nguyễn Ngọc Linh cũng nhìn nhận tướng tá VNCH chẳng ra cái gì cả,
vừa không có uy, vừa không có kiến thức nên bắt buộc vì sợ anh em ông Diệm mà
họ phải trừ khử. Và sau đó, họ kéo VNCH xuống hố.
Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận, cá nhân ông
thương ông Diệm lắm. Ông Diệm nói tiếng Anh lưu loát, nhưng khi phải tiếp xúc
với giới chức Mỹ cao cấp, bao giờ ông Diệm cung sai ông Võ Văn Hải kêu ông
Nguyễn Ngọc Linh vào làm thông dịch viên.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn khác hẳn. Nó là
một vụ án chính trị, có khuôn khổ nằm trong luật 4-64, ký ngày 18 tháng 2, năm
1964 dưới thời Nguyễn Khánh, cho thiết lập tòa án Cách mạng. Luật này có hiệu
lực hồi tố. Số phận của ông Cẩn nằm trong tay Nguyễn Khánh và cái được gọi là
Nhân dân. Mà nhân đân ở đây cụ thể là Hội Đồng Nhân dân cách mạng ngoài Huế và
một số tỉnh miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi. rồi cái
Hội Đồng ấy đổi ra cứu quốc do Trí Quang và một số giáo sư đại học Huế chủ trì.
Sở dĩ, tôi có thể nói như thế, vì sau này, trong
vụ Biến Động miền Trung, TT Trí Quang đích thân đị gặp Ls Vũ Văn Quan để nhờ
ông biện hộ cho gà nhà như trường họp bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng.
Cái chết của hai anh em ông Diệm-Nhu, thú thực
tôi không học được nhiều điều và nó cũng chẳng ám ảnh tôi bao nhiêu. Cùng lắm
là sự coi thường về sự bất tài của một số tướng lãnh vì họ làm đảo chánh xong
mà không biết họ phải làm gì, ngoài chuyện ngoan ngoãn vâng lời người Mỹ.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn trái lại dạy cho
tôi nhiều điều về chính trị đảo điên, về tình đời, về thái độ ứng xử trong hoàn
cảnh cay nghiệt. Và điều quan trọng hơn cả, nếu ông không chịu án tử hình thì
thái độ của tôi đối với ông không mấy tốt đẹp cũng như thiếu sự trân trọng.
Chính cái chết ấy làm cho ông trở thành cao cả và cho thấy cái nhỏ nhen và tầm
thường của nhiều người.
Thái độ của ông cũng như phong cách của ông
trước tòa án cúng như khi đối diện với cái chết làm cho ông lớn lên và cho
những kẻ thù ông ngồi đó nhỏ đi, ti tiện hơn.
Luật sư Quan viết lại trong lần gặp gỡ cuối cùng
trước khi ông Cẩn bị hành quyết ở sân phía sau khám Chí Hòa. Ông Cẩn và luật sư
đã nói chuyện với nhau trong ba tiếng đồng hồ và ông Cẫn đã tâm sự rất nhiều. Và
lần đầu tiên, ông tiết lộ bí mật ông giữ kín từ trước. Ông cho biết rằng bà
Trần Trung Dung có thuật lại với ông là trước khi ông bị đem ra xét xử, “người
ta” (ông vẫn còn dấu không tiết lộ đích danh) hứa nếu ông bằng lòng chuyển cho
“người ta” số tiền mấy triệu đô la trong trương mục của ông ta tại Thụy Sĩ, ông
sẽ được phi cơ lén đưa qua Singapore sống tự do. Nhưng ông ta biết người đó là
kẻ lật lọng, nếu ông lầm tin chuyển tiền cho họ thì sẽ bị cảnh “tiền mất tật
còn” nên ông cương quyết từ chối. Về sau, nhân dịp một linh mục tới khám Chí
Hòa cùng với ông làm lễ, ông ký giấy ủy quyền cho dòng tu của linh mục ấy lãnh
số tiền kể trên, tờ ủy quyền được giấu trong một quyển kinh sách của vị linh
mục. Ông tâm sự: “Tôi thà dâng cho Chúa chứ không chịu làm giầu thêm cho họ!”
Sau đó, luật sư kết luận:
“Ra
về, tôi không khỏi thầm phục con người can trường, biết cái chết thê thảm đang
kề trong gang tấc mà vẫn giữ được phong thái thản nhiên, ung dung suốt mấy
tiếng đồng hồ ngồi trò chuyện với tôi.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Thật vậy, trong những phiên tòa biện hộ. Ls Quan
tiết lộ là ông Cẩn chỉ nhờ ông có một điều- một điều mà ông Quan không muốn
nói. Đó là:
“Những
nhân chứng này là những người tráo trở, lật lọng, quý tòa không thể tin vào lời
nói của họ được. Họ đã từng khúm núm xưng con với những người của chế độ cũ. Họ
đã từng nịnh bợ đủ cách để xin xỏ ân huệ. Ngày xưa, họ lòn cúi bao nhiêu thì
sau cuộc đảo chánh, họ càng a dua, mạt sát, chà đạp những người cũ để khỏa lấp
quá khứ gian nịnh và lập công với chế độ mới.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Có ai còn nhớ câu xin
xỏ: "Cụ cho con lên Tượng" của phản tướng nào không? G2
Luật sư Võ Văn Quan cũng liên hệ trường hợp của
ông Ngô Đình Cẩn về những kẻ lật lọng giúp liên tưởng đến trường hợp César thời
cổ La Mã. Brutus vốn là một tướng thân cận của César được coi như một đứa con
nuôi và được César nâng đỡ hết mình. Nhưng đến ngày phe nghịch làm phảm mưu sát
và đâm túi bụi César, ông chống đỡ mãnh liệt. Nhưng khi nhìn thấy Brutus cũng
có mật trong đám sát nhân. César than: Cho đến con mà cũng phản cha nữa sao?
Ròi láy vạt áo bào che mặt, mặc cho những tên sát nhân chém giết!
Trong số những tướng lãnh của nền Đệ Nhất cộng
Hòa, đã có bao nhiêu Brutus?
Nhưng mặt khác, có một nhận xét không thể thiếu
được là chính thái độ đối diện với cái chết bên bờ tử sinh là một thái độ của
Ngô Đình Cẩn mà ít ai sánh bằng theo như lời kể lại của luật sư Vũ Văn Quan!
Và luật sư Võ Văn Quan, người nhận công việc bẽ
bàng là biện hộ cho bị can đã viết trong vụ Đặng Sĩ như sau về việc TT Trí
Quang không ra làm chứng trước tòa:
“Trong
thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền
Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy Dĩ nhiên, tòa không mời TT Trí
Quang ra tòa làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm dĩễn đàn chính trị.
Còn truy tố ông, “ họ” dám thì đã làm từ lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có”
những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn lừa lọc gian manh.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 100, tháng 5-92)
Đây là tâm sự trao đổi giữa ông Ngô Đình Cẩn và
luật sự Quan sau khi Tòa tuyên án tử hình:
“Trước
khi vô phòng để nghị án, Tòa cho ông Cẩn nói lời chót. Ông điềm nhiên chậm rãi
nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không ra lệnh cho các công an viên
làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết.
Ông
biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc
dầu đối tượng cuộc chơi là chính sinh mạng của mình.
Sau
khi nghị án tới khya. (Tôi đoán rằng họ kéo dài thời gian để nghỉ ngơi, ăn
uống) Tòa trở ra tuyên xử tử hình.
Ông Cẩn lặng thinh.
Tôi vịn vai ông an ủi.
Hai
quân cảnh bước tới kéo ông đi, khi đến gần tới cửa, bất thần ông ngoái lại nhìn
tôi, đôi mắt bỗng nhiên bi thiết sau cặp kính trắng. Lần đầu tiên cũng là lần
duy nhứt, tôi bắt gặp cái nhìn chới với, bi thiết như vậy nơi ông Cẩn.
Cho
tới bây giờ cái nhìn đó vẫn còn ám ảnh tôi mỗi khi nhớ lại vụ án.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, ibid., số 110, tháng 5,
1992)
Kết luận
Ông Ngô Đình Cẩn (1964). Nguồn: OntheNet
Nếu cần thiết phải nói thêm điều gì về cái án tử
hình của ông Ngô Đình Cẩn thi tôi chỉ có vài dòng: đây là cái chết của một con
dê thế thần. Ông chết cho gia đinh ông. Cho sự đạo đức thánh thiện dễ tin người
của anh ông Ngô Đình Diệm. Cho sự lú lẫn không phân biệt đạo với đời của một
Ngô Đình Thục, của thói lăng loàn của bà Ngô Đình Nhu.
Và hẳn là ông cũng chết cho nhưng kẻ ám hại ông
như Dương Văn Minh- Trần Thiện Khiêm- Đỗ Mậu- Nguyễn Khánh- Tôn Thất Đính vốn
chỉ là bọn tướng thiếu đức, thiếu tài.
Tôi mượn lời Chúa như một lối giãi bày biểu
tuọng trong ngày chịu nạn thay cho ông Diệm và chế độ của ông:
“Pópulé
méus, quid fécit tibi? Aut in quo contristávit te? Respónde mihi.”
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
“Quia
edúxi te de térra Aegýpti: Parasti Crúcem Salvatsritúo.”
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
Tôi rung động khi viết những dòng này.
Và chúng ta đừng quên, ngay một kẻ đã làm theo
lệnh của bọn tướng lãnh trên, số phận anh ta cũng không hơn gi: Thiếu tá Nguyễn
Văn Nhung được coi là người đã ra tay trực tiếp giết hại hai anh em tt. Diệm.
Cuối cùng ông cũng bị chết thảm – thêm một con
dê thế thần- ngay khi Nguyễn Khánh làm chỉnh lý. Đây là cảnh giết người để bịt
miệng!!!
Xin mượn lời sách Thánh như sau:
Hôm nay trong nhà thờ đạo công giáo của tuần
thánh, người ta nghe tiếng thày sáu đọc sách Thánh như sau:
“Khi
ấy Chúa bảo hai ông MaiSen và Aaron ở Ai Cập rằng, tháng này là tháng thứ nhất
trong năm, tháng thứ nhất trong mọi tháng. Hãy bảo cho toàn dân biết rằng: Ngày
thứ 10 trong tháng này, mỗi họ và mỗi nhà phải chọn một con chiên. Nếu trong
nhà không có đủ người để ăn, thì hãy mời thêm những người lân cận nhất, đủ để
ăn. Phảỉ chọn con chiên đực, trong sạch được một năm. Các người cũng có thể
thay thế bằng một con dê đủ điều kiện như thế. Hãy giữ nó cho đến ngày 14 tháng
này và tất cả dân chúng Israel sẽ hiến dâng nó vào buổi chiều. Hãy lấy máu nó
bôi lên hai cánh cửa và xà ngang của nhà có người ăn. Trong đêm ấy, hãy ăn thịt
nướng với bánh không men và rau rừng. Đừng ăn sống hoặc luộc, nhưng nướng. Hãy
ăn tất cả đầu, chân và bộ lòng. Không được để thừa đến sáng mai. Nếu còn thừa
thì hãy đốt đi. Đây là cách thức phải giữ trong khi ăn: Hãy thắt lưng, chân xỏ
giầy, và tay cầm gậy. Hãy ăn vội vã vì là ngày vượt qua, ngày Chúa vượt qua.”
(Theo
Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc Israel ra khỏi
ách nô lệ Ai cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý nghĩa như một sự cứu
chuộc.: Mọi tội ác của người ta sẽ đổ lên đầu con chiên đực trong sạch kia và
khi con vật được thiêu hủy đi, nó mang theo luôn tất cả những vết tích nhơ bẩn
đó)
Ngô
Đình Cẩn. Ông là ai? (p2)
Nguyễn
Văn Lục
Trong bản Tự thuật của TGM Ngô Đình Thục cho
thấy những người em của ông như Ngô Đình Luyện, rất giỏi, được gửi sang Pháp từ
năm 12 tuổi. Học lớp sáu xong nhảy lớp bốn. Hết lớp bốn nhảy lớp 2.. Bao giờ
cũng đứng đầu lớp. Đỗ tú tài xong được nhận vào trường lớn, École Centrale
Paris (ECP).
Tiếp theo p1
Người trước dư luận!
Và bản thân TGM Ngô Đình Thục cũng du học Roma
rồi Paris. Và là một trong bốn giám mục tiên khởi, thứ ba ở Việt Nam lúc bấy
giờ. Trong bản Tự thuật đó, TGM Thục không đả động gì đến việc học của Ngô Đình
Nhu cũng như của chính ông.
(“Autobiographie de Mgr Pierre Martin Ngo Đinh
Thục”, Archevêque de Hue, tài liệu trích trong Le Doctrinaire).
Trong “Curriculum Vitae De
Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc” viết năm 1978 khi ông 80 tuổi có đoạn
<ndthuc_life.jpg>
TGM Ngô Đình Thục (1897-1984) (LIFE)
“Mes études à Rome, du point de vue humain, étaient une suite de
succès. Je raflais tous les prix: docteur en philosophie, en théologie, en
droit canonique – avec mention très bien ou bien – puis la licence
d’enseignement à la Sorbonne. Je rentrais à Hué, en 1927. Nommé professeur
d’abord chez les Frères vietnamiens fondés par Mgr. Allys, puis au Grand-séminaire,
puis proviseur du collège de la Providence rồi theo lệnh của Toà tahsnh Vatican
về làm Đại biện Tông đồ tại Vĩnh Long.
J’étais le troisième vietnamien appelé à l’épiscopat. Le premier fut Mgr. J.B. Nguyễn-bá Tòng, cochinchinois, nommé à Phát-diêm au Tonkin. Le second, Mgr. Cân – mon frère spirituel puisque fils spirituel de Mgr. Allys — occupait à Vinh-long un vicariat apostolique détaché du grand Vicariat de Saigon dont l’évêque était le saint Mgr. Dumortier. On était en l’année 1938.”
J’étais le troisième vietnamien appelé à l’épiscopat. Le premier fut Mgr. J.B. Nguyễn-bá Tòng, cochinchinois, nommé à Phát-diêm au Tonkin. Le second, Mgr. Cân – mon frère spirituel puisque fils spirituel de Mgr. Allys — occupait à Vinh-long un vicariat apostolique détaché du grand Vicariat de Saigon dont l’évêque était le saint Mgr. Dumortier. On était en l’année 1938.”
(Nguồn: “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc”, 13
tháng Hai, 1978. Trích trong “EINSICHT, Jahrang 28 Sonder Mommer, trang 14-17,
April 1998)
“Việc học của tôi tại Rome từ quan điểm của con người xem ra là
một loạt các thành công. Tôi đoạt được mọi giải: tiến sĩ triết học, thần học,
giáo luật — với hạng danh dự hoặc rất giỏi — và chứng chỉ giảng dạy tại đại học
Sorbonne. Tôi về Huế vào năm 1927. Trước tiên được bổ nhiệm là giáo sư trong
hàng ngũ tu sĩ Việt Nam do Đức Ông Allys thành lập. Allys, sau đó tại Đại Chủng
Viện, rồi là hiệu trưởng của trường Providence, từ đó tôi đã theo lênh Tòa
Thánh để nhận chức đại diện tông tòa của Vĩnh Long.
Tôi là người Việt thứ ba được phong Giám mục. Đầu tiên là Mgr.
J.B. Nguyễn Bá Tòng, người miền Nam, phong nhậm ở Phát Diệm tại Bắc Kỳ. Thứ
hai, Đức Ông. Cân – anh tinh thần của tôi là con trai tinh thần của Đức Ông
Allys – thuộc giáo phận tông tòa Vĩnh Long tách ra khỏi Giáo phận Sài Gòn lớn
mà giám mục là thánh Giám Mục. Dumortier. Đó là năm 1938.”
Người ta có thể biết đến Ngô Đình Thục nhiều hơn
trong một tài liệu của Charles Keith nhan đề: “Annam Uplifted: The First
Vietnamese Catholic Bishop and the Birth of a national Church, 1919-1945” đã
đề cao 4 vị giám mục tiên khởi. Những vụ phong chức này từ 1933-1945, họ là
những vị giám mục đầy quyền lực và làm vinh danh cho dân công giáo bản địa theo
đúng tinh thần của Vatican muốn bản địa hóa giáo hội địa phương và biến giáo
hôi Việt Nam dần dần đi đến chỗ tự quản.
(Charles Keith, “The first Vietnamese Catholic.
Bishop and the Birth of a National Church, 1919-1945”. Bản dịch của Phạm Minh
Ngọc, đăng trên diến đàn Talawas.org)
Đó là một vinh dự chung cho Giáo Hội Việt Nam,
riêng cho TGM Ngô Đình Thục. Sau khi thụ phong, ông cùng với Ngô Đình Diệm- Ngô
Đình Nhu đi nhiều nơi và người ta được biết chút gì về ông Diệm là kể từ thời
kỳ này. Ngay khi sang Mỹ sau này, nhân vật Ngô Đình Thục nổi trội hơn cả người
em đi cùng là Ngô Đình Diệm.
Sau này, người cháu gọi ông bằng Bác, TGM Nguyễn
văn Thuận, còn có được vinh dự lớn lao hơn là Hồng Y ở Vatican, chức vụ cạo
trọng bậc nhất trong giáo triều và nhận được sự ưu ái đặc biệt của GH Phao Lô
đệ nhị. Không thể dễ dàng gì trong một dòng họ lại có được những người con suất
sắc như vậy.
Ngô Đinh Nhu, thông minh sắc sảo, có đầu óc, có
kiến thức nhiều, hiểu biết lịch sử, quá tự tin, nhưng lại nặng phần lý thuyết,
nặng về kế hoạch. Tính tình lạnh nhạt, bướng bỉnh và không gây được cảm tình
cũng như sự tín cẩn của các đồng chí.
Cả hai anh em đều nặng tình gia đình . Và nếu đủ
cương quyết, ông Ngô Đình Nhu có thể tránh được tai họa cho cả hai anh em. Cái
khuyêt điểm lớn nhất làm tan nát sự nghiệp của ông là nể vợ. Bà Nhu là cái cớ
cho dân chúng oán ghét gia đinh họ Ngô. Ông Đoàn Thêm đã nhận xét một cách chí
lí là người Việt Nam chưa đủ trưởng thành để có thể chấp nhận một người như bà
Nhu. Nhất là những lời tuyên bố ngạo mạn của bà trong vụ Phật giáo như đổ thêm
dầu vào lửa.
Ông Ngô Đinh Thục thời trẻ tương đối được. Nhưng
dần dần ông trở thành cái đinh cho người đời nguyền rủa và xa lánh chế độ. Đối
với nội bộ giáo quyền, Giám mục Thục đã gây ra những mâu thuẫn đến lời qua
tiếng lại đối với các giám mục, linh mục, tu sĩ di cư ngay từ năm 1957.
Trong một lá thư, dài ba trang đánh máy, đề ngày
29 tháng tư, 1957, viết tại Vĩnh Long, GM Thục đã lên tiếng mạnh mẽ, tố cáo
đích danh nhiều linh mục vi phạm tiền bạc di cư và phê phán các trường di cư mở
trường bừa bãi mà không có bằng cấp gì cả. Trong khi người di cư cho rằng họ đã
hết lòng với cụ.. Ngược lại Gm Thục cho thấy người di cư nhiều khi đã phản bội
cụ.
Xin trích nguyên văn:
“Có giám mục đã xin Bộ đòi bắt giam ông cố vấn. Lính một Giám mục khác
đánh Quốc gia ở Rừng Sát.. Tôi sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của các Đấng ấy.”
(Tài liệu photocopy riêng của Nguyễn văn Trung)
Theo tôi, những phê phán của gm Thục có thể đúng
nhiều phần. Nếu có điều gì là hình thức phê phán đã tạo ra nhữn chia rẽ trong
nội bộ công giáo. Có nhưng sự kiện khác như lính của một GM đánh lại Quốc Gia
sự thực thế nào không rõ.
Về lẽ đời, ông cũng chạy theo quyền lực, cao
ngạo và thiếu hiểu biết với Phật Giáo. Chung quanh ông phần lớn là những kẻ xu
nịnh làm ông mất cảnh giác. Tóm lại , ông không đú sáng suốt để tách biệt Đạo
với Đời, để đạo dẫm chân lên đời.
Ông thật sự là kẻ đào mồ chôn chế độ Đệ Nhất
Cộng Hòa.
Edward Miller cũng viết: “Diem at first
seemed to follow Thuc into the priesthood.”
(Edward Miller, Misalliance. Ngo Đinh Diem The
United States and the Fate of South Viet Nam, 2013, trang 24)
Chỉ rất tiếc là những lá thư này không được TGM
Nguyễn Văn Thuận công khai hóa cho mọi người biết và không biết hiện nay trao
cho ai giữ?
Thắc mắc còn lại là vì lý do gì Dương Văn Minh
quyết định dứt khóat, từ chối ân xá cho Ngô Đình Cẩn? Lý do đơn giản nhất là họ
bị thất sủng, bị nghi ngờ và không được trọng dụng.
Theo Edward Miller, khởi đầu của âm mưu đảo
chánh chỉ gồm ba sĩ quan là: Minh, Đôn và Kim. Sau cuộc bạo lọan năm 1960 bất
thành, cả ba đều cảm thấy bị xỉ nhục vì bị điều tra xem có đính dáng trong vụ
đảo chánh bất thành năm 1960 hay không.
“The resentment that Don, Minh and Kim felt for the Ngo brothers
had been smoldering since 1960, when they had endured the humiliation of being
investigated on suspicion of involvement in the paratroopers’ failed coup.”
(Edward Miller. ibid., trang 282)
Lý do cá nhân thứ hai theo ls Lâm Lễ Trinh phỏng
vấn đại tá Nguyễn văn Y, đại tá Y, cho biết Dương Văn Minh khi đánh nhau với
Bình Xuyên, có bắt được phuy đựng vàng. Ông đã dấu nhẹm. Nhưng cả hai đại tá
Nguyễn Văn Y và Bộ Trưởng Quốc Phòng Trần Trung Dung đều có tập hồ sơ này. Đại
tá Y trình ông Diệm tập hồ sơ, Ông Diệm sai đại tá Y đốt tập tài liệu trước mặt
ông để xóa trắng tội cho DVM. Tuy vậy, Dương Văn Minh vẫn hận ông Diệm và tìm
dịp trả thù.
Cuối cùng Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình như mọi
người đều biết.
Việc tìm hiểu về con người và các hoạt động của
ông Ngô Đình Cẩn không thể không tìm hiểu những tài liệu về phía người Mỹ.
Nhưng thật không dễ để tìm một tài liệu của người Mỹ viết liên quan đến ông
Cẩn. Xin nêu vài tác giả quen thuộc viết xa gần đến ông Cẩn như Stanley Karnow,
1997 với Viet Nam. A History, Ellen J.Hammer, 1987 với A death in November,
Seth Jacob, 2006 với America’s Miracle Man in Viet Nam, Mc Allister, James, 2008
Only Religions Count in Viet Nam: Thich Trí Quang and the Viet Nam war.
Langguth A .J., 2000 Our Viet Nam và Miller, Edward, 2013, Missalliance, Ngo
Đinh Diem, The United States, and the Fate of South Viet Nam.
Mặc dù với số tài liệu ít ỏi đó, chúng tôi cũng
cố gắng thu nhặt những nét chính yếu liên quan đến ông Cẩn.
Người viết xin chọn một vài ý tưởng của Ellen J.
Hammer trong A death in november liên quan đến cuộc đảo chánh tháng 11. Theo E.
Hammer:
“Cẩn là người em út còn ở lại Huế, ông sống ẩn dật không ai biết đến
và không giữ một chức vụ chính thức nào của chính quyền. Chức vụ của ông chỉ là
cố vấn về các đảng phái chính trị. Nhưng người ta lại biết đến ông rất nhiều
trong việc chỉ đạo các hoạt động về chính trị và quân sự của chế độ ở các tỉnh
miền Trung và ông có tiếng là tàn bạo.”
(Ellen J. Hammer, A Death in November, 1987,
trang 78)
Ông Cẩn là người thực tiễn, không viển vông, với
một trí thông minh biết kỳ vọng nào là chính đáng, một người Quốc gia cực đoan
với một bản năng chính trị thực tiễn, với sự am hiểu biết xử dụng quyền lực
trong tay.
Bằng chứng là ông đã dẹp tan các nhóm Đại Việt
và Việt Nam Quốc Dân Đảng khuynh đảo ở miền Trung. Họ không thể hoạt động gì ở
miền Trung khi Cẩn còn ở đó. Ông có mạng lưới chính trị và tình báo riêng.
Nhưng những phúc trình của người của ông Cẩn không phải lúc nào cũng ăn khớp
với những thông tin nhận được ở Sài Gòn của ông Nhu. Nói cho đúng người của ông
Cẩn không tài giỏi như ông nghĩ, vì thế, họ đã bị CIA xâm nhập.
Quyền bính chính trị địa phương, bề ngoài được
trao vào tay Hồ Đắc Khương-một sản phẩm đặc sản Huế. Một dòng dõi cha truyền
con nối từ đời ông đến đời cha trong triều đình Huế. Dòng họ Hồ Đắc Khương lại
có người đã nương nhờ cửa Phật như một tín chỉ ở một địa phương có đông tín đồ
Phật giáo.
Phải chăng phải có bấy nhiêu yếu tố mới ngồi
vững ở Huế được? Ông Cẩn có đủ các yếu tố ấy, nhưng lại thiếu một yếu tố căn
bản nhất là ông không phải Phật giáo. Nhưng luôn luôn đứng phía sau trợ giúp
Phật giáo.
Nhận định về vụ biến động Phật giáo miền Trung
sẽ giúp hiểu rõ thêm về quan điểm, lập trường của ông Ngô Đình Cẩn như thế nào.
Khi Viện trưởng Cao Văn Luận tiếp xúc với ông
Cẩn để cho biết về việc các giáo sư và sinh viên Huế phản đối vụ mừng kỷ niệm
25 năm thụ phong Giám mục của Ngô Đình Thục Ông Cẩn tỏ ra bất lực trước một
người anh Giám Mục mỗi ngày đẩy xa Ngô Đình Cẩn ra khỏi vòng quyền lực ở Huế.
Cẩn bị cô lập vì ông anh thiếu hiểu biết, cao ngạo đến lố bịch. Có văn thư yêu
cầu các lm giáo xứ yêu cầu họ đi ủng hộ Tổng thống.
Ông Thục càng muốn cũng cố quyền lực cho người
em, ông càng làm hại em mình.
Nói về Cao Văn Luận thì không có ông, Viện đại
học Huế không có cơ hội phát triển mau chóng như thế. Viện Đại Học này, nó do
ông Diệm xây dựng nên. Nó như một ước mơ thầm kín, một hoài bão của riêng ông cũng
như một niềm hãnh diện của cả dân Huế. Vậy mà sau này, chính nơi đây đã xuất
phát như một ngòi nổ tạo thành cơn bão chính trị lật đổ người đã khai sinh ra
nó.
Ellen Hammer đã nhận xét về Cẩn dựa theo lm Cao
Văn Luận, mặc dầu Cẩn không có học lực cao và cũng chắc chắn không phải là loại
người tôn trọng dân chủ. Nhưng ông lại tỏ ra hiểu biết và gần dân chúng hơn bất
cứ người anh em nào của gia đình Ngô Đình Diệm.
Cẩn than phiền về thái độ không hiểu biết của
TGM Ngô Đình Thục không phân biệt được phần đạo, phần đời. Cẩn nói với lm viện
trưởng, “But my hands are tied. My brother, the archbishop doesn’t listen to me
anymore. You had better go to Saigon and tell President Diem.” (Ellen J.
Hammer, ibid., trang 105)
Cái trớ trêu ở đây là Ngô Đình Thục sau 23 năm
làm giám mục ở Vĩnh Long, và Vatican đã đủ thông minh để không bao giờ có ý
định đề cử Ngô Đình Thục về cai quản Sài gòn, lý do là Vatican thừa hiểu biết
muốn tách biệt thế quyền và thần quyền. Không lẽ có một Tổng Thống công giáo
đứng đầu lại có thêm một TGM đứng đầu là bào đệ của Tổng Thống thì coi sao
được?
Việc chọn TGM Nguyễn Văn Bình là người ôn hòa đã
cân bằng được mối tương quan thế quyền và thần quyền. Không bao giờ TGM Bình tỏ
ra thân cận với chính quyền Ngô Đình Diệm một cách lộ liễu. Ông tránh né ra vào
Dinh Độc Lập và ông tránh né cả những buổi tiếp tân nếu có thể. Và luôn luôn
giữ một khoảng cách vừa đủ.
Việc đưa Ngô Đình Thục ra Huế, xa trung tâm
quyền lực Sài Gòn và có lẽ người vui mầng nhất hẳn là Ngô Đình Nhu? Ông Diệm có
thể chịu đựng người anh với quyền huynh thế phụ, nhưng ông Nhu ít đủ kiên nhẫn,
ít lắm ông Nhu khỏi bị quấy rầy bởi sự ra vô dinh Độc Lập của người anh làm
giám mục cứ can thiệp vào các việc của chính quyền một cách khôn ngoan khờ
khạo, tiến cử người này, tiến cử người kia, ngay cả loại bỏ người nào mà ông
không ưa. Ông là người tu trì, không thông việc đời, không hiểu thế thái nhân
tinh của một người không hề biết việc đời. Nhưng lại chỉ sẵn sàng nghe theo
những lời xàm tấu của kẻ xu nịnh.
Tôi từng đã nhiều cơ hội có nhận xét về khuôn
mặt chán chường, không vui lộ ra trên nét mặt ông Nhu mỗi khi ông phải tham dự
những buổi lễ do ông Ngô Đình Thục chủ tế tại Đại Học Đà Lạt những năm 1960.
Ngoảnh đi ngoảnh lại, ông đã biến mất tiêu, không hề ăn một cái bánh ngọt, uống
một ly rượu chúc mừng xum xoe như các hàng bộ trưởng, dân biểu nghị sĩ. Ông
Thục đi tới đâu thi có một đàn ruồi bay theo, cờ xí đón tiếp từ phi trường, gấp
gáp trải đá vội vãcon đường dẫn tới Viện Đại Học.
Khi ra nhậm chức ở Huế, tướng Trần Văn Đôn là
người huy động quân đội đón tiếp một Giám Mục công giáo. Thật đúng là tên nịnh
thần và phản thần mà bà Ngô Đinh Thị Hiệp ghét nhất trong hàng tướng lãnh.
(Thật ra không phải đây là lần đầu tiên, giám
mục Thục ra Huế. Khi còn là linh mục, ông đã là giáo sư Đại chủng Viện Huế
trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Vĩnh Long. Sau này, khi hai ông Diệm-Nhu
đã bị ám hại, GM Thục một lần nữa còn vận động Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ VI xin
chính quyền mới cho ông quay trở về Huế như cũ. Nhưng việc bất thành)
Nhưng cả Vatican và ông Nhu đã không ngờ được sự
hiện diện của Ngô Đình Thục tại Huế lại là một tai họa cho cả công giáo đến
chính quyền đến thế! Huế với một gia tài lịch sử quan quyền, một truyền thống
khép kín với bất cứ sự xâm nhập quyền bính nào từ bên ngoài vào đến bệnh hoạn.
Làm sao họ có thể chấp nhận được bóng dáng một tổng giám mục quyền bính, cao
ngạo bao trùm lên bầu trời xứ Huế? Tôi đã ở Huế, tôi thấu hiểu tâm tình người
dân xứ này, nghèo đến không có gì để nghèo hơn. Ruộng đất, kỹ nghệ hầu như
không có. Họ sống bằng sự tặng dữ của những người con xứ Huế ra đi làm ăn gửi
về và đồng lương công chức, quân nhân tại chỗ.
Nhưng Huế lúc nào cũng ẩn nhẫn, nhưng sôi sục
như bếp chấu âm ỉ qua cái bề ngoài thầm lặng.
Sau này hầu hết các biến động chính trị đều xuất
phát từ nơi đây.
Cho nên, chỉ có một người duy nhất là Ngô Đình
Cẩn có thể ở Huế và nắm được tình hình mà người ta gọi là Cậu Cẩn. Một tên gọi
có thể là thân mến, nhưng nhiều phần coi thường. Và ít khi Cậu Cẩn bước ra khỏi
Huế, nhưng cái gì Cậu cũng biết, như nắm trong lòng bàn tay và ông đã đã cai
quản Huế qua đám tay chân bộ hạ ông ở Huế với bàn tay sắt bọc nhung.
Nhờ cái bàn tay bọc nhung ấy, Cẩn cũng sẵn sàng
giúp đỡ trùng tu chùa chiền, các khuôn hội, đi lại thân tình và cả bao che cho
Trí Quang.
Nhưng có lẽ điều sai lầm duy nhất trong đời làm
chính trị của Ngô Đình Cẩn có thể là đã đánh giá sai lầm Trí Quang.
Hammer kết luận, “ But Cẩn had underestimated
Tri Quang.
Ngày 8 tháng 5 Trí Quang ra khỏi bóng tối ẩn
nhẫn trong nhiều năm dưới mái chùa Từ Đàm và trở thành nhân vật chính trị và
thế lực chính trị hàng đầu ở Việt Nam.
Khi Thục ra Huế, Cẩn vẫn tin rằng ông vẫn có thể
là người của tình thế, là một đầu cầu giữa chính quyền và Phật giáo.
Nhận xét về các hoạt động của Ngô Đình Cẩn tại Huế
Những hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn là hoạt
động tinh báo, phản tình báo không nằm trong khuôn khổ của tổ chức hành chánh.
Nó là những hoạt động bí mật. Mười Hương gọi mật vụ Ngô Đình Cẩn là một “siêu
tổ chức” không có “bộ máy ngụy” nào có thể so sánh bằng.
(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương — Người
chỉ huy tình báo”, nxb Tổng Hợp TP HCM, trang 122)
Chính vì tính cách bí mật của nó, hoạt động bên
ngoài guồng máy chính quyền đã tạo ra nhiều tai tiếng xấu, nhiều dư luận đồn
thổi. Bởi lẽ việc bắt người thường là bắt cóc, không có trát tòa, không xử án
và việc bắt giam vô thời hạn.
Ngay trong ngành phản gián, mật vụ Ngô Đình Cẩn
cũng bị các cơ quan bạn như An Ninh Quân Đội, Lực lượng Đặc Biệt, Sở Nghiên cứu
chính trị nghi ngờ. Mặc dầu mỗi ngành có lãnh vực hoạt động khác nhau. Sở tình
báo của Trần Kim Tuyến chú trọng đến vấn đề nội an như dò xét các thành phần
đối lập. Cơ quan an ninh của Đỗ Mậu lo an ninh quân đội. Lực lượng đặc biệt của
Lê Quang Tung gồm một trung đoàn có nhiệm vụ chính yếu là bảo vệ Tổng Thống.
Trong bài phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh với
Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung, nhan đề “Trưởng đoàn
Dương Văn Hiếu lên tiếng”, ông Dương Văn Hiếu tiết lộ như sau:
Đại tá Nguyễn Văn Y (1922-2012). Nguồn: http://nguyentin.tripod.com
“Đại tá Nguyễn văn Y, Tổng Giám Đốc Công An cũng
như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực Lượng Đặc Biệt) và Đỗ Mậu (An
Ninh Quân Đội) đều không ưa tôi.”
(Lâm Lễ Trinh, “Thức Tỉnh, Quốc Gia và Cộng
Sản”, trong bài Trưởng Đoàn Dương Văn Hiếu lên tiếng, trang 425)
(Dương Văn Hiếu, sinh quán ở Hà Nam, Bắc Việt
trong một gia đình trung lưu, học trường Louis Pasteur, có bằng Diplome
d`Études primaires supérieures Trung học Đệ Nhất cấp). Lập gia đình năm 1948,
bố vợ là bác sĩ Nguyễn Văn Tam, cộng tác với gm Lê Hữu Từ, Phát Diệm. Sau Hiệp
Định Genève vào Nam, ông được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc công an Trung Phần
tuyển vào ngành công an, giữ chức Trưởng Ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên,
Trung Phần. Rồi trở thành Trưởng Ty Công an tỉnh Thừa Thiên và đô thị Huế. Năm
1957 được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và ông đại biểu chính phủ
Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng Thống Diệm. Năm 1958, ông được bổ
nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung (TĐCTĐBMT) làm việc tại Sài Gòn.
Mặc dầu ông Dương Văn Hiếu không nói rõ sự không
ưa kia. Nhưng chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được như sau:
Có nhiều bộ phận tình báo, mặc dầu được phân
chia vùng hoạt động hoặc phạm vi công tác. Nhưng vẫn có sự tròng chéo và dẫm
chân lên nhau. Chẳng hạn, ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn công tác vốn hoạt
động ở miền Trung. Nhưng sau được điều động vào miền Nam hoạt động, trụ sở nằm
trong trại Lê Văn Duyệt. Ông vào Nam làm việc theo chỉ thị của ông Cẩn. Nhưng
khi cần bá cáo điều gì, ông chỉ chính thức bá cáo cho ông Ngô Đình Nhu, hoặc
khi có chuyện hệ trọng, ông gặp thẳng Tổng Thông Diệm. Thỉnh thoảng ông mới gửi
vài bản sao bá cáo cho ông Cẩn mà thôi.
Mặc dầu hoạt động của Dương Văn Hiếu bí mật và
độc lập. Nhưng về mặt hành chánh, ông lại ăn lương theo ngạch Cảnh sát Quốc Gia
nên mọi chi phí hoạt động như lương bổng, thực phẩm, tiền vãng phán đều do
Phòng Hành Chánh của Tổng Nha Công an cung cấp theo hệ thống, qua Phòng Hành
Chánh của Phụ tá Nguyễn Thành đài thọ. Vì chính thức, về mật hành chánh, ông
vẫn thuộc Ty Công An Thừa Thiên.
Vì có những công tác đặc biệt mà Tổng Nha
không cung cấp phương tiện được như tiền thì qua ông Võ văn Hải với tiền lấy từ
Quỹ đen của Tổng Thống để đài thọ. Số tiền này không quan trọng chỉ như một thứ
tiền thưởng hoặc khích lệ. Xét như thế về mặt Hành Chánh, ông Nguyễn Văn Y làm
sao không nghi ngại được? Ông Dương Văn Hiếu cũng tiết lộ cho thấy, Đoàn công
tác của ông không nhận một đồng nào của ông Cẩn cả.
Vì cách thức hoạt động như vậy, vì không có một
chức vụ gì công khai như giám đốc chẳng hạn- nên để có chỗ ăn ở, Dương Văn Hiếu
phải tự bỏ tiền ra mua một căn nhà ở cư Xá Công Lý làm nhà riêng. Và vì đã
không làm việc trực tiếp với ông Cẩn nên sau này cũng bị chính ông Cẩn nghi ngờ
là quá thân cận với Sài Gòn và gây khó dễ không ít cho ông cũng như Phạm Thu
Đường, chánh văn phòng cố vấn Nhu, ngay cả Nguyễn Văn Minh, bí thư của ông Cẩn
cũng bị nghi ngờ. (Lâm Lễ Trinh, ibid., trang 437)
Về phía Tòa án cách Mạng, sau này đưa Dương Văn
Hiếu ra tòa và coi ông là người chủ mưu và trách nhiệm nhiều vụ bắt bớ, ám sát
người là do lệnh Ngô Đình Cẩn, theo tôi, là rất hàm hồ. Chẳng hạn các vụ ám sát
người đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh. Về điểm này,
Dương Văn Hiếu trả lời ls Lâm Lễ Trinh là “chúng tôi không liên hệ. Chúng tôi
không có trách nhiệm truy nã các phần tử đối lập.” Cũng theo Dương Văn Hiếu,
sau này được biết công việc này do Thẩm Sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong
Ban Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Nguyễn Văn Y đã giết
Nguyễn Bảo Toàn và Tạ Chí Diệp.
Tuy nhiên, điều tôi ngạc nhiên đến không tin nổi
là Dương Văn Hiếu tiết lộ cho biết toàn thể nhân viên của ông chỉ có 8 nhân
viên và hai thơ ký đánh máy. Với 8 nhân viên này mà có thể thao túng bắt trọn
mạng lưới gián điệp của cộng sản?
Và nếu có biết ít nhiều thì đều có thành kiến
xấu về ông. Trong đó người ta nói nhiều đến Đoàn công tác mật vụ của Ngô Đình
Cẩn.
Nhưng tôi có thể khẳng định ngay chính người dân
Huế cũng thật sự không biết các công tác và công việc cụ thể của Đoàn này như
thế nào? Những mặt hoạt động tích cực có hiệu quả thì dân chúng không được
biết.
Chẳng hạn, Đoàn Công Tác Đặc biệt miền Trung đã
phá vỡ trong vòng hai năm toàn bộ hệ thống điệp báo Khu 5 và từ đó lan ra các
tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Thuận, Quy Nhơn.
Thành tích này là lớn lắm mà một quân đoàn chưa
chắc đã bình định nổi.
Ngay Trần Văn Đôn, một thời là tướng Quân đoàn I
ở miền Trung cũng hầu như không biết gì về hoạt động chống Cộng hữu hiệu của
Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đánh giá rất thấp khả năng của ông Cẩn
về ngăn chặn tình báo cộng sản gài người trong guồng máy Quốc gia. Điều đó
chứng tỏ ở vị trí Tư lệnh Quân đoàn I lúc đó, ông không hay biết gì về Mật vụ
ông Cẩn đối phó với cộng sản.
Điều đó cho chúng ta một bài học sau đây: Những
sĩ quan thời Tây để lại thường thiếu tinh thần Quốc gia, thiếu lý tưởng chống
cộng sản.
Họ chỉ là loại sĩ quan văn phòng, làm cảnh và
bất tài, kém cỏi sau khi lật đổ chế độ Đệ Nhất cộng hòa. Họ không có viễn kiến
chính trị, không có kế hoạch, không có chương trình và tỏ ra hoàn toàn bất lực,
thụ động ngay từ những ngày đầu sau 1963.
Một ông tướng mà còn ngu muội như thế nói chi
đến dân thường.
(Còn tiếp)
Ngô Đình Cẩn. Ông là
ai? (p3)
Nguyễn Văn Lục
Người dân Huế được sống an bình, đi lại tự do
khắp nơi, tối ngủ không sợ cộng sản đến bắt cóc mang đi.
Chỉ riêng các thôn xã ở phía Nam có hàng 4000
các nhân viên các cấp ở xã ấp đã bị Việt cộng bắt cóc, thủ tiêu. Các cô thày
giáo ngày về xã dạy học, tối đến phải quay về quận lỵ ngủ cho an toàn.
Thế nhưng, sự hưởng thụ một thôn quê thanh bình,
thành phố Huế mộng mơ hầu như thể là chuyện đương nhiên phải là như thếm như từ
trên trời rơi xuống.
Tôi xin nói thẳng, không có ông Ngô Đình Cẩn và
đám Mật vụ của ông, Huế và các vùng phụ cận sẽ không có được những ngay thanh
bình, yên ổn. Không ai có cơ hội nghĩ tới công lao của ông Cẩn cả.
Bốn năm sau khi loại trừ ông Cẩn (1964), 1968
Huế trở thành nạn nhân của chính mình với một cuộc thảm sát đẫm máu người dân
Huế vô tội. 9 hầm hay 10 hầm giam giữ vài chục người cán bộ cộng sản ngoan cố
bì thế nào được với con số cả 5000 người dân Huế vô tội bị trói tay, chôn sống,
bổ cuốc vào đầu chôn ở các hố chôn tập thể lên đến vài trăm người mỗi nơi?
Ai trách nhiệm thảm cảnh này, nếu không phải là
chính người Huế “giết” hay tiếp tay giết người Huế?
Tôi đã viết bài Huế Mậu Thân, miền đất nhiều
bất hạnh. Những oan hồn uổng tử của Huế sau nửa thế kỷ đã thành tro bụi,
chả biết xác chết có còn nguyên vẹn để nghe kinh tụng niệm cho họ để mong họ
chóng được siêu thoát chăng?
Mười Hương, người đứng đầu tình báo cộng sản đã
phải viết:
“Thế nhưng, hồi ấy (ám chỉ thời Pháp những năm
1940) cũng không đen tối bằng sau này những năm 1957-1959.”
Mười Hương nói về sự thâm hiểm của Ngô Đình Cẩn
như sau:
“Khi tôi bị bắt, ban đầu nó bảo, chúng tôi mời
ông về, không dám dùng đến chữ bắt. Nó khai thác đề tài Quốc Gia rất dữ để
chống Cộng. Nó vẫn nói những người kháng chiến là những người có công với đất
nước.”
(Hoàng Hải Vân- Tấn Tú, “Tướng Tình báo chiến
lược. Người Thầy”, Báo Thanh Niên, số 200. Thứ ba, 26-11-2002)
Nhưng dư luận đồn thổi thì lại nhiều, thêu dệt
cũng không thiếu. Từ một chuyện nhỏ có thể xé ra một chuyện lớn.
Trường hợp cụ thể như Vương Hồng Sển có dịp thăm
Huế trong một phái đoàn của Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Ông ta có dịp ăn một bữa
cơm tối tại nhà ông Cẩn. Nhân đó ông có dịp trông thấy một con hổ và một số
chim chóc trong vườn. Khi về, ông viết phóng lên là Cẩn có cả một sở thú. Thật
sự, đó chỉ là một con hổ con lạc mẹ do binhh sĩ đi hành quân bắt được đem về
làm quà cho ông Cẩn. Ông nuôi nó như nuôi một con mèo, cho ăn cơm mỗi ngày.
Tư cách của Vương Hồng Sển chỉ đọc mà không vui.
Ông ta còn toa rập với Nguyễn Đắc Xuân bịa chuyện ông Ngô Đình Diệm ăn cắp
Nghiên mực của vua Tự Đức.
(Nguyễn Văn Lục, “Lịch sử còn đó”. Nguyễn Đắc
Xuân, Vương Hồng Sển và chiếc nghiên mực của vua Tự Đức, trang 215)
Tôi lưu ý đặc biệt đến cách tuyển chọn và dùng
người của ông Cẩn.
Ông ít học, nhưng bản năng chính trị giúp ông
chọn người khá kỹ càng. Những người được ông chọn mà chức vụ cũng không lấy gì
làm lớn gì cũng qua giới thiệu kỹ càng, tin cẩn mà tiêu chuẩn thứ nhất là có lý
tưởng Quốc Gia chống Cộng, thứ hai là sự trung thành hầu như tuyệt đối và thứ
ba hầu hết là theo đạo công giáo.
Những tiêu chuẩn này không nhất thiết là quy
luật chung hay có giá trị khách quan cho bây giờ. Nhưng ở thời điểm khai sinh
ra nền Cộng Hoà, ở phạm vi hỗ trợ chính phủ, người ta cần những người đồng chí
hơn là người có bằng cấp hay học vị chuyên môn.
Và qua thử thách 9 năm làm việc tận tụy cho chế
độ, những người này đều cho thấy họ thật xứng đáng. Tôi xin nêu một vài người
tiêu biểu nhất như Phan Quang Đông, Nguyễn văn Minh, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn
Châu, Phạm Thư Đường, Lê Quang Tung, v.v..
Phan Quang Đông đã chết hiên ngang như thế nào
với lá thư nhắn gửi vợ con vài giờ trước khi bị xử bắn. Sau này đến lượt Ngô
Đình Cẩn cũng một thái độ như vậy. Không có gì khó hiểu cả, bởi vì họ có một lý
tưởng và phải chăng vì họ sống có xác tín?
Thứ hai về nguyên tắc làm việc của ông Ngô Đình
Cẩn dựa trên một thứ bản năng chính trị. Cái bản năng ấy được phát triển một
cách cùng cực trước tiên là để tự vệ sống còn và sau là bằng mọi phương tiện
tiêu diệt kẻ thù trong cái tương quan sống-còn giữa đôi bên.
Nó có thể không chấp nê đến lý thuyết, đến ngay
cả pháp luật. Nó hành xử không theo một thủ tục hành chánh, hay thủ tục pháp lý
trong việc bắt người, giam người, tra khảo. Đây là mặt yếu của các Đoàn Công
tác mật vụ đứng về mặt chính quyền. Một chính quyền dù coi việc chống Cộng là
hàng đầu không thể cho phép các tổ chức mật vụ bắt người, giam giữ không xét
xử, ngay cả tra tấn, v.v..
Chính vì thế đi đến chỗ lạm dụng như trong vụ án
xử gián điệp miền Trung mà nhiều phần có kẻ bị bắt oan, bị xử hoặc tù tội một
cách oan uổng.
Nhưng về mặt hiệu quả của các cơ quan này thì
thật không thể chối cãi được. Nó chẳng thua bất cứ cơ quan nào của ngoại quốc
như F.B.I., S.D.E. của Pháp, K.G.B của Nga hay ngành đặc biệt N.D.B ( Ngành đặc
biệt- The Spécial branch), trong đó có chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix program
1968-1975). Chiến dịch Phượng Hoàng là tình báo và ám sát bí mật! Đã bao nhiêu
người dân vô tội bị chết oan? Tại sao người Mỹ không lên tiếng? Tại sao kết tội
mình ông Cẩn và đám mật vụ?
Theo số liệu, trong 8 năm, số viên chức Việt Nam
Cộng hoà bị Việt cộng ám hại lên tới con số 33.052 người. Số liệu trong Chiến
dịch Phượng Hoàng đưa tới kết quả có 22.013 hồi chánh, 24.843 bị bắt. 26.369 bị
giết. Tổng cộng tất cả là 73.225. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Chiến dịch
Phượng Hoàng”)
Nào ai thực sụ biết được trong số 26.369 Việt Cộng bị giết, có bao
nhiêu thường dân bị chết oan?
Chứng từ tự thuật của một người bị bắt cóc, bị
giam ở trại Lê Văn Duyệt từ 1961 đến sau cuộc cách mạng 1963
Bài Tự thuật sau đây, không đề tên tác giả, được
trích từ tờ Tiếng Nói Dân Tộc nhan đề, “Dưới chế độ Mật vụ Ngô Triều”. Bị bắt
cóc, bị giam một thời gian, được đưa về thăm gia đình. Mà không được nói hiện
mình ở đâu? Làm gì?
SAIGON 1969 – Photo by larsdh – Trại Lê Văn Duyệt
“Chiều hôm đó, cũng như bao nhiêu chiều khác,
mãn giờ làm biệc tôi thoát lên xe đạp ra khỏi sở. Bỗng một người cỡi xe gắn máy
chạy đến bên tôi và nói, “Xin lỗi ông cho tôi hỏi thăm một chuyện.” Tưởng có
chuyện gì cần mình, tôi dừng xe lại. Anh đi xe gắn máy trình thẻ Công an cho
tôi xem và mời tôi về bót có chuyện cần.
Thế là tôi bắt buộc phải đạp xe đi theo người
ấy, và một người nữa chạy Lambretta sau lưng tôi.
Đây, trại Lê Văn Duyệt
Trại “Lê Văn Duyệt” là căn cứ của mật vụ thuộc
Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung đóng tại Biệt Khu Thủ Đô mà mãi đến sau ngày
Cách mạng người ta mới biết. Vì bọn Mật vụ tổ chức vô cùng bí mật, ngoài thì
cũng cửa sắt kín mít, lính gác không khác nào một trại lính. Cũng chào cờ, cũng
đá banh vui chơi, cũng ca hát, ai ai đi qua cũng tưởng là một trại lính ở, chớ
đâu dè đó là nơi bọn Mật vụ của Ngô triều để giam hãm những kẻ nào dám cả gan
chống lại bọn chúng..
Ngủ có divan hoặc giường sắt hay ghế bố, mỗi
người một cái, có mùng, có tấm đắp đàng hoàng: có giờ có giấc. Ăn uống cũng khá
hơn chế độ thầu. Có câu lạc bộ, có phòng đọc sách, có sân banh giải trí, có bàn
ping pong.
Về tinh thần, có Ban Văn nghệ của trại: tập tành nhạc, kịch, tuồng
cải lương, lâu lâu vài tuần trình diễn cho anh em giải trí. Thường xuyên mỗi
buổi chiều có một máy hát, máy quay cải lương cũ mèm, nhưng nghe cũng đỡ buồn.
Tối thứ bảy nghe truyền thanh tuồng cải lương Sài gòn hay xem chớp bóng. (…)
“Ăn Cơm tiều”, một danh từ được khai sinh trong trại Lê Văn Duyệt.
Không biết bên chánh quyền dự chi về ăn uống một người bao nhiêu
mà ở trại Lê Văn Duyệt thì chúng tôi được 5$50 tiền chợ, mỗi trại viên, mỗi
ngày.
Có một Ban cấp dưỡng (cũng anh em trại viên) lo lắng miếng ăn
miếng uống cho anh em. Đáng lý chúng tôi mỗi người ăn 5$50, nhưng chúng tôi
khai “cơm tiều”, nghĩa là một mâm bốn phần ăn, chúng tôi ăn năm người. Phần dư
ra 5$50 thay nhau lãnh. Ăn sáng 1$. Nếu nhịn thì mỗi tháng cũng được thêm 30$.
Ở tù mà cũng lãnh lương. Ở tù mà cũng đi nghỉ
phép.
Ở tù sau đó được về thăm nhà. Có nhiều anh em ở
tù lâu, cuối tuần được nghỉ phép, chiều thứ bảy về, sáng thư hai vô. Hoặc có
anh về hằng đêm 5 giờ 30 sau giờ làm việc ra cổng, sáng 7 giờ 30 trở về ở…tù.
(…)
Ở tù vợ đẻ, thật là họa vô đơn chí.
Những người của một thời đã qua.”
Theo tôi, nhà tù như trại Lê Văn Duyệt của ông
Ngô Đình Cẩn là có một không hai trên thế giới này. Đó là “nhà tù không song
sắt”. Sau này cũng có những trại cải huấn, nhưng không thể nào so sánh với trại
tù Lê Văn Duyệt được.
Tuy nhiên, theo Dư Văn Chất,
“đối với tù nhân ngoan cố nhất định không chuyển hướng — như
trường hợp Đặng An — thì bị giam trong sà lim. Hoặc sau này Đặng An bị chuyển
ra nhốt ở Mang Cá nhỏ, một trại giam biệt lập trung chuyển. Từ trại này có thể
được đưa lên Chín Hầm và bị bỏ đói. Hoặc tệ hơn nữa thả trôi sông hoặc thả
biển. Người giám thị trại giam Mang cá lúc bấy giờ là Phạm Mại.”
(Đây là phần viết thêm của Dư Văn Chất, dạng photcopy. Sau ba năm
ông đã viết: Nhà văn bất đắc dĩ. Trong đó còn viết: Người cộng sản sợ người
cộng sản)
Lý do thành lập Đoàn công tác Đặc biệt miền
Trung
Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, nhiều người vẫn
đánh giá sai lầm về công tác của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung của ông Cẩn.
Họ cho rằng Đoàn công tác có nhiệm vụ đàn áp đân chúng, đàn áp tất cả những ai
là trí thức như bác sĩ, luật sư, giáo sư, viết báo, thương gia như trường hợp
42 người ra làm nhân chứng vào ngày thứ tư 26-6-1964.
Bài báo của ký giả Nam Đình ghi như sau:
“Theo bản cáo trạng thì 42 người trên đã bị tra
tấn, khảo của bởi mật vụ của Dương Văn Hiếu. Đám mật vụ này gồm Thái Đen, Thiện
Dzai và Phan Khanh.
Nhưng mỗi lần ông Nguyễn Văn Đức, công tố viên,
sau khi nhân chứng khai rồi, quay ra hỏi Dương Văn Hiếu: Bị can có nhìn nhận
không? Và câu trả lời của các bị can là:
— Hoàn toàn không có.”
Theo nhà báo Nam Đình, báo Thần Chung thì “tội
ác của đám Mật vụ Dương Văn Hiếu không bút mực nào tả cho hết được.”
Thế nhưng, theo như một nạn nhân bị bắt đưa vào
trại Lê văn Duyệt vừa được trích dẫn ở trên thì các người bị giam ở trại Lê Văn
Duyệt có một cuộc sống ở tù thật thoải mái? Chữ không bút nào tả hết của nhà
báo Nam Đình phải được áp dụng trong trường hợp nào?
Theo như mục đích lúc thành lập Đoàn Công Tác
Đặc biệt miền Trung, Ông Cẩn muốn có chính sách chiêu hồi các cán binh cộng
sản.. Đây là một lối thoát cho cán binh cộng sản, tạo điều kiện cho họ về hợp
tác với chính phủ Quốc gia.
Vì thế, ông Cẩn vào đầu năm 1957, ông đã đề nghị
lên TT. Diệm xin cho ông thực hiện chính sách ông gọi là: “Chiêu mời và xử dụng
những người kháng chiến cũ.”
Sau khi được ông Diệm đồng ý, ông Cẩn đã giao
cho ông Dương Văn Hiếu thành lập Đoàn Công tác để thực hiện chính sách trên.
Nhờ được áp dụng một cách triệt để, thông minh
và khôn khéo, chính sách chẳng những bắt trọn gói toàn bộ cán bộ Việt Minh tại
miền Trung.
Chính sách ấy còn khuyến dụ được một số người bỏ
Đảng về làm việc cho phía Quốc Gia. Đó là trường hợp ông Lê Chân, tên thật là
Nguyễn Đình Chơn, vốn là một Thành ủy viên tỉnh Thừa Thiên. Sau khi chuyển
hướng, ông Chơn đã được bổ nhiệm làm Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Gia
Định. Cho đến ngay 30-4-1975, ông bị đi học tập cải tạo như mọi người, sau đó,
ông đã được sang Hoa Kỳ theo diện H.O.
Các đồng chí cũ của ông đã yêu cầu ông viết lại
trong Tập Hồi Ký của các cựu tù nhân Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đã
từ chối vì tuổi già muốn được yên thân.
Trong kỳ ba của bài viết này, chúng tôi sẽ có
dịp trình bày Tập Hồi ký của các cán binh cộng sản cho thấy họ đã nghĩ gì về
Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung.
Bài nói chuyện của ông Ngô Đình Cẩn vào dịp tết
năm 1958
Có thể đây là một tài liệu hiếm và đặc biệt, bởi
vì người nói chuyện là ông Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn là người ít xuất hiện ra bên
ngoài, cũng ít tiếp xúc với ai. Ngay những dịp quan trọng như ngày Quốc Khánh
hoặc các dịp lễ lạc khác thường cũng không có mặt ông Cẩn. Tôi tự hỏi, không
biết có lần nào ông đã vào Sài Gòn để gặp TT Diệm hay chưa? Chắc là chưa. Ngay
cả những buổi lễ tại địa phương như Huế cũng không có mặt ông.
Việc tiếp xúc với người ngoại quốc lại càng hiếm
hoi vì ông tránh né không tiếp. Lý do tại sao thì không rõ? Ngôn ngữ bất đồng
chăng? Mặc cảm ít học?
Trong một bài báo do Trà Mi dịch, đăng trên DCVOnline.net, ngày 26 tháng 3,2015 có ghi lại
việc tiếp lãnh sự quán Mỹ — ông John Helble (1961-1964). Lãnh sự Mỹ phải kiên
nhẫn chờ đợi 3 tháng để được ông Cẩn tiếp kiến. Và đây là một trường hợp khá
đặc biệt và hi hữu.
DCVOnline.net
cũng cho trích đăng lại một điện tín đánh đi từ Huế như sau:
“In telegram 714, November 4, 4.58 p.m the
Department agreed that Can should not be harmed and that We should make every
effort to get him and his mother, if necessary, out of country soonest, using
our own facilities if this would expedite their departure.” ( ibid, Central
Files, POL 26 S VIET)
Điện tín từ Lãnh sự Mỹ ở Huế gởi Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ, 4/11/1963
(Trà Mi, “Trưòng hợp kỳ lạ của ông Ngô Đình Cẩn”, DCVOnline.net, March 26, 2015)
Dầu vậy cũng không cứu được mạng Ngô Đình Cẩn.
Trong bài trả lời phỏng vấn của ông cựu lãnh sự
John Helble với Thomas F. Conlon ngày 5-4-1996 có một ghi đoạn quan trọng lời
phát biểu của ông cựu Lãnh sự như sau:
“Nó cho thấy Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng
cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng
yên” trong khi ông bị kết án và xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động,
chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một sự kết hợp của cả hai, hành động và không
hành động.”
(Trà Mi, ibid., March 26, 2015)
Nói cho cùng cả người Mỹ lẫn bọn tướng lãnh cần
một con vật tế thần trong lúc này.
Một người tránh giao thiệp như vậy. Vậy mà vào
dịp Tết 1958, đích thân ông Cẩn đã đến thăm số cán bộ bị bắt đã chuyển hướng
hoặc chưa chuyển hướng tại lao xá Ty Công an Thừa Thiên.
Đề tài ông nói với họ là “Chính sách chiêu mời
và sử dụng những người kháng chiến cũ.”
Đại ý ông nói với họ như sau:
“Bữa ni tôi đến thăm anh em vì được ông Hiếu,
Trưởng Ty báo cáo: tất cả anh em ở đây đều là những người có thiện chí, có tinh
thần Quốc Gia cao. Tôi đến với mục đích “chiêu mời” anh em về với Quốc Gia, về
hợp tác với chúng tôi, chúng ta cùng nhau xây dựng một chế độ thực sự tự do,
thực sự dân chủ. Cùng nhau cải tổ cái xã hội lạc hậu chồng chất quá nhiều bất
công lưu cữ từ bao đời nay, cho nhân ân, đã được độc lập rồi, phải được sông
xứng đáng với vị thế của mình, của một con người hoàn toàn độc lập, tự do và
hạnh phúc. (…) Còn anh em, vì qúa hăng say với lý tưởng Độc lập, Tự do nên đã
không nhận ra chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa phi dân tộc. ( … ) Tôi mong
anh em suy nghĩ cho thật kỹ, thật thấu đáo để mà dứt bỏ cái đuôi cộng sản đã bị
người ta lừa bịp ráp vô cho anh em. Rồi mình cùng nhau chiến đấu, chiến đấu cật
lực, xây dựng một đất nước thực sự Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ. Một xã hội thực sự
công bằng, hạnh phúc, ấm no cho chính mình, vợ con, xóm làng, dân tộc mình thụ
hưởng.”
(Bản photocopy, tài liệu của Nguyễn Văn Trung
trong tập “Vẽ đường cho hươu chạy”)
Thành tích của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung
“Theo Mười Hương, ông nhận được hai điện báo: Khu Năm tổn thất
nặng, địch bắt bớ mạnh, có chỗ trắng 100%, nhiều nơi trắng 80-90%. Xứ ủy bảo
phải cắt liên lạc với Trung Ương để bảo đảm an toàn. (…) Có những nơi đồng chí
ta bị bắt gần hết. Quân của Cẩn phá căn cứ Ba Lòng tàn khốc lắm, thậm chí sau
khi đã phá nát nó còn cho người đi kiểm tra, gặp một bé trai sống sót nó cũng
giết nốt. Lại còn ở Quảng Nam, đạp Vĩnh Trinh…”
(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương, Người
chỉ huy tình báo”, trang 116)
Trong một thư gửi ông Mười Cúc (Nguyễn văn
Linh), tháng 7 năm 1962, Lê Duẩn cũng thú nhận một tình trạng khá bi quan khi
Lê Duẩn viết:
“Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5, tình hình
khó khăn đến mức tưởng như Cách Mạng không thể duy trì phát triển được. Nhất
thiết không nên vì những khó khăn tạm thời do việc dồn dân lập Ấp chiến lược
gây ra mà đâm hoang mang.”
(Lê Duẩn, Thư vào Nam, nxb Sự Thật. trang 51-59)
Mười Hương bị bắt năm 1958 sau bốn năm vào Nam
hoạt động.
— Ngoài ra còn có Vũ Ngọc Nhạ, một viên chức làm
việc tại Bộ Công Chánh. Bị bắt và chuyển hướng và sau đó hàng tháng phải bá cáo
công tác. Sau này do lm Trần Ngọc Nhuận, cha sở Phú Nhuận, giới thiệu, bạn thân
của bà Thiệu được ông Thiệu trọng dụng.
— Lê Hữu Thúy, thiếu úy được Việt cộng gài vào và được ông Đỗ Mậu đặt làm Trưởng Phòng an ninh Nha An ninh quân đội.
— Đại tá cộng sản Lê Câu sau này cũng chuyển
hướng và giúp bắt được Phạm Bá Lương, Công cán ủy viên của Bộ Ngoại giao Vũ Văn
Mẫu. (Lương đã chuyển toàn bộ tái liệu Kế hoạch kinh tế của Stanley-Vũ Quốc
Thúc).
Tôi chỉ xin nêu vài trường hợp, danh sách còn
lại khoảng 200 người
Dư Văn Chất viết:
“Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình
Cẩn-Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá vào cơ quan đầu não của các
Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Năm, Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Thành Ủy Huế rồi Đà
Nẵng. Tiến xuông phía Nam, chúng tấn công cơ sở Đặc Khu Sài gòn-Chợ Lớn, Thủ
Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là Mật vụ miền trung đánh bắt gọn các lưới tình báo
Chiến lược của ta trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong vòng chỉ một năm.”
(Dư Văn Chất, ibid., trang 2)
Điều chính yếu ở đây là cả Việt Nam Cộng hoà lẫn
cộng sản đều nói đến chinh sách cải tạo.
Nhưng chế độ Ngô Đình Diệm, thay ví dùng quá khứ
để kết tội thì lại đề cao quá khứ của các người cựu kháng chiến và thường khi
đã chuyển hướng và được cất nhắc vào những chức vụ tương đương như trường hợp
Phạm Ngọc Thảo, các ông như cụ Huỳnh Văn Lang, Lê Ngộ Châu, ls Trần Văn Tuyên,
Phạm Duy, Lê Tùng Minh, Hoàng Thi Thơ và nhà văn Xuân Vũ và hàng ngàn ngàn cựu
công chức cũng như trí thức miền Nam, v.v..
Trong khi đó cũng cải tạo các ‘ngụy quân, ngụy
quyền’, nhưng lại dùng quá khứ của họ như bản án để kết tội và đầy đọa. Cho
nên, 10 người hết 10 người khi được ra khỏi trại Cải Tạo đều oán hận cộng sản
không bao giờ nguây ngoa.
Điều đó cho thấy, cải tạo chuyển hưởng thời Đệ
Nhất Cộng Hoà là có giá trị nhân bản để cùng nhau xây dựng đất nước. Cải tạo
của các trại cải tạo cộng sản là một hình thức trả thù không hơn không kém.
Chẳng những thế, người cộng sản đỗi xử với những
người cộng sản đã bị tù dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà thuộc thành phần “có vấn
đề”, không dùng, cho ngồi chơi xơi nước và canh chừng. Lê Đức Thọ, trưởng ban
tổ chức Trung ương là người từng tuyên bố: “90% tù chính trị thời Mỹ-Ngụy đều
có vấn đề.”
Điều này cũng đúng y trường họp một số tù nhân
cộng sản dưới thời Pháp cai trị. Điển hình là trường hợp Trần Văn Giàu bị nghi
ngờ là hợp tác với Pháp và cả đời minh oan cũng không xong.
Đó cũng là trường hợp những Phạm Ngọc Ẩn, Mười
Hương, thiếu tá Đặng An, Vũ Ngọc Nhạ, v.v..
Trong cuốn Bội phản hay chân chính, có trích dẫn
trường hợp thiếu tá Đặng An như sau. Xin trích nguyên văn:
“Đùng một cái, đảng ủy viên thiếu tá Đặng An
nhận được quyết định về vườn, nghỉ hưu kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản
luận tội thời gian Đặng An ở tù Mật vụ. Thật kinh khủng phiên toà nội bộ tàn tệ
hơn bất cứ toà án nào: Nó tồi tệ hơn cả phiên xử một ten cướp cạn hay một gái
điếm vì tại đây, vì bị can còn được cãi theo luật, còn có luật sự biện hộ.
Đăng An chết trong oan ức, miệng thều thào hỏi:
“Sao đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?.. Ông sẽ cho chúng mày chết hết,
không chết cũng thân tàn ma dại, không chết bây giờ thì về với Đảng, mày cũng
chết, chết khổ chết sở, chết day chết dứt. Xem ai thắng ai? Lời nguyền của mật
vụ còn nguyên đó! Tôi muốn nói nhỏ với oan hồn: “Chết là được giải thoát đó
Đặng An.”
Vũ Ngọc Nhạ vai chính cuốn “Ông cố vấn” do Hữu
Mai biên tập theo tài liệu, Vũ Ngọc Nhạ đã tự tử ba lần mà chưa chết, vì được
cứu kịp, cũng bị nghi ngờ…
“Thì ra hồn ma thằng Cẩn đã nhập vào anh em mình.
Hồn ma Ngô Đình Cẩn nhập ngay vào những đồng chí cùng tù với Nhạ, cùng ở trong
Ban Tổng Kết Cục 2, và hồn ma thằng Cẩn quay “ông cố vấn” không biết đường nào
mà trả lời. Ông cố vấn chứng minh bằng thuốc an thần để mong được “ngỏm” cho
sớm yên thân.”
(Dư Văn Chất, tức Văn Tiến Mạnh tự Nguyễn Trọng
Văn: Bội phản hay chân chính, bản Photocopy, trang 223. Tập photocopy này được
phổ biến năm 1992, gồm 233 trang đề ngày 19-8 và 2-9-92 . Người chấp bút là Dư
Văn Chất)
Qua những trường hợp vừa nêu trên, chúng ta có
thể đi đến kết luận là: Chính người cộng sản sợ người cộng sản. Họ thanh trừng
nhau trong nội bộ như trước đây và như hiện nay.
Và cuộc chiến đấu cuối cùng chính là cuộc chiến
đấu giữa những người cộng sản với người cộng sản mà thôi! Chúng ta cùng chờ xem
màn cuối.
Amen.
(Còn tiếp)
Ngô
Đình Cẩn. Ông là ai? (p4)
Nguyễn Văn Lục
Số phận của Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn đã
định xong với mức án tử hình. Ấy là chưa kể trường hợp Đặng Sỹ đã thoát án tử
hình trong gang tấc! Một bài viết khác sẽ cho thấy lý do nào đã giúp Đặng Sỹ
thoát án tử hình?
Những lãnh đạo mật vụ ra tòa. Công hay tội?
Ông Phan Quang Đông (1929-9/5/1964) và thơ gởi
vợ trước giờ bị xử tử.
Những tay chân còn lại của ông Ngô Đình Cẩn như
Dương Văn Hiếu, Thái Đen, Nguyễn Thiện Dzai. Hay những người ở bên ngành cảnh
sát cũng chịu chung số phận như Nguyễn Văn Y, Khưu Văn Hai, Nguyễn Văn Hai,
Trần Bửu Liêm, v.v. với những bản án nặng nề: Khổ sai chung thân xử theo luật
“cách mạng”.
Chỉ cần nhìn lại thực chất cuộc chiến đã qua và
nhờ đó để hiểu vai trò của họ là gì? Và họ thực sự có đáng chịu những hình phạt
nặng nề đó hay không?
Cuộc chiến tranh vừa qua là một cuộc chiến tranh
toàn diện chẳng những về mặt ý thức hệ, chiến tranh giữa hai khối cộng sản và
tư bản, chiến tranh giữa thành thị và nông thôn, giữa quân sự và chính trị.
Theo ông Đặng Văn Sung, chủ báo Chính Luận thì
chiến tranh Việt Nam chỉ có 25% là về mặt quân sự, còn 75 % kia là mặt chính
trị.
Nhưng cái 25% kia dưới mắt người Mỹ cũng như
giới quân sự Việt Nam lại cho là yếu tố quyết định. Đối với người Mỹ, nhất là
Bộ trưởng Quốc Phòng McNamra, với sự cao ngạo và tin tưởng đến lố bịch cho rắng
họ biết làm thế nào để chiến thắng trận chiến này với những bộ óc chuyên viên
biết nhìn vào con số, các bảng thống kê, phương pháp tính toán xác chết và hệ
thống điện tử tinh vi về nhu cầu súng đạn, vũ khí và số bom đạn.
Các tính toán của McNamara chỉ có giá trị lý
thuyết. Bởi vì thế khi ông ta hỏi ý kiến Ed. Lansdale về việc này. Lansdale đã
trả lời là các tính toán ấy đã thiếu một “x factor”. Đó là yếu tố con người,
chính trị của cuộc chiến. Đó cũng là cái 75% còn lại.
(Rufus Philipps, “Why Vietnam Matters: An
Eyewitness Account of Lessons Not Learned” (2008), trang Preface)
Trong 75% còn lại đó có việc giữa người Mỹ và
Việt Nam không hiểu nhau, không đồng quan điểm về chiến thuật, chiến lược, về
văn hóa, về lịch sử con người. Chính ví sự kém hiểu biết ấy mà những người Mỹ
chỉ nhìn thấy những ưu thế về người, về trang bị và về tiền bạc, về số bom đạn
bỏ xuống bắc Việt và ở miền Nam..
Họ đã thất bại và thua cuộc.
Thất bại đó vẫn còn thấy được trong các trận
chiến ở Iraq và A Phú Hãn kéo dài cho đến tận bây giờ. Một trận chiến có tên
gọi là War of Terror.
Người Mỹ sau 1964 đã không còn mấy tha thiết với
việc bình định và phát triển nông thôn (Rural Affairs) như ở thời kỳ đầu
1954-1955. Thời kỳ mà với chỉ trên dưới 5000- 10000 ngàn người Mỹ có mặt đã đem
lại một hình ảnh tốt đẹp về nước Mỹ.
Số tổn thất sinh mạng người Mỹ lúc bấy giờ chỉ
là một con số rất nhỏ, tượng trưng: 50 người so với con số tổn thất sau này
58.000 người là một sự cách biệt quá lớn lao!
Nếu người Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam với
tổn phi rất cao về sinh mạng và tiền bạc, liệu người Mỹ có bỏ cuộc và bỏ rơi
Việt Nam hay không?
Những người như đám mật vụ miền Trung của ông
Cẩn nằm trong cuộc chiến mà sự thách thức đặt ra cho người cán binh cộng sản tự
nhận thức rằng họ đã lầm đường. Họ không có đất sống, không có chỗ để thở trong
một nông thôn ổn định, một nông thôn đem lại sự an bình, no ấm cho nông dân.
Những người như Edward Lansdale và đám phụ tá sau
này như Rufus Philipps mà phần vụ còn lại của họ là lo làm thế nào phát triển
nông thôn, xây dựng cầu đường, bệnh xá, trường học.
Đó là cuộc chiến hai mặt: mặt bình định nông
thôn và mặt phát triển nông thôn. Nếu hiểu cuộc chiến tranh như thế thì vai trò
của mật vụ Ngô Đình Cẩn phải được đánh giá lại. Và cũng cần lượng định cuộc
chiến tranh leo dốc có cần thiết hay không? Còn đối với ông Nhu thì có chính
sách Ấp Chiến Lược bắt chước lại của Mã Lai .
Tem Ấp Chiến Lược. Nguồn: OntheNet
(Tôi cho là Ấp chiến lược quá chú trọng đến vấn
đề an ninh và chưa quan tâm cho đủ đến đời sống an sinh xã hội của người dân
nên không được dân chúng hưởng ứng. Sự xây dựng đồng loạt quá vội vã và áp đặt
cốt đạt thành tích mà không nghĩ tới đồi sống ấm no, có trường học, có trạm y
tế, có đời sống kinh tế ổn định. Thất bại là ở chỗ đó. Nhất là ở các tỉnh Phía
Nam, dân chúng sống rải rác, thưa thớt không giống miền Trung và trên cao
nguyên.)
Sự thiệt thòi và kém may mắn của những cán bộ
mật vụ
Khi một người lính ra mặt trận nếu giết được kẻ
thù thì được thưởng công cho chiến thắng đó nhờ đó có thể lên lon, có nhiều
huân chương, bằng khen. Đó là lẽ thường bởi vì họ đã đem thân mình, sự sống của
họ để bảo vệ quê hương đất nước.
Thượng sĩ Nguyễn Hữu Hoàng, trưởng đồn Chắc Cà
Đao trong một dịp kiểm soát ghe thuyền may mắn bắt được Ba Cụt. Ông được thưởng
công đặc cách từ Thượng sĩ lên Trung úy. Điều ấy cũng rất là bình thường. Nhiều
sĩ quan cấp úy, cấp tá đã được cách lên lon ngay tại mặt trận để thưởng những
chiến công của họ.
Nhưng khi một người cán bộ Mật vụ nhận lãnh
trách nhiệm nặng nề hoạt động bí mật như mật vụ, phản gián, biệt kích thì bại
không nói làm gì, thành công cũng không có một quy chế thăng thưởng rõ rệt, trừ
những người ở trong quân ngũ. Còn có gì nguy hiểm hơn là các chiến sĩ thám báo,
các Biệt kích được gửi ra Bắc?
Một Thượng sĩ bắt được Ba Cụt được đặc cách như
thế thì Dương Văn Hiếu và đồng bọn khi bắt được Mười Hương, Cục trưởng cục tình
báo cộng sản phải được tưởng thưởng như thế nào cho xứng đáng? Chẳng hạn thay
thế Bùi Văn Lương, làm Bộ trưởng Bộ nội vụ?
Vì là tin tức tình báo bí mật nên báo chí không
hề đăng tin, dân chúng hoàn toàn mù tịt!
Cho đến hơn 40 năm sau, một trăm người tự nhận
là chống cộng khét tiếng, có mặt hò hét trong bất cứ cuộc biểu tình nào thì đến
99/100 người trên không hề biết Mười Hương là ai? Dương Văn Hiếu là người thế
nào? Có ai biết thành tích của Dương Văn Hiếu? Và tôi biết được một phần là do
năm tập tài liệu của cộng sản viết.
(Năm cuốn sách là: Đoàn Mật vụ Ngô Đình Cẩn của
Văn Phan. Đường Thời đại của Đặng Đình Loan. Cuộc chiến tranh đặc biệt, Hồi ký
của Đinh Thị Vân. Và hai cuốn: “Bội phản hay chân chính” của Dư Văn Chất và
“Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo” của Nguyễn Thị Ngọc Hải.)
Nguồn: Nhà xuất bản: NXB Hồng Bàng
Giả dụ hồi đó, báo chí được đăng tải tin tức
khắp nơi, họp báo, rồi đưa Mười Hương và đồng bọn không chịu chuyển hướng ra
cho dân chúng coi, thử hỏi kết quả sẽ ra sao?
Tôi vẫn chưa tìm ra lời giải thích, tại sao ta
lại phải giữ bí mật về những thành tích như vậy? Cộng sản Bắc Việt khi bắt được
phi công Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Bắc Việt thì chúng mang người phi công bị
trói tay ra sau lưng đi khắp phố phường cho dân chúng phỉ nhổ.
Thiệt thòi ấy không phải chỉ dành cho cá nhân
Dương Văn Hiếu mà cho cả miền Nam.
Và sau này, Cách mạng nào dám đưa Dương Văn Hiếu
ra xử tội và kết tù chung thân khổ sai vì trước đó Dương Văn Hiếu đã được vinh
danh là chiến sĩ ngay cả là anh hùng diệt cộng?
Kẻ thù của chúng ta đã viết năm cuốn sách ca
tụng, vinh danh Ngô Đình Cẩn và bọn Dương Văn Hiếu, còn người Quốc gia kết tội
họ, nhục mạ họ, phỉ báng họ? Giữa Ngô Đình Cẩn và Thích Trí Quang, ai là người
có công và người có tội đối với miền Nam? Ai đáng xử chém? Và ai chém ai?
Đã có một cuốn sách nào viết về họ không? Không.
Hoàn toàn không. Ngoại trừ các cuộc phỏng vấn của ls Lâm Lễ Trinh trong Thức
Tỉnh, 2007
Sau đây, người viết xin được trích dẫn một đoạn
tâm trạng của một cán bộ cộng sản đã chuyển hướng cho thấy sự thành công của
Đoàn Mật vụ Dương Văn Hiếu như thế nào:
“Tới khi khoanh vùng, cơ sở bị đánh tan tành xí quách, bám trụ
trong dân không nổi nữa, phải bật lên núi. Bám núi, anh cán bộ vẫn chỉ đạo
phong trào ở đồng bằng. Đối phương leo núi, cắt đường liên lạc, tiếp tế.. Lương
thực cạn dần, liên lạc tắc nghẽn. Cuộc sống ngày một trờ thành vô nghĩa nếu cứ
bám trụ trên núi cao, trong rừng sâu, quanh quẩn với cây rừng và khỉ đột. Hãy khoan
nói tới những gì cao xa, cái bao tử này trước đã. (Chân vỗ đồm độp vào bụng
mình mấy cái) Nó đòi hỏi phải được ưu tiên giải quyết trước hết Hết gạo, hết
lương khô, hết mọi thứ. Đói quá không tính thì chết đói. Không lẽ chết đói để
giữ vững khí tiết người vô sản? (…) Đó, tình hình miền Trung như vậy, bối cảnh
như thế-phần nào anh đã hình dung được những nét đặc trưng của phong trào, đặc ính
của địa phương, đặc thù của tình hình. Tôi cùng một số đồng chí cũ, cũng là
những cán bộ có trách nhiệm với đồng bào địa phương mình, cùng ở trong một cảnh
ngộ: đầu hàng. (… )
Với thảm trạng não nề, ê chề như vậy, tới độ nào
đó tự nhiên chất người biến đổi đưa tới phản ứng tâm lý dây chuyền không sao
cưỡng lại được nữa, là dân oán ghét cán bộ, cán bộ oán trách |Đảng. Người ta
cảm thấy mình bị phản bội. Thực tế sau đó là nhân dân có kết luận rằng: “cán bộ
đi tới đâu gieo tang tóc tới đó” nên đồng bào dứt khoát “thò anh cán bộ nào ra,
túm đầu anh đó, giao nộp cho nhà chức trách.”
(Trích Văn Tiến Mạnh “Nhà Văn bất đắc dĩ”, ngày
20/4/1995, dài 26 trang)
Xét về mặt quân sự, chúng ta phải cần bao nhiêu
tiểu đoàn để vây và phá tan một cơ sở hậu cần của một quận? Và nếu vị sĩ quan
VNCH nào đánh trận này phá trắng được một cớ sở của địch thì vị sĩ quan đó có
được đề nghị để được thăng cấp ngay tại mặt trận không? Vấn đề thu phục lòng
dân để dân tỉnh ngộ nghe theo cần bao nhiều thời gian làm công tác dân vận?
Vậy mà Đoàn công tác Mật vụ miền Trung đã khoanh
vùng, rồi xóa trắng các vùng xôi đậu do cộng sản bám trụ suốt dọc miền Trung,
nắm vững từ trước và sau Hiệp Định Genève đến nay. Tôi đã từng sống và quen
thuộc các tỉnh miền Trung. Vậy mà sau 63, nhất là từ 66 trở đi, đi công tác từ
Nha Trang ra Phan Thiết, phải dùng máy bay quân sự.
Họ đã được thưởng công gì|? Như thế nào? Bằng
văn thư, Nghị định nào của Bộ Nội Vụ? Hay họ đã không nhận được bất cứ một lời
khen thưởng trực tiếp nào của ông Ngô Đình Cẩn?
Chẳng hạn Mật vụ của Dương Văn Hiếu sau này được
thưởng gì để khuyến khích họ là nhờ quỹ đen của TT Ngô Đình Diệm. Nhưng các nhân
viên của ông Hiếu, trong suốt 9 năm trời phục vụ tận tâm cho guồng máy Mật vụ
đem lại an ninh cho toàn khu 5 và các tỉnh lân cận thì họ được thăng thưởng
chức vụ gì? Được hưởng tiền bạc ra sao? Chính bản thân Dương Văn Hiếu, chức vụ
có thể ngang hàng giám đốc công an, nhưng không được cấp phát nhà chính phủ.
Đáng lẽ, phải cho họ đảm nhận các chức vụ quận
trưởng hoặc phó quận trưởng các vùng đó thì mới xứng đáng công trạng của họ và
gìn giữ an ninh vùng được lâu bền. Sự thiệt thòi ấy dù sao vẫn có thể chấp nhận
được.
Nhưng khi chính quyền sụp đổ, như thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, họ bi coi là người của chế độ và bị trừng phạt nặng nề nhất.
Trong khi đó cả một guồng máy chính phủ, các
lãnh đạo hàng Bộ trưởng thường phục vụ đắc lực cho chế độ thì lại được miễn trừ
mọi trách nhiệm hình sự? Chẳng hạn, ông Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ có phải
chịu trách nhiệm gì về cái chết của Ba Cụt không?
Sau đây, tôi xin tóm tắt danh sách các nhân viên
Mật vụ bị ra tòa và bị Toà án cách Mạng xử phạt tù chung thân khổ sai.
Vụ xử Bọn Mật vụ Dương Văn Hiếu với 42 nhân
chứng (có chỗ ghi 44).
Theo bài báo của ký giả Nam Đình, đăng trên nhật
báo Thần Chung .
“Vụ xử là ngày thứ tư 26-6-1964 với Công Tố viên quen thuộc là
Nguyễn Văn Đức. Vụ xử dựa trên sắc luật 4/64. Các nhân chứng là 42 người gồm
bác sĩ, luật sư, giáo sư, nhân sĩ, nhà báo, thương gia bị bắt cóc, bị tra tấn
cực hình, không khác nào tra tấn những tên tướng cướp, giết người. Tra tấn để
rồi khảo của, xét nhà rồi lấy tiền, lấy vàng. Chúng bắt người đoạt xe hơi:
chúng tước đoạt từ cái bốp phơi đựng tiền, đồng hồ … cho đến cặp mắt kiếng,
chúng cũng lấy nốt. Không một báu vật nào trong nhà mà chúng chịu bỏ lại cho vợ
con nạn nhân.
Sắc luật thiết lập tòa án Cách Mạng có dự bị những tội trạng “các
việc tịch thu bất hợp pháp” “tra tấn và phạm trọng tội” “bắt giam trái phép”…
mà hình phạt tối đa “không quyền giảm khinh” là án tử hình.”
Thật rất tiếc, nhà báo Nam Đình cũng không nêu
tên hoặc danh sách 42 nhân chứng, nhưng chỉ nêu tên có một người là: Ông Phan
Khắc Sửu. Sau này, tôi cũng không có cơ hội đọc các hồi ký của 42 nhân sĩ, nạn
nhân của Ngô Đình Cẩn?
Sau đây, xin trích dẫn tiếp theo nội dung câu
hỏi của Công Tố Viện hỏi bị can Dương Văn Hiếu:
“Ô. Nguyễn Văn Đức thay mặt Công tố viện, hỏi bị
can Dương Văn Hiếu suốt 10 mười phút về danh từ ‘Công tác đặc biệt’:
— Tại sao không gọi, ví dụ ‘công tác chống Cộng’
hay công tác gì đó, chớ sao lại đặt ra danh từ “công tác đặc biệt”. Đặc biệt là
nghĩa gì?
Hiếu lúng túng không biết đâu trả lời. Ông Chưởng lý hỏi tới nữa, Hiếu đáp: ‘Danh từ công tác đặc biệt đã có từ lâu rồi…’
Hiếu lúng túng không biết đâu trả lời. Ông Chưởng lý hỏi tới nữa, Hiếu đáp: ‘Danh từ công tác đặc biệt đã có từ lâu rồi…’
Ông chưởng lý như nói một mình: ‘Thảo nào! Những
công tác đặc biệt thật là đặc biệt!’
Mỗi lần nhân chứng khai rồi, Ô. chánh thẩm day qua hỏi bị can:
— Bị can có nhìn nhận… không?
Mỗi lần nhân chứng khai rồi, Ô. chánh thẩm day qua hỏi bị can:
— Bị can có nhìn nhận… không?
Và mỗi lần hỏi vậy, các bị can đều trả lời:
‘hoàn toàn không có’.”
(Trích Nam Đình, ibid., nhật báo Thần Chung)
Kết quả Bản án Mật vụ/b>
Sau đó thì tòa tuyên án chỉ có 4 người đứng đầu.
Tất cả nhân viên khác được tha bổng.
- Dương Văn Hiếu: chung thân khổ
sai.
- Thái Đen tức Nguyễn Như Thái: Chung thân khổ sai. (Thật
ra có hai Thái. Thái trắng, tức Lê văn Thái làm việc cho Trần Kim Tuyến).
- Nguyễn Thiện Dzai: Chung thân khổ
sai.
- Phan Khanh: 10 năm khổ sai.
Theo sự tiết lộ sau này của Dương Văn Hiếu với
luật sư Lâm Lễ Trinh, “bà quả phụ ông Đinh Xuân Quảng, vợ của một ông cựu Bộ
Trưởng thời Bảo Đại thưa tôi đã tra khảo bà. Nhưng không có bằng chứng cụ thể.”
Cũng theo Dương Văn Hiếu, nếu tôi có giết ai thì
sau này chắc chắn Mai Hữu Xuân đã “làm thịt” tôi rồi. Chính Mai Hữu Xuân cũng
nới với Dương Văn Hiếu như thế. Tuy nhiên, tòa án Cách mạng do một thẩm phán
dân sự chủ tọa. (Trong đó có đại tá Dương Hiếu Nghĩa làm thành viên.)
Nhưng chẳng bao lâu sau, năm 1964, chính phủ cho
ba chiếc máy bay chở tất cả đám tù chính trị mật vụ, khoảng 40 người về đất
liền. (Thật ra lệnh thả là do ông Trần Văn Hương ký giấy thả)
Việc kết án tù chung thân khổ sai rồi sau đó thả
cho thấy đây hoàn toàn là một vụ án chính trị, không có căn bản pháp lý cũng
như thủ tục tố tụng.
Ít lâu sau, Dương Văn Hiếu nhận được giấy của
Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo, tướng Nguyễn Khắc Bình, bến Bạch Đằng mời đến
làm việc ở Phòng Nghiên cứu về tình báo.(Một cách cầm chân Dương Văn Hiếu giữ
vai trò văn phòng, ngồi chơi xơi nước.)
Đó cũng là trường hợp của Đào Quang Hiển, từng
là Giám đốc Nha Nội An Bộ Nội Vụ bị giam tù bảy tháng, sau cũng được điều về
làm ở Phủ Đặc Ủy Trung Uơng tình báo với chức vụ Giám đốc Nha tổ chức dưới
quyền của đại tá Lê văn Nhiêu, người của Nguyễn Khánh.
(Lâm Lễ Trinh, “Thức tỉnh. Quốc Gia & Cộng
sản”, trang 425)
Những án tù khác
Xin tóm tắt vì những người này không nằm trong
khuôn khổ Đoàn Mật Vụ Ngô Đình Cẩn. Trich lại nhan đề bài báo của Ký giả Nam
Đình, báo Thần Chung như sau:
“Chúa Nhựt 18, Thứ hai 19-7-65. 13 nhân viên cao
cấp trong Ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Phạm tội bắt giam trái phép và Thủ tiêu 13
Nhà Ái Quốc: 10-6-1964.”
13 nhà ái quốc có tên sau đây:
- Nguyễn Phan Châu, tự Tạ Chí Diệp
- Huỳnh Hữu Thiện, tự Dư
- Huỳnh Thiện Tứ
- Nguyễn văn Tập, tụ giáo Tập
- Nguyễn Văn Danh
- Lê Hoài Nam, tự Trương Văn Kinh
- Vũ Tam Anh
- Lâm Hoàng Bá
- Trần Chí Tài
- Lý Tâm Nghiệp
- Tôn Thất Dương
- Nguyễn Bảo Toàn
- Phan Xuân Gia
Cuối cùng cũng chỉ xử kết án 4 án chung thân khổ
sai. Còn được tha bổng hết.
4 án khổ sai gồm: Nguyễn Văn Y, Nguyễn văn Hay,
Khưu Văn Hai và Trần Bửu Liêm. Còn tha bổng: Huỳnh Phước Bang, Lê Văn Thảo,
Nguyễn văn Ngời, Nguyễn Thanh Huân, Nguyễn văn Hiếu, Võ Văn Chẻ và Võ Văn
Dưỡng.”
Trong vụ án này, nó có một chi tiết đáng phải
nói. Trước hết, xin trích lại bài báo của ký giả Nam Đình trên tờ Thần Chung
như sau:
“Sau 4 tiếng đồng hồ nghị án, ông chánh thẩm Trần Minh Tiết và các
ông phụ thẩm nhân dân và quân nhân phải trả lời nhiều câu hỏi để rồi đồng ý
khép về tội “cố sát không dự mưu” nên cả 4 người mới khỏi chết.”
Lời bàn
Một đứa trẻ con cũng biết rằng vụ ám sát chính
trị phải có lệnh từ trên và để thực hiện, phải có kế hoạch hẳn hoi.. Vậy mà tòa
án cách Mạng đã bẻ quẹo đây là một vụ “cố sát không dự mưu” để tránh bản án tử
hình cho các bị can?
Ai có thể tin được quyết định của ông Chánh Thẩm
Trần Minh Tiết là xử đúng pháp luật?
Lại còn trường hợp Thiếu tá Đào Quang Hiển chẳng hiểu vì lý do gì được tha bổng? Bởi vì ra trước tòa, Khưu Văn Hai khai rằng, ông chỉ làm theo lệnh của Thiếu tá Đào Quang Hiển?
Kết Luận
Tôi đã sống trọn vẹn tuổi trẻ và tuổi trưởng
thành của tôi giữa hai nền Đệ Nhất và nền Đệ Nhị Công Hòa. Tôi hiểu được phần
nào những thành tựu cũng như những thất bại của cả hai. Tôi yêu mến và hãnh
diện về nền Đệ Nhất Cộng Hòa và không thể nói khác được. Tôi để những lời thù
hận chế độ ra bên ngoài tai vì tôi nhận ra càng ngày xu hướng chính trị nói
chung cả người Mỹ lẫn người Việt đều nhận thức được đâu là sự thật và cái chết
oan nghiệt của họ.
Nhưng có một điểm khác biệt sâu xa giữa hai chế
độ ấy là: Lãnh đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa tuy non trẻ và thiếu nhiều kinh nghiệm,
nhưng lý tưởng quốc giả, lòng yêu nước và lý tưởng phục vụ cao nơi những người
như ông Diệm. Bên cạnh ông Ngô Đình Diệm là những người công chức gương mẫu,
sống thanh bạch, đạo đức nghề nghiệp như cụ Quách Tòng Đức, ông Võ Văn Hải, ông
Đoàn Thêm và những người cán bộ Mật vụ.
Đặc biệt, tôi nghĩ rằng phải trả lại công đạo
cho những cán bộ cốt cán của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã bị xử oan sai cần được
đánh giá lại. Công của họ thì nhiều mà tội thì không chứng cớ rõ ràng.
Chỉ cần so sánh hệ thống điệp báo giữa hai thời
kỳ đủ rõ Sau 1963, Phủ Đặc Ủy Trung ương tình báo do tướng Nguyễn Khắc Bình,
với số nhân viên đông đảo, tiền bạc đầy đủ nào đã có những công trạng gì? Hay
chỉ thấy, cán bộ cộng sản xâm nhập gần như công khai trong các trường học,
trong một số chùa chiền và trong các cơ quan chính phủ! Việc khui ra ổ gián
điệp Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng trong Dinh Độc Lập đăng tải công khai trên
báo chí là do CIA, nào phải công trạng của Phủ Đặc Ủy.
Nhìn lại những năm đầu của nền Đệ I Cộng Hòa, ít
lắm thì đó là một xã hội có kỷ cương, có nề nếp, có trật tự. Nếu có điều gì
phải hối tiếc nơi cá nhân tôi là đã có lúc tôi đã đánh giá cao Trần Kim Tuyến
cả về nghiệp vụ cũng như về lòng trung thành của ông ta mà sau này tôi biết là
mình đã lầm lẫn. Điều ấy cũng đúng cả trong trường hợp Dương Văn Minh nữa.
Nhưng sau này tôi đã không thể tìm thấy những
điều tối thiểu ấy nơi các nhà lãnh đạo sau 1963 như các ông Dương Văn Minh,
Nguyễn Khánh, v.v..
Tôi còn nhớ như in là sau cuộc cách mạng thành
công, các tướng lãnh cho phép mở phòng trà, cho nhảy đầm. Bỏ bê Ấp Chiến lược
mà không có một giải pháp chính sách nào thay thế.
Sự nhốn nháo và bất bình trong đám tướng lãnh
của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ngay từ dầu mỗi ngày mỗi lộ ra không cần dấu
diếm.
Cái chết của hai ông Diệm và Nhu thay vì giúp họ
an tâm, đoàn kết lại với nhau lại là mầm mống chia rẽ họ. Sự chia rẽ ấy, người
Mỹ biết hết mà không can thiệp. Mỹ lỏng tay cho Nguyễn Khánh làm chỉnh lý.
Rồi sự chia rẽ trở nên trầm trọng hơn khi Dương
Văn Minh loại bỏ không có tướng Nguyễn Khánh và tướng Đỗ Cao Trí trong Hội Đồng
Quân Nhân. Sau này nó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chỉnh lý.
Đặc biệt, nhìn lại những việc làm của Dương Văn
Minh đều là những việc làm tiêu cực cả. Cuộc đời làm chính trị của ông là vai
trò bù nhìn trong nhiều trường hợp.
Lấy một thí dụ. Báo Chính Luận, ngày 8-5-1964
đưa tin như sau:
“Sắc lệnh bác đơn xin ân xá của Đông và Cẩn.
Saigòn (VTX). Sáng 5-5-64, Trung tướng Dương Văn Minh, Quốc Trưởng VNCH đã ký
một ngày hai sắc lệnh số 0006-QT/SL và số 0007-QT/SL bác đơn xin ân xá của Phan
Quang Đông (đề ngày 28-3-64 và của Ngô Đình Cẩn đề ngày 23-4-64.”
Giết người Quốc Gia, nhưng lại thả tất cả các
cán bộ cộng sản bị bắt trước 1963. Điều này không hiểu tại sao, dư luận báo chí
không lên tiếng! Hành động này có khác chi một hành động “phản quốc”?
Hãy nghe Mười Hương nhận xét:
“Lực lượng đảo chánh của Dương Văn Minh lo thanh
trừng phe phái của Diệm, không quan tâm số tù chính trị cũ, nên cho thả rất
đông và rất dễ. Nguyễn Tư Thái (phụ tá Đoàn công tác đặc biệt miền Trung) sau
này có nói, năm 1965, nghe Trần văn Hai — chủ sự phòng Thẩm vấn khối Cảnh sát
đặc biệt — chửi bọn đảo chính chẳng làm ăn được gì cả, còn ăn đút lót để thả
cán bộ cộng sản, và đã thả nhầm một cán bộ tình báo cấp quan trọng là Mười
Hương. Hồ sơ của ông có nhận xét ở phiếu tóm lược:
“Đương sự ngưng hoạt động năm 1955, hơn nữa
không gia nhập đảng cộng sản và đã bị giam giữ 6 năm.””
(Nguyễn Thị Ngọc Hải “Trần Quốc Hương, Người chỉ
huy tình báo”, trang 155)
Tôi không hiểu ai là người đã làm hồ sơ giả như
trên để có cớ thả Mười Hương?
Mười Hương đã được thả ngày 18 tháng 5-1964.
Nghĩa là 6 tháng sau cuộc cách mạng lật đổ chế dộ Đệ Nhất Cộng Hòa. Khi được
thả ra, Mười Hương còn cười vào mặt những kẻ đã thả ông bằng cách bịa chuyện
như sau: “Tụi địch còn đùa: Nay, tụi này thả ông anh ra về kịp ăn sinh nhật cụ
Hồ.”
Tôi thấy nhục thay cho Dương Văn Minh. Nhục thêm
nữa khi nhin bức hình ông ta cúi gằm mặt như một tên tội đồ đến đài phát thanh
để đọc lệnh đầu hàng.
© 2017 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Trường hợp kỳ lạ của
ông Ngô Đình Cẩn
March 26, 2015
—
0 Comments
http://dcvonline.net/2015/03/2 6/truong-hop-ky-la-cua-ong-ngo -dinh-can/
http://dcvonline.net/2015/03/2 6/truong-hop-ky-la-cua-ong-ngo -dinh-can/
Trà Mi
Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giáo rằng,
chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin
tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế. (Hình cựu
Lãnh sự Mỹ John J. Helble tại Huế 1963.)
<7634808284_2532185583_o-900x899.jpg>
“Tòa lãnh sự Mỹ quyết định trao trả Ngô Đình Cẩn
cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sáng ngày 5 tháng 11 năm 1963, tướng Đỗ Cao
Trí cùng với một sĩ quan Mỹ và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đưa Ngô Đình Cẩn và mẹ
ông này lên máy bay đi Sài Gòn theo lệnh của Hội đồng Quân nhân Cách mạng.”
Trên đây là một đoạn trích từ bài Huế – những
tháng ngày sục sôi – Kỳ 6: Số phận Ngô Đình Cẩn, của Nguyễn Đắc Xuân, viết
trên Báo Tuổi Trẻ ngày 10/01/2012.
Sự thật như thế nào? Hãy nghe một nhân vật trong
cuộc, có mặt ở Huế, liên quan trực tiếp đến sự kiện kể lại. Người đó là John
Helble.
John Helble, Lãnh sự Mỹ tại Huế (1961-64) là
người đã phản đối đề nghị cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại tòa lãnh sự ngược với
quyết định của của Bộ Ngoại Giao Mỹ lúc đó.
John Helble sinh năm 1934 và lớn lên ở
Wisconsin, làm việc với ngoại giao đoàn Hoa Kỳ từ năm 1956. Trước khi sang Việt
Nam (1959-64) công tác John Helble đã làm việc tại Venezuela. Trở về Mỹ tu
nghiệp một năm tại đại học Chicago sau đó John Helble làm việc tại bộ Ngoại
giao từ 1965-1968 về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Cuối cùng, 1968-1985,
ông công tác ngoại giao tại Mã lai, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, và
Honolulu trước khi nghỉ hưu về Virginia trồng nho và hoa hồng.
John Helble đã được Thomas F. Conlon phỏng vấn
vào ngày 5 tháng Tư năm 1996. Dưới đây là phần trích dịch lời ông John Helble
thuật lại việc tị nạn của ông Ngô Đình Cẩn.
Một cử chỉ rộng lượng của một người độc tài
Ông có bao giờ có quan hệ mật thiết với ông Cẩn
không?
Tôi chỉ gặp ông Ngô Đình Cẩn một lần. Tôi đã
được người tiền nhiệm, Tom Barnes cảnh báo là ông Cẩn không nhận tiếp Lãnh sự
Mỹ. Vì vậy, tôi đã kiên nhẫn chờ đợi cả ba tháng sau khi tôi đến Việt Nam. Đến
tháng Chín, năm 1961, tôi đã tìm được một người là cố vấn hàng đầu của ông Cẩn
và người mà tôi có thể liên hệ trực tiếp. Tôi đã hỏi ý kiến của ông ta và nói
với ông ấy rằng tôi muốn điện thoại cho ông Cẩn. Tôi nói rằng tôi muốn có cơ
hội thảo luận với ông Cẩn về một số các vấn đề của khu vực, về tình hình địa
phương, và những điều như vậy. Một thời gian sau đó người trung gian này đã trở
lại liên lạc với tôi và nói rằng ông Cẩn không thể gặp tôi. Tuy nhiên, ông cho
rằng nếu muốn, tôi có thể viết xuống một số câu hỏi, và ông Cẩn sẽ sẵn sàng trả
lời tôi bằng văn bản. Tôi quyết định rằng đó không phải là một phương pháp hữu
ích, vì vậy tôi đã không làm theo đề nghi đó.
Hinh chụp từ trên cao Lăng Vua Tự Đức, Huế. Nguồn:
adst.org
Tôi có thể nói rằng Cẩn, người nổi tiếng được
coi là có ác cảm với người ngoại quốc nói chung, đã làm một số cử chỉ, hoặc
những gì tôi tôi cho là cử chỉ, “chấp nhận” tôi trong cộng đồng, ít nhất là đối
với ông ấy. Vì vậy, tôi kết luận rằng tôi đã chưa làm bất cứ điều gì đã quá
“sai”. Ví dụ, vào dịp Giáng sinh ông Cẩn đã cho tôi gửi một giỏ lớn thức ngon
Việt Nam gồm giò sống với gia vị gói trong lá chuối. Đây là món thường được ăn
kèm với “nước mắm” nổi tiếng của Việt Nam.
Một lần tiếp xúc khác trực tiếp với ông Cẩn … là
một đặc ân mà ông ấy đã giành cho tôi và vợ tôi. Thực sự đó là một cử chỉ rộng
lượng. Nó liên quan đến cái chết của con gái chúng tôi tại Việt Nam. Khi cháu
mất, chúng tôi nghĩ đến một nơi lý tưởng để an táng con gái nằm trên sườn đồi ở
phía trước của lăng vua Tự Đức, nhìn ra sông Hương, với với một góc nhìn tuyệt
vời ở phía tây bắc hướng về những rặng núi Việt Nam, phía sau cánh rừng và dòng
sông yên tĩnh và thơ mộng này. Tôi biết rằng vùng đất tôi định dùng làm nơi
chôn cất con gái của chúng tôi là đất của ông Ngô Đình Cẩn. Trừ một cái hầm cũ
từ thời Pháp thuộc vẫn nằm trong khu vực, nói chung không có cấu trúc nào khác
ở đó. Đó là một khoảng đất trống, có một vài cây chà thông. Phó Lãnh sự của
tôi, một nhân viên CIA, đã xin đươc phép của ông Cẩn cho chúng tôi chôn con gái
của chúng tôi ở đó. Đó chắc chắn không phải là một điều mà ông Cẩn phải làm…
Thiết Quân luật sau cuộc đảo chính
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày quân nhân đảo
chánh Tổng thống Diệm.
Thành phần Hội đồng Quân nhân Cách mạng và Chính
phủ VNCH Lâm thời. Nguồn: Saigon Round Up (November 8, 1963) – William Colby
Collection
Thiết quân luật áp dụng ngay tại Huế. Tuy nhiên,
khi cuộc đảo chính thành công khá nhanh thì thiết quân luật không còn có ý
nghĩa nữa. Dân chúng trong hầu hết các nhóm ở Huế hân hoan đón mừng cuộc đảo
chính thành công. Tình hình an ninh ổn định. Không có bạo động hay những sự
kiện bất lợi. Với sự “giải phóng” – như nhiều người đã nghĩ – khỏi chế độ và
tình hình thoải mái ngay sau đó, nói chung, người dân quan tâm chính đến việc
thả bất kỳ tù nhân chính trị nào họ đã tìm được. Có một số tù nhân loại này đã
được thả, nhưng tôi không có bất cứ một dự toán nào về con số.
Một trong những điều gây ấn tượng hơn cả xảy ra
vào cuối buổi chiều sau cuộc đảo chính vào ngày 3 tháng 11, 1963, là việc khám
phá ra một nhà tù kinh khủng cách Huế khoảng một hoặc hai dặm về phía Tây, về
hướng của các lăng tẩm của triều đình. Hóa ra là đã có một số người bị giam giữ
ở một khu vực trước đó là kho đạn của Pháp. Khi tìm ra nhà tù này một số tù
nhân đã được phóng thích. Người dân Huế ùn ùn kéo hau đến đây coi. Tôi cũng đã
đến đó xem. Các hầm chứa đạn nằm sâu trong một sườn đồi và đã được sửa thành
các phòng giam dài khoảng gần 2 m, rộng khoảng 1 m và cao cũng khỏang 1 m.
Phòng giam chỉ có nền trống, không có bàn ghế – không có gì trong đó, ngoại trừ
phân người và rác rưởi đã tích tụ ở đó. Mỗi phòng giam có một cánh cửa khóa.
Những phòng giam này có thể đã rất là khó ở…
Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng
thẳng?
Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng thẳng
người lên trong đó. Điều này, tất nhiên, đã gây phẫn nộ hơn nữa với sự thái quá
của chế độ trước đó. Phe quân nhân chính đã bắt giam hay quản thúc tại gia để
hạn chế sự di chuyển của một số những viên chức chính phủ cũ. Tuy nhiên, không
có những vụ bắt bớ quy mô lớn. Một số người đã bị bắt, nhưng không nhiều. Phe
đảo chính lo rằng có thể có một số người của chính phủ cũ trong quân đội, là
những người có thể lật ngược cuộc đảo chính. Tuy nhiên, những lo ngại đó hóa ra
là không có cơ sở.
Có một tin tình báo cho hay “Lực lượng Nhân dân”
của ông Ngô Đình Cẩn sẽ tìm cách trả thù và đã xác tín là người Mỹ phải chịu
trách nhiệm cho cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Cộng đồng người
Mỹ ở Huế có thể ở trong tình trạng đe dọa. Tôi cảm thấy rằng điều này rất khó
xảy ra, tuy vậy cố vấn cao cấp của Sư Đoàn 1 QLVNCH, Đại tá Ed Markey, đã thận
trọng, và quyết định yêu cầu vị chỉ huy quân sự mới, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh
Quân Đoàn I, người đã có mặt tại Huế, đưa lính bảo vệ quanh tất cả các khu dân
cư và các cơ sở của Mỹ.
Khi tôi thấy một tiểu đội binh sĩ VNCH được đưa vào
trong sân nhà tôi với mục đích này, đồng thời tôi được một trung úy cho biết là
họ thi hành lệnh của bộ chỉ huy; tôi đã đi kiếm Đại tá Markey và nói một cách
rõ ràng rằng ông ta không có quyền yêu cầu quân đội Việt Nam đưa lính gác quanh
nhà ở của người Mỹ và cơ sở của Mỹ. Sau đó, tôi đã đến gặp Tướng Đỗ Cao Trí và
yêu cầu ông rút ngay lập tức những binh lính đang ở khu của Mỹ. Tướng Trí đã
đồng ý với yêu cầu của tôi. Điều này gây ra khó chịu cho Đại tá Markey. Sau khi
vấn đề được bàn thảo tại Sài Gòn, trong vòng khoảng một tuần Đại tá Markey đã
được thuyên chuyển đi nhận nhiệm vụ khác tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Tháng 9-1963: Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, đại tướng
Maxwell D. Taylor & Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara, đang thẩm
vấn một cán binh Việt Cộng. Nguồn: LIFE magazine
Cho một người độc tài bị khinh miệt tị nạn
Không có gì đáng chú ý đã xảy ra trong 24 giờ sau
đó. Rồi có ba người, riêng rẽ, đến yêu cầu tôi cho ông Ngô Đình Cẩn, chưa bị
bắt và đang đang ẩn trốn được “tị nạn” tại Lãnh sự quán của chúng tôi. Tôi trả
lời cho từng người đến yêu cầu là tôi sẽ xem xét điều này. Ngay lập tức, tôi
báo tin về cho Bộ Ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn biết những cuộc tiếp xúc vừa xảy
ra; Tôi báo cáo với Bộ Ngoại giao rằng, thứ nhất, tôi không thể biết chắc được
căn cước thực của ba người vừa gặp. Dù tôi biết cả ba người đó ở những mức độ
khác nhau, nhưng tôi không biết liệu một hoặc hai trong ba người đó có thể là
phản gián hoặc là họ đã không nói thực mục đích của họ khi đến gặp tôi.
Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giáo rằng,
chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin
tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế. Theo FAM,
định nghĩa tị nạn cho một ngoại giao đoàn rất giới hạn, chỉ trong những trường
hợp người xin tị nạn đang gặp nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Ví dụ, một người
đang bị một đám đông giận dữ đuổi bắt. Tuy nhiên, ngay cả trong những hoàn cảnh
như thế, sau khi tình hình không còn nguy hiểm nữa thì người xin “tị nạn” lập
tức phải được đưa ngay ra khỏi Lãnh sự quán có nghĩa là đưa ra khỏi cửa.
Tôi cũng cho hay dưới quan điểm chính trị, người
ở Huế, cũng như dân chúng ở những nơi khác, chắc chắn đã thấy nhẹ nhõm sau cuộc
đảo chánh loại bỏ chính phủ của ông Diệm. Họ đã không ưa gì ông Cẩn và sự cai
trị độc tài của ông từ nhiều năm qua. Để ông Cẩn tị nạn sẽ không cải thiện hình
ảnh của người Mỹ ở Huế và khu vực xung quanh. Hơn nữa, tôi cũng báo cáo rằng
nếu ông Cẩn được cho tị nạn ở Lãnh sự quán thì mọi người sẽ biết ngay, và tin
tức sẽ lan nhanh như cháy rừng ở Huế. Với tình cảm của người dân ở Huế, những
người vừa thấy những điều kiện khắc nghiệt của nhà tù … và nhiều người khác có
nhiều phàn nàn, oán hận ông Cẩn, người dân Huế có thể quyết định giành quyền tự
họ xử ông Cẩn. Vị trí của Lãnh sự cũng khó mà bảo đảm được an ninh cho Lãnh sự quán,
nhân viên hoặc, thực sự, bất cứ ai trong cộng đồng người Mỹ ở Huế vào thời điểm
đó.
Có sự trao đổi giữa tôi và bộ Ngoại giao. Tôi đã
nhận được một phản ứng, từ Washington, nhưng không dứt khoát. Họ hỏi thêm một
số câu hỏi khác. Tôi đã trả lời những câu hỏi đó và nhắc lại quan điểm của tôi
rằng chúng ta không nên chấp nhận yêu cầu này, thậm chí nếu có một hoặc nhiều
hơn những lời yêu cầu [để ông Cẩn tị nạn ở Lãnh sự quán] là những yêu cầu thực.
<telegram291-900x149.jpg>
Trong vòng 36 giờ, tôi đã được lệnh để cho ông
Cẩn tị nạn. Khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán, tôi phải hỏi xem ông ấy muốn đi tị
nạn ở quốc gia nào. Tôi được yêu cầu phải thông báo cho bộ Ngoại giao và tòa
Đại sứ ngay khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán và quốc gia ông chọn đi tị nạn. Khi
được lệnh của bộ Ngoại giao, tôi cũng đã liên lạc với tòa Đại sứ ở Sài Gòn.
Trong số những lần liên lạc đó tôi đã dùng điện thoại trên đường dây không bảo
mật. Cố gắng nói chuyện bằng mật mã có lẽ là vô dụng, nhưng tôi đã ráng làm như
vậy. Đại sứ quán đã cho tôi biết rằng họ sẽ gửi một máy bay vận tải C-46, một
máy bay của CIA, đến sân bay Phú Bài ở Huế Nam sau khi ông Cẩn đến Lãnh sự
quán.
“Tôi đã có chim trong lồng” – ông Cẩn đến Lãnh
sự quán
Sau đó tôi đã liên lạc với người mà tôi coi là
đáng tin cậy nhất trong số ba người đã đế gặp trước đây. Tôi báo với người ấy
biết rằng tôi sẵn sàng nhận ông Cẩn [tị nạn] tại Lãnh sự quán. Ông ta đã liên
lạc lại với tôi không lâu sau đó và nói rằng ông Cẩn sẽ ngụy trang đến Lãnh sự
quán với một linh mục là người sẽ lái xe, lúc 11:00 sáng, nếu tôi nhớ đúng, vào
thứ ba, tôi tin rằng đó là ngày 5 Tháng 11 năm 1963. Ông Cẩn thực sự tới tại
Lãnh sự quán một giờ sau đó. Ông nằm trên ghế sau của một chiếc Citroen cũ. Tài
xế là một linh mục Việt Nam.
Tôi đón ông Cẩn tại lối vào phía trước hiên nhà
của Lãnh sự quán và mời ông lên lầu, và cố che để ông không bị một số nhân viên
địa phương của tôi dòm ngó. Những nhân viên Việt Nam làm việc trong một văn
phòng bên phải lúc tôi đưa ông Cẩn lên cầu thang. Tôi không biết sự kín đáo che
chắn cho ông Cẩn của có thành công hay không. Ngay lập tức, tôi đặt câu hỏi với
ông Cẩn câu hỏi về nơi “an toàn” ở nước ngoài mà ông muốn đi. Ông trả lời tôi
tức thì, “Tokyo”.
Cũng ngay lúc đó tôi nhận được điện thoại của
một nhân viên của tôi ở tòa Lãnh sự cho hay Tướng Đỗ Cao Trí đang có mặt dưới
nhà và muốn gặp tôi. Tôi để Jerry Greiner, một Phó Lãnh sự CIA ở lại với ông
Cẩn và đi xuống cầu thang để gặp Tướng Trí trong phòng tiếp tân nhỏ của chúng
tôi. Tướng Trí bắt đầu bằng cách nói ngay, như thói quen của ông, là tôi “đã
có” ông Ngô Đình Cẩn trong tòa Lãnh sự và ông, Tướng Trí, “muốn bắt” ông Cẩn.
Tôi nói với Tướng Đỗ Cao Trí là dù tôi có Ngô Đình Cẩn hay không, đó là một vấn
đề quan tâm của tôi và không phải của ông (tướng Trí).
Sau đó Tướng Trí nói
rằng, trong tình hình hiện nay ở Huế, à nhiều người không ưa ông Cẩn, nếu người
dân Huế biết ông Cẩn có mặt trong Lãnh sự quán, thì ông (Tướng Trí) không thể
bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán hoặc của cộng đồng người Mỹ tại Huế nói
chung. Ngay lập tức, tôi trả lời rằng đó là rõ ràng trách nhiệm của Tướng Trí
phải bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán, các cơ sở Mỹ, và các nhân viên Mỹ tại
Huế. Và cùng lúc, tôi đã chính thức yêu cầu Tướng Trí nhận bảo đảm như vậy và
tôi sẽ ngay lập tức báo cáo chuyện này với Đại sứ quán ở Sài Gòn và câu trả lời
của tướng Trí. Ông Tướng không nhận bảo đảm anh ninh như tôi đã yêu cầu. Tôi
nhắc lại rằng đó là trách nhiệm của Tương Trí, và tôi mong ông ấy làm như vậy,
và đây là liên lạc và trao đổi chính thức về việc đó.
Sau đó Tướng Trí rời khỏi Lãnh sự quán. Tôi quay
lại để thảo luận tình hình với ông Cẩn, nhưng cũng không có gì nhiều hơn để tôi
cần phải nói chuyện với ông Cẩn, một khi chúng tôi đã xác định rằng Tokyo là
nơi ông muốn đi. Tôi lập tức gọi Đại sứ quán ở Sài Gòn và thông báo với họ
rằng: “Tôi đã có chim trong lồng”. Họ cho tôi biết rằng trong vòng hai
giờ, chiếc C-46 sẽ đến sân bay Phú Bài, và tôi phải có mặt ở đó với ông Cẩn.
Tôi ngay lập tức đã gửi một điện văn cho Bộ Ngoại giao nói rằng ông Cẩn đang ở
Lãnh sự quán.
Tôi gọi một cố vấn Mỹ cao cấp của Sư Đoàn 1
QLVNCH, phó của ông, và một nhân viên CIA đồng nghiệp của tôi Phó Lãnh Greiner
vào họp. Chúng tôi đã đề ra một kịch bản để một đoàn xe đưa ông Cẩn đến sân bay
Phú Bài, cách Lãnh sự quán khoảng 14 km. Đoàn xe gồm có một chiếc xe jeep với
một binh sĩ và một sĩ quan đi trước, tiếp theo là xe chính thức của tôi có viên
cố vấn cao cấp của quân đội Mỹ, CIA Phó Lãnh sự, tôi, và ông Cẩn, và một chiếc
xe jeep quân đội Mỹ có một binh sĩ và một sĩ quan, đi sau xe chúng tôi.
Cuộc chạy thoát không thành
Chúng tôi rời khỏi Lãnh sự quán chỉ đủ thời gian
để đến sân bay Phú Bài cùng với giờ ước tính chiếc máy bay C-46 sẽ đến. Không
có chuyện gì xảy ra trong chuyến đi đến sân bay. Chúng tôi đã không gặp phải
bất kỳ khó khăn nào. Chúng tôi đưa ông Cẩn trên máy bay. Tôi đã sắp xếp với Phó
Lãnh sự Jerry Greiner để đi cùng với ông ấy, và tôi ra lệnh cho cho Jerry giao
ông Cẩn lại cho Đại sứ quán và chỉ giao cho Đại sứ quán.
Greiner và ông Cẩn bay đến sân bay Tân Sơn Nhất
ở Sài Gòn. Khi cánh cửa mở ra, Greiner thấy chiếc máy bay đã đáp bên phía quân
sự của sân bay Tân Sơn Nhứt và có đoàn quân khá lớn của quân đội VNCH vây xung
quanh máy bay, và hai xe vận tải 2 tấn ½ bít bùng của QLVNCH ở cạnh bên.
Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn:
OntheNet
Greiner được Lucien Conein, một sĩ quan CIA nổi
tiếng, đón tiếp và nói với ông, “Được
rồi, Jerry. Từ đây để tôi lo.” Jerry đã khẳng định rằng Conein không phải
là Đại sứ quán và nói với Conein rằng Lãnh sự đã ra lệnh giao ông Cẩn lại cho
Đại sứ quán.
Conein nói, “Vâng, cứ làm theo cách ông muốn,
nhưng đây là phương tiện vận chuyển của các ông.” Vì vậy, Greiner và ông
Cẩn leo lên một trong những chiếc xe tải 2 tấn rưỡi. Bạt vải đã đóng lại, và họ
lái xe đi. Sau khoảng 15-20 phút, xe vận tải dừng lại, tấm bạt cửa xe mở ra, và
Greiner thấy ông đã ở giữa khoảng gần một tiểu đoàn của quân đội VNCH trong một
căn cứ của quân đội VNCH, ở một nơi nào đó ở Sài Gòn.
Conein lại xuất hiện và nói, “Đây là đoạn cuối của con đường.”
Greiner không còn lựa chọn nào khác hơn là phải chấp nhận hoàn cảnh lúc đó.
Đó là tất cả sự tham gia trực tiếp của tôi và
của Lãnh sự quán Mỹ tại Huế trong chương “tị nạn” của ông Cẩn. Như lịch sử cho
thấy, cuối cùng ông Cẩn đã bị chính quyền quân sự Việt Nam đem ra tòa án quân
sự xử, bị kết án tử hình và đã bị xử bắn.
Suýt làm dê tế thần
Bị xử bắn?
<ngodinhcan02-900x820.jpg>
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi, tại tòa án quân sự
tại Sài Gòn, 23 tháng 4, 1964. Nguồn AP.
Bằng cách xử bắn. Những sự kiện này xảy ra ở Sài
Gòn, và không có liên quan đến tôi – với một ngoại lệ.
Ngay sau khi xử bắn ông Ngô Đình Cẩn, đã có rất
nhiều người ở Hoa Kỳ bất bình, phần lớn từ các cộng đồng Công giáo, nhưng những
cũng có những người khác, những người thấy rằng gia đình họ Ngô đã phải chịu
đựng quá đủ sau cuộc đảo chính, với ông Diệm và ông Nhu đã bị giết. Nó cho thấy
Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính
quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng yên” trong khi ông bị kết án và
xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động, chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một
sự kết hợp của cả hai, hành động và không hành động.
Một người bạn của tôi, Larry Pezzulo, Tùy viên ở
tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau đó nói với tôi về một sự kiện đã xảy ra khoảng hai
ngày sau khi ông Cẩn bị xử bắn. Pezzulo liên can đến vụ việc này vì ông ấy là
Tùy viên Trực của Đại sứ quán vào thời điểm đó. Một bức điện “khẩn cấp” gởi đến
Đại sứ quán, trong khi Larry Pezzulo đang trực, và phải gửi đến ngay cho Đại sứ
Henry Cabot Lodge. Pezzulo đem bức điện khẩn đến tư dinh của Đại sứ Lodge.
Tại nhà Đại sứ đâu đó ở Saigon, Đại sứ Lodge và
Phó trưởng phái đoàn ngoại giao Mỹ, Bill Trueheart, đang trong bữa ăn.
Pezzulo gọi họ ra khỏi bữa ăn tối, cho họ xem
bức điện tín, và cả hai cùng đọc. Đại sứ Lodge và Bill Trueheart dường như rất
quan tâm vì họ đang bi “rắc rôi” chính trị. Theo lời Pezzulo kể với tôi thì Đại
sứ Lodge hỏi Bill Trueheart, “Ông nghĩ chúng ta phải làm gì về vấn đề này?”
Trueheart nói, trước mặt Pezzulo, rõ ràng là chúng ta cần một vật tế thần – một
con dê để đổ lỗi. Trueheart được cho rằng đã nói, “Rõ ràng, Lãnh sự của
chúng ta ở Huế có thể là một khả năng dùng được.”
Pezzulo hoảng hốt trước nhận định này, vì anh ấy
biết rất rõ chuyện ông Cẩn với tôi. Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề ông Ngô
Đình Cẩn ở Sài Gòn trong một chuyến tôi về Sài Gòn sau cuộc đảo chính nhưng
trước các sự kiện của buổi tối đặc biệt này xảy ra. Nhưng kết cuộc không có
chuyện gì xảy ra cả. Đó là một dấu hiệu nữa cho tôi thấy người ta không những
cần nhiều may mắn, mà còn phải cẩn thận, để có thể thoát khỏi một số vấn đề có
thể gây nguy hiểm cho sự nghiệp ngoại giao của mình.
Ông đã bao giờ tìm biết về nội dung bức điện tín
đó hay không? Ông đã bao giờ nhìn thấy nó chưa?
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Ông có bất kỳ ý tưởng nào về nội dung của bức
diện tín không?
Đó là một bức điện tín từ Bộ Ngoại giao cho hay
về sự “náo động” ở Hoa Kỳ về trường hợp ông Ngô Đình Cẩn. Đại sứ quán đã được
yêu cầu của Bộ Ngoại Giao đề nghị những phương án cho Hoa Thịnh Đốn ứng xử
trước tình hình “náo động” này. Tôi có thể nói rằng, trong những năm giữa thập
niên 1960, sau khi tôi đã trở về Hoa Kỳ và đã làm việc về các vấn đề Việt Nam,
tôi đã có dịp thảo nhiều câu trả lời cho rất nhiều thư từ của công chúng và yêu
cầu của Quốc hội. Trong nhiều trường hợp thuộc những vấn đề mà tôi phụ trách là
những sự việc liên quan đến vụ ông Ngô Đình Cẩn vì có nhiều người ở Mỹ tiếp tục
đặt vấn đề với những gì họ coi là một “hành động bội bạc” của Hoa Kỳ và
vẫn còn phàn nàn về nó. Vì tên của tôi bị coi là có liên quan đến sự kiện đó,
trong nhiều bài viết khác nhau vào thời điểm đó, tôi đã thường xuyên trả lời
thư, không phải cho chính tôi, mà với chữ ký của những người chức cao hơn tôi,
trả lời những vấn đề mà trong đó tôi đã bị buộc tội. Đây không phải là điều mà
tôi phải lo lắng nhiều, nhưng nó là một chú thích cho sự việc này.
Có vẻ những việc đó không làm tổn thương ông nhiều lắm. Đề nghị
của ông phù hợp với Cẩm nang Ngoại giao và là một đề nghi đúng, đúng về cả lịch
sử và truyền thống của chúng ta. Tôi nghĩ rằng quyết định đầu tiên cấp tị nạn
cho ông Thích Trí Quang trong Đại sứ quán sau cuộc tấn công chùa ngày 21 tháng
8 (1963) là một sai lầm. Quyết định cấp tị nạn cho Hồng Y Mindszenty ở Hungary
trong tòa công sứ của chúng ta ở Budapest sau Cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956
cũng là một sai lầm. Tôi nghĩ rằng quyết định cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại
Lãnh sự quán tại Huế là một sai lầm. Chúng ta không thể hành động như thế. Đó
không phải là truyền thống hay tập tục của chúng ta…
© 2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: 1. Thomas F. Conlon, Interview JOHN J. HELBLE, The
Association for Diplomatic Studies and Training Foreign Affairs Oral History
Project, April 5, 1996, pp 87-93, Copyright 1998 ADST.
2. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 291. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State, November 4,1963 8 p.m.
3. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 292. Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State, November 4,1963 10 p.m.
2. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 291. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State, November 4,1963 8 p.m.
3. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 292. Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State, November 4,1963 10 p.m.
--
__._,_.___
Posted
by: Nhon Huynh <huynhthanhnhon07@gmail.com>
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết