--
Kính
Chuyển
MG
THÀNH
KINH VINH DANH :
NHỮNG
ANH HÙNG BÌNH THUẬN ÐÃ TỬ TRẬN
VÀ
CHẾT TRONG NGỤC TÙ CS SAU THÁNG 5-1975
MƯỜNG
GIANG
Trong cuộc chiến sinh tử của người Việt Quốc Gia chống lại tập đoàn cộng
sản bán nước, suốt 30 năm từ 1945 tới ngày 30-4-1975, để gìn giữ quê hương. Có
thể nói được là không một miền đất nào tại VNCH có thể so sánh nổi với Bình Thuận
về ‘ đống xương vô định đã cao hơn đầu ‘ của đồng bào vô tội và Quân, Cán,
Chính.. qua một cuộc chiến tàn khốc bi thảm..
Người lính Bình Thuận các cấp từ dân mà tới. Họ là những người con thân yêu của
bản địa, xuất thân trong đủ mọi thành phần xã hội nhưng mang chung môt lý tưởng
duy nhất ‘ chống lại đế quốc cộng sản Nga-Tàu, do VC dẫn giặc về dầy xéo mồ mã
tổ tiên và chính quê hương mình ‘.Hai chục năm can trường chiến đấu, bốn lần
đánh đuổi giặc ra khỏi phố phường Phan Thiết vào Tết Mậu Thân 1968, giữ vẹn
toàn lảnh thổ Bình Thuận trong đêm thi hành hiệp định ngưng bắn 27-1-1973 và
sau rốt là hiên ngang chiến đấu cho tới giờ phút cuối cùng khi không còn có thể
chiến đấu được nữa, thì đoàn quân của Bình Thuận mới đành rút về Nam bằng tàu
thuyền trong trật tự, để lại sát cánh cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu tại Phước
Tuy vào những ngày cuối tháng tư 1975.
Cái tức tưởi và đau đớn nhất của QLVNCH nói chung và quân dân Bình Thuận nóí
tiêng : Là Họ đã không đánh được trận đánh cuối cùng với giặc Bắc mà đã phải
buông súng qua sự đầu hàng nhục nhã của cá nhân TT hai ngày Dương Văn Minh và
bè nhóm. Ðau hơn nữa là họ đã không chết tại những chiến trường kinh khiếp nhất,
vào Tết Mậu Thân 1968, tại Kampuchia 1970, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và những
ngày cuối tháng 4-1975.. mà bị giặc phỉnh gạt lọt vào rọ, để chịu chết tức tưởi
oan khiên trong tù ngục vì sự trả thù đê tiện và dã man của rợ Hồ.
Sau khi cưởng chiếm được lảnh thổ VNCH, tại quân khu II CSBV lập nhiều trại tù
để giam giữ quân nhân và công chức miền Nam. Tại các tỉnh Bắc Cao Nguyên Trung Phần,
có Tổng Trại 4 và 5. Tổng trại 6 ở Phú-Khánh (Khánh Hòa & Phú Yên), Tổng trại
8 tại Thuận Hải (Bình Thuan – Binh Tuy và Ninh Thuận) gồm trại tù Cà Tót và
Sông Mao. Ðầu tháng 6-1975, VC tập trung các sĩ quan trình diện tại Phan Thiết,
chở lên trại Cà Tót. Nhưng trước khi anh em tới, ở đây cũng đã giam giữ hàng
ngàn quân cán cảnh VNCH, đa số thuộc các Tiểu Khu Quảng Ðức, Tuyên Ðức, Lâm Ðồng
chạy về vào đầu tháng 4-1975. Ngoài ra còn có nhiều quân nhân, cán bộ của các
quận Nam Hàm Thuận và Thiện Giáo, cũng bị giam giữ tại đây.
Theo lời kể của các nhân chứng hiện còn sống sót, thì người sĩ quan Bình Thuận
đầu tiên gục ngã tại trại tù VC (trại Sông Cái) là Ðại Uý Long, sĩ quan phụ tá
cho Ðại Uý Ðặng Vũ Ðàng (Trưởng Phòng 2/TK).Vợ Anh Long đã tới được Hoa Kỳ qua
diện HO9. Vì Cà Tót nước độc không thể tả, nên dù là người Thượng địa phương
như Koho, Roglai cũng không tránh khỏi bệnh. Ðó là nguyên nhân khiến cho hầu hết
tù nhân tới đây đều bị sốt rét rừng, cấp tính, tiêu chảy vì đêm ngủ trần không mùng
mền, trong lúc đó muỗi bay đặc sệt khắp trời đêm lẫn ngày. Sự hành hạ trả thù của
VC đối với mọi người, đâu có khác gì các tội nhân Do Thái bị Hitler đầy đọa
trong các lò hơi ngạt thời Ðệ Nhị Thế Chiến tại Âu Châu hay ở các trại giam trừng
giới của Nga-Tàu tại Tây Bá Lợi Á và Thanh Hải...
Ðể gạt anh em vào rọ, qua cái gọi là ‘đi học tập cải tạo’, VC ra lệnh mọi người
chỉ mang theo 21 ký gạo trắng, lương khô, thuốc men, mùng mền.. Nhưng khi tới nơi
vào lúc 10 giờ tối, toán đầu tiên gồm 105 người sau khi bị chưởi bới, thì bắt nằm
ngủ ngay dưới đất chờ tập họp, trong khi láng trại tại Cà Tót bốn bề không có
vách nên gió núi thổi vào lạnh buốt xương. Sáng hôm sau, chúng đã cướp toàn bộ
đồ đạc của anh em mang theo kể cả giầy dép, chỉ chừa lại một bộ đồ mỏng manh
đang mặc. Sau đó phát lại cho mọi người thứ gạo hư mốc, mọt sạn, đã chôn giấu
dưới hầm sâu trong rừng núi lâu năm mới bốc lên. Tóm lại VC không có chế độ ăn
uống được qui định cho các tù binh. Ðã thế chúng còn sử dụng bạo lực và thủ đoạn
khủng bố tinh thần mọi người, nên hầu hết anh em đều mang bệnh. Vì đói khát lại
phải lao động cực nhọc, nên tù nhân phải kiếm măng sống, bắp đá, nấm dại và lá
rừng để ăn thêm. Ðêm ngủ không mùng, quần áo chỉ có một bộ không thay đổi nên rất
dơ dáy, sinh nhiều chấy rận, gây bệnh sốt rét, buồn ngủ, thương hàn, ngày nào
cũng có người chết.
Tại Cà Tót, sĩ quan từ Thiếu Uý tới Ðại Uý ở hơn 100 ngày thì cùng lúc chuyển
trại về Sông Mao. Riêng sĩ quan cấp tá (Thiếu Tá Bình, Thổ Thêm..) bị đầy ra Bắc
Việt sau khi đã ở đây được 2 tháng. Ngày rời trại, Thiếu Tá Trịnh Văn Bình (Tiểu
Ðoàn Trưởng TÐ274 ÐP/BT) chỉ còn da bọc lấy xương nên ông không chịu nổi sự hành
hạ của VC và đã gục chết thảm khốc tại trại tù Vĩnh Phú (Bắc Việt) vào năm 1977.
Vợ anh Bình là bà Trương Ðức Nghi, đã nhiều lần lặn lội ra tận miền thượng du để
tìm mộ chồng nhưng mộ phần các tù nhân hầu hết bị mưa gíó bảo tố san bằng, nên
không còn để lại một dấu vết gì . Riêng cấp Trung Úy đông nhất nên cũng có nhiều
người chết như Trung Uý Nguyễn Văn Nhị (em ruột Nghị Viên Nguyễn Văn Bông),
phân chi khu trưởng Phước Thiện Xuân (Hải Long) , Trung Uý Nguyễn Thành Giác
(trưởng ban 5 chi khu Thiện Giáo), Trung Uý Nguyễn Văn Biên, Thiếu Uý PB Nguyễn
Văn Lợi (Chợ Lầu) .. Tàn độc nhất là VC bắt mọi người đi chân không vào tận rừng
sâu để đốn gổ, chật tre, mây.. vác về láng xa hàng chục cây số với chỉ tiêu bắt
buộc. Thiếu Uý Nguyễn Văn Bông là người duy nhất tại trại Cà Tót không chết,
sau khi được chuyển tới trạm xá hơn một tháng, cả thân mình đều lở loét, mắt
khô lại như mắt cá chết/
Trại tù binh Sông Mao còn được gọi là Tổng Trại 8 , do Trung Ðoàn 482 của VC
Bình Thuận quản lý, thuộc Quân Khu 6 với chính trị viên là Trung Tá Loan, được
đặt trong doanh trại cũ của Trung Ðoàn 44/SÐ23BB (VNCH). Trại chia thành các
Khu A (cấp Ðại Uý), B (Trung Uý) và C (Thiếu Uý). Riêng cấp Chuẩn Uý được về
sau một thời gian ở tù.
Trại A có 4 nhà gồm Nhà 1 (dành cấp Thiếu Tá không đi Bắc), Nhà 2 (Bình Thuận),
Nhà 3 (Bình Tuy) và Nhà 4 danh cho các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức. Tới
giai đoạn Công An thay Bộ Ðội quản lý các trại tù binh, nhiều sĩ quan Bình Thuận
bị đầy ra trại tù trừng giới A.30 thuộc xã Thạch Thành trên Liên Tỉnh Lộ 7 (Phú
Bổn-Phú Yên). Có hai toán tổ chức vượt ngục : Toán 1 Phan Rang, 2 người bị bắn
chết, 2 bị thương nặng. Toán 2 Phan Thiết có Ðại Uý Trường Ðức Tuấn bị bắt lại,
VC đánh gảy xương bể đầu mang thương tích trầm trọng, Ðại Uý Dậu cũng bị thương
nặng. Ngoài ra còn có Ðại Uý Trần Ðức Thành bị tù nhiều năm tại trại trừng giới
Tuy Hòa, vì sau khi mãn tù, anh lại gia nhập Phục Quốc Quân chống lại VC.
Cũng tại trại trừng giới A-30, Ðại Uý Nguyễn Văn Thức, một sĩ quan ưu tú đã giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong ngành an ninh tình báo như Trunng Ðôi Trưởng Trung
Ðội Tỉnh Báo Tỉnh, Trưởng phòng 2/TK và Chỉ Huy Trưởng Phượng Hoàng Bình Thuận..
đã bị hành hạ dã man, suýt đem ra bắn, cũng chỉ vì sự tố cáo của một đồng đội
muốn lập công về sớm. Tên này hiện đang ở Mỹ ! Phó Tỉnh Trưởng Phạm Ngọc Cửu
sau nhiều năm bị tù đày trên đất Bắc, khi về Nam lại vào tù tại Hàm Tân và Phú
Yên trước khi đưọc phóng thích.
Riêng những người không đi Phú Yên, Sông Cái.. cũng được chuyển khỏi Sông Mao,
cấp Ðại Uý đưa về Giếng Triềng (VC gọi là Hàm Trí). Từ Trung Uý trở xuống vê
Công trường Bông Vải Lương Sơn làm lao động. Do đó đã có nhiều anh em bỏ trốn
theo Phục Quốc Quân nhưng đa số đều lọt bẩy địch, bị bắn chết hay mất tích như
Ðại Uý Then Biết, Nguyễn Văn Thư (Phan Rí Cửa) đợt đầu, Ðại Uý Nguyễn Văn Ba, Ðặng
Tuyên, K’Tê, Thông Ngộ, Ðặng Phiên..( đợt 2) . May mắn nhất là đợt ba trốn khỏi,
toán này gồm 4 người, trong số này có Ðại uý Trần hữu Thân (ĐĐT/TĐ274/ĐPBT), hiện
ở Mỹ và Ðại Uý Nguyễn Văn Ngư (trốn chung với Ðại Uý Ba)..
Trong số tù binh tại Cà Tót có hai nhân vật đặc biệt : Thiếu Tá Thổ Thêm và
Trung Uý Sét. Ai cũng biết, VC đã phổ biến bản thông cáo chung gồm 10 điểm,
trong đó nhấn mạnh tới việc ‘ những ai đã giải ngủ trước ngày 30-4-1975 được
hai năm hay bị thương tật ‘, thì chỉ trình diện học tập tại địa phương mà thôi.
Nhưng VC đã làm ngược với chính sách vừa ban hành. Bởi vậy đã có không biết bao
nhiêu vụ tắm máu trả thù các quân nhân và viên chức cũ của miền Nam tại Bình
Thuận, sau khi chúng cưởng đoạt được chính quyền.
Ngay trong ngày 17-4-1975 Bắc Bình Thuận mất, Thượng sĩ Thìn (cảnh sát đặc biệt)
bị VC địa phương bắt liền và hôm sau chúng trói ông, đem vào động Thái An (mật
khu Lê) bỏ chết đói. Ðại Uý Lê Văn Trò, DDT /DD 206 Trinh Sát Tỉnh, bị dụ từ
Sài Gòn về và bị hành quyết thảm khốc tại Tân Ðiền.
Thiếu Tá Thổ Thêm từng làm Ðại Ðội Trưởng/ ÐÐ888 ÐPQ
sau đó Tiểu Ðoàn Trưởng/ TD230 ÐPQ.Bình Thuận. Ông đã cùng với đơn vị dẫm nát
nhiều căn cứ của VC tại quận Thiện Giáo. Vì vậy ông được ân thưởng nhiều huy
chương cao quý của QLVNCH, trong đó có hai Bảo quốc huân chương và nhiều lần
vinh danh trước quân đội. VC thâm thù ông đến tận xương tủy nhưng vì ông là người
Chàm nên chúng sợ đụng chạm, phải để yên chỉ đầy tới chốn rừng thiêng nước độc
tận biên giới Bắc Việt, để chết dần mòn. Cũng nói thêm là Thiếu Tá Thêm đã bị bắt
ngay khi Bắc Bình Thuật thất thủ vào ngày 17-4-1975 tại quê nhà ở xã Hậu Quách,
phía sau quận đường Hòa Ða khoảng 3 km, sát đường rầy xe lửa đi Sông Mao. Ông bị
giải về Phan Thiết và nhốt tại Lao Xá một tháng, trước khi đi Cà Tót và ra Bắc.
Cuối cùng Thiếu Tá Thêm không chết trong tù như VC mong muốn.
Còn Trung Uý Sét, nguyên Ðại Ðội Trưởng ÐÐ 118 ÐP/BT (sau giao lại cho Ðại
Uý Ngư), có quân số 80% là người Chàm. Ðơn vị này hoạt động tại hai quận Phan
Lý Chàm và Hòa Ða. Cuối năm 1969 Ðại Ðội đụng nặng với VC tại Ga Châu Hanh, Trung
Uý Sét bị thương nặng đui một mắt, cụt một chân và một tay. Tàn phế như vậy ma
VC vẫn không tha thì làm sao mà hòa hợp hòa giải, nối vòng tay lớn dân tộc như
chúng luôn tuyên truyền.
Xin được thắp một nén hương lòng với tất cả sự ngưởng kính và trân trọng của
chúng tôi : Những Người Lính Già Bình Thuận, may mắn còn sống sót, thành kính
VINH DANH tất cả những Nam Nữ Anh hùng của Miền Biển Mặn, đã hy sinh trong cuộc
chiến, tại sa trường cũng như khắp các trại tù man rợ của cộng sản VN sau ngày
1-5-1975.
VINH DANH NHỮNG ANH HÙNG BÌNH THUẬN VỊ QUỐC
VONG THÂN :
- Trung Úy Trần Văn Thân : Học sinh Bạch Vân Bồ Ðề,
sinh năm 1942 tại Phú Trinh Phan Thiết, phục vụ trong Binh Chủng Lực Lượng Ðặc
Biệt, có đệ nhị đẳng Toikondo. Vào cuối năm 1974, hành quân tại An Khê tỉnh
Bình Ðịnh, lúc đó Trần Văn Thân là Trưởng Toán 754 thuộc Ðoàn Công Tác 75.
Trong lúc đụng địch, Thân không bị giặc bắt nhưng lúc bơi qua sông bị chết đuối
mất xác. Cũng trong binh chủng này, ở Phan Thiết còn có Trung Úy Khuê, Thiếu Uý
Hoàng, Chuẩn Uý Sanh, Ðại Uý Mau là SQ.Ðà Lạt và phục vụ trong Chiến Ðoàn 3, Sở
Liên Lạc. Riêng Chuẩn Uý Nguyễn Văn Mỹ, Bình Hưng thì chết tại Ðà Nẳng năm 1974
vì nổ lưụ đạn.
- Trung Uý Lê Văn Khen, PBC 55-61, sinh Phú Trinh
Phan Thiết, khóa 23 SQ.Ðà Lạt. Là Ðại Ðội Trưởng DD1/TD1/TrD43/SD18BB, tử trận
tại Ðịnh Quán, Long Khánh tháng 4-1969.
- Trung Uý Nguyễn Văn Trung, PBC 54-58, khóa 20
SQ.Ðà Lạt, DDT/TD2/43/SD18BB chết Long Khánh 1966.
- Ðặng Hữu Tâm, Sĩ Quan Trợ y của Trung Ðoàn
43/SD18BB, khóa 22
SQ.TB.Thủ Ðức, chết Ðịnh Quán
vì bị phục kích.
- Dũng Chinh, nhạc sĩ tên thật là Nguyễn Văn
Chính, học sinh Bồ Ðề. Sĩ Quan DDT thuộc TD3/45/SD23BB chết tại Phan Rang vì bị
VC phục kích.
- Ðại Uý Nguyễn Trọng Xuân binh chủng Thiết Giáp,
bị tù nhiều năm nên khi tới Mỹ qua diện HO bệnh cũ tái phát và qua đời tại San
Diego.
- Các vị Tỉnh Trưởng Bình Thuận như Lưu Bá Châm
và Ðại Tá Nguyễn Khắc Tuân, cũng như Trung Tá Vương Ðăng Phong, Tiểu Khu Phó
TK. Bình Thuận đã chết trong tù Cọng Sản tại biên giới Hoa Việt.
- Ðại Uý Vũ Mạnh Hùng, học sinh Tiến Ðức, sinh
quán Ðức Thắng, khóa 13 Thủ Ðức, là DDT của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, tử trận
tại Cầu Bình Lợi, năm 1968. Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh đã viết ca khúc Rừng Lá Thấp
để nhớ bạn hiền.
- Ðại Uý Lê Văn Quế, PBC 55-61, khóa 19 SQ.Ðà Lạt,
là DDT của TD44 Biệt Ðộng Quân, thuộc LD4BDQ lừng danh miền tây. Quế tử trận
tháng 4-1965. Cùng khóa có Trung Úy Nguyễn Văn Thu, Sĩ Quan QTV của SD23BB, tử
trận tại Ban Mê Thuột năm 1968. Ðại Uý Hoàng Xuân Liêu, SD23BB về phép PT bị
pháo kích chết.
- Thiếu Uý Phạm Nguyên An, SD3BB, tử trận năm 1973.
- Ðại Uý Trần Thanh Bang,PBC 55-61, SD1 BB chết tại Huế.
- Trung Uý Nguyễn Văn Bảy, DDT/TD202/ÐP/BT chết tại Cây Táo
- Trung Uý Ðoàn Hữu Bính, PBC 55-61, TK/BT chết tại Cà Tót.
- Thiếu Uý Lê Văn Bé, PBC 62-69, SQ/KQ tử trận.
- Phó Quận Trưởng Tuy Phong, Lâm Quang Chân, PBC 62-69 chết trong tù VC.
- Thiếu Uý Phạm Văn Cung, PBC 62-69, DPQ/BT tử trận tại Thiện Khánh năm 1972.
- Chuẩn uý Ngô văn Chín, PBC 62-69, tử trận
- Thiếu Uý Huỳnh Văn Ðược, SD7BB, tử trận Gò Công.
- Thiếu Uý Ðinh Hoàng Ðiểu, PBC 68-75, SQKQ, chết trong tù VC tại Huy Khiêm.
- Ðinh văn E., PBC 62-69, SQ/HQ mất tích năm 1975.
- Trung Uý Nguyễn Bá Hoa, PBC 63-70, SQ/Quân Cụ, tử trận tại Xuân Lộc năm 1973.
- Trần Hùng, PBC 55-62, SQ/SD22BB, tử trận Kon Tum.
- Nguyễn Văn Hồng, tử trận tại Ban Mê Thuột.
- Hải Quân Trung Úy Trần Thiện Khải, PBC 63-70, tử trận tại Hạ Lào sau năm
1975.
- Nguyễn Thành Lai, giáo viên, chết vì công vụ tại Thiện Nghiệp năm 1975.
- Trung Uý Dương Xuân Lang, PBC 62-69, SD18BB, tử trận Bình Long năm 1972.
- Trung Uý Nguyễn Văn Ly, PBC 60-67, tử trận tại Long An.
- Chuẩn Uý Ðổ Kim Lâm, PBC 62-69, SD18BB, tử trận Bình Long.
-Cao Minh, Học Sinh Bồ Ðề, BDQ, tử trận.
- Nguyễn văn Nghĩa, Biệt kích, tử trận
- Nguyễn Ðại ở Ðức Nghĩa, học sinh Bồ Ðề, tử trận
- Nguyễn Nghĩa, Bồ Ðề, tử trận.
- Trần văn Soái, Ðức Thắng, BDQ, tử trận.
- Thiếu Uý Nguyễn văn Nhị, em ruột Nghị viên Nguyễn Văn Bông, PCK trưởng Phước
Thiện Xuân, Hải Long, chết trong tù Cà Tót.
- Trung Uý Lưu Văn Nở, HQ, chết trong tù Cà Tót.
- Thiếu Uý Nguyễn Bảo Nghĩa, PBC 62-69, SD22BB, tử trận KonTum năm 1972.
- Thiếu Uý Bùi Ổi, SD2BB, tử trận Quảng Ngãi,
- Biên Tập viên Cảnh Sat Võ Phương, PBC 55-61, chết trong tù V1CT năm 1977.
- Thiếu Uý Võ Minh Phước, PBC 62-69, chết trong tù VC.
- Thiếu Uý Nguyễn văn Phú, PBC 63-70, SQ/KQ, chết Kon Tum.
- Thiếu Uý Nguyễn Văn Sơn, PBC 69, BDQ tử trận
- Thiếu Uý Phạm Văn Sơn, PBC 69, tử trận.
- Trung Uý Trương Minh Sanh, SQ/KQ, PBC 69, tử trận.
-Thiếu Uý Phùng Quốc Thành,PBC 69, SQBB, tử trận Quảng Tri năm 1972.
- Dai Uy Nguyễn Văn Thuận, HQ, mất tích năm 1975.
-Trung Uý Pháo Binh Nguyễn Văn Thành, PBC 65, chết sau khi mãn tù VC.
- Thiếu Uý Trần Văn Bào, PBC 69, tử trận.
- Thiếu Uý Võ Hữu Tòng, PBC 67, SD 7 BB, tử trận tại Mỹ Tho.
- Ðại Uý Trần Ngọc Châu, PBC 55-61, chết sau khi mãn tù VC.
- Ðại Uý Nguyễn Văn Châu, PBC 55-61, chết trại tù Cà Tót.
- Ðinh văn Ngọc, PBC 55-62 tử trận
- Nguyễn Văn Còn, PBC 55-62, tử trận
- Le Hiệp, PBC 55-62, tử trận.
-Ðại Uý Khanh, Yếu khu trưởng Phú-Ðại (tử trận)
-Trung Uý Duy, ÐÐT tử trận tại Tân Nông.
- Chuẩn Uý Chung Quốc Mỹ, ÐÐP/ÐÐ445/ÐPQ/BT tử trận tại Hòa Ða.
- Chuẩn Uý Võ Ngọ (Ban 3/Chi khu Thiện Giáo) tử trận.
- Chuẩn Uý Cầu, ÐÐP/ÐÐ888/ÐPQ Thiện Giáo tử trận.
- Nhà thơ Ý Uyên tử trận tai Ðồn Nơra (Thiện Giáo)
- Trung Uý Lương Cảnh Hùng, PBC 63, SQ.Ðà Lạt, SD23BB, tử trận tại Ban Mê Thuột.
.. và nhiều chiến sĩ vô danh khác trong mọi binh
chủng, công chức, dân thường đã gục ngã vì Tổ Quốc VN và quê hương Bình Thuận.
Thành kính tri ân.
Phạm Ngọc Cửu, Ðốc sự Hành Chánh, từ lúc ra trường cho tới ngày mất nước,
mà chức vụ cuối cùng là Phó Tỉnh Trưởng Bình Thuận. Sau tháng 4-1975, ông bị 13
năm tù từ Nam ra Bắc. Năm 1988 được sống sót trở về, đã gặp lại rất nhiều Sĩ
Quan Tiểu Khu, dù đã trải qua những đau khổ, hận hờn sau cuộc đổi đời phải sống
trong vùng giặc đóng. Nhưng tất cả đã vương vai đứng dậy, hiên ngang ngạo nghễ
như lúc còn đang cầm quân giết giặc, vẫn tình chiến hữu, đồng đội không phai
nhòa. Cảm động nhất là lời tâm sự của nhiều người ‘ So với những nơi khác,
chúng tôi thật nghèo khi làm việc với Ðại Tá Nghĩa.. nhưng nhờ vậy mà ngày nay,
gặp lại lính tráng của mình, chúng tôi không phải cúi mặt, quay lưng trốn chạy
‘.
Nhiều người đã ngả bệnh chết như Trung Uý Nguyễn Văn Biên (Ban 5-Tuy Phong),
Trung Uy Ðặng Văn Hai (TÐ229), Trung Uý Bông (Xã Thượng Văn).. tất cả được chôn
bằng 7 nệp tre bện với giây mối bò, quấn trong cái mền rách. Ðời lính thê thãm
quá chừng nhưng mấy ai biết hết. Còn Trung Sĩ Cảnh Sát Ðặc Biệt tên Tư Búa ở
Bình An, lên Cà Tót không bao lâu bị đem bắn. Tóm lại sau ngày 1-5-1975, đã có
không biết bao nhiêu chiến sĩ đã ngả gục trước sự trả thù hèn hạ của Việt Cộng
Bình Thuận. Nhiều người đã chết tức tưởi oan khiên như Trung Sĩ Lương Cảnh Phú,
Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân Huỳnh Nga (Hải Long) , Huỳnh Ðức (Hảng Nước Ðá)..
nhiều quá, không thể kể hết được.
- Ðốc Sự Phạm Ngọc Thành
Sinh quán Ninh Hòa-Khánh Hòa, ÐốcSự Hành Chánh, ra trường năm 1968 : - Phó Quận
Trưởng Hàm Thuận (1968-1970) , Phó Quận Trưởng Hòa Ða (1970-4/1975) . Sau tháng
5-1975, đi tù CS và chết lúc 34 tuổi, để lại người vợ trẻ tên Hồ Thị Ngọc Trai,
cùng 2 con thơ. Ðáng khen là từ ấy cho tới nay, bà Phạm Ngọc Thành, sau khi được
qua Mỹ năm 1985, vẫn thủ tiết nuôi con khôn lớn nên người. Ðây là một trong những
tấm gương Hiền Phụ, Hiền Mẫu đáng lưu vào sử sách Bình Thuận, để cho con cháu
mai sau đọc biết và làm gương xữ thế.
- Ðại Tá Hồ Ứng Phùng .
Là thân phụ của Bà quả phụ Phạm Ngọc Thành, nhũ danh Hồ Thị Ngọc Trai. Ông sinh
quán tại Quảng Trị . Sau Tết Mậu Thân 1968, là Thiếu Tá Tiểu Khu Phó TK.Bình Thuận
(Thời Ðại Tá Ðàng Thiện Ngôn làm Tỉnh trưởng và Ðốc sự Nguyễn Văn Tiên là Phó Tỉnh
trưởng Hành Chánh). Từ 1970 -1974 là Quân Trấn trưởng Tiểu Khú Ðịnh Tường và
Ban Quân Sự Bốn Bên của Quân Ðoàn 4 tại Châu Ðốc, vối cấp bậc Trung Tá. Ðầu năm
1975 được thuyên chuyển về Ban Quân Sự Hai Bên tại Trại David (Tân Sơn Nhất -
Sài Gòn) với chức vụ Trưởng Phòng Biên Bản. Tháng 3/1975 có Nghị Ðịnh vinh
thăng Ðại Tá.
Những ngày sắp mất nước tháng 4-1975, Ðại Tá Phùng lo đưa vợ và các con di tản
sang Mỹ. Ông ở lại và bị tù từ Nam ra tới Bắctại Yên Bái, Hà Nam Ninh và Trại
Z30 Hàm Tân (Thuận Hải) vào năm 1983. Tại đây vì bệnh quá nặng, nên VC cho về
nhà và đã qua đời sau 2 tháng, mới 57 tuổi.
- Thiếu Tá Trịnh Văn Bình:
sinh ngày 13-7-1935 tại Hà Ðông nhưng lớn lên ở Hà Nội, đã cùng với bố
di cư vào Nam năm 1954, còn Mẹ và Anh bị kẹt lại thiên đàng xã nghĩa Bắc Việt.
Ðuợc tuyển chọn vào lớp huân luyện phi công học tại Pháp nhưng giữa lúc đang thụ
huấn, thì bị trả về nước vì Pháp đoạn giao với Chính phủ VNCH, do Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm đã ra lệnh quốc hữu hóa tất cả những đồn điền cơ xưởng.. của thực
dân Phap tại Miền Nam VN. Do đó ông đã tình nguyện theo học khóa sĩ quan trừ bị
tại Trường Bộ Binh Thủ Ðức, mãn khóa được ở lại làm Huấn luyện viên từ khóa
13-19. Tuy nhiên vì không thích gò bó, lần nữa ông lại tự nguyện xin đi Sư đoàn
25 bộ binh của Ðại Tá Mã Sinh Nhơn, đóng tại Hậu Nghĩa. Từ tháng 10/1969 ố
8/1970, được cử đi tu nghiệp ở Atlanta (Georgia ố Mỹ) về nước vẫn phục vụ tại đơn
vị cũ.
Năm 1972 được thuyên chuyển về Tiểu Khu Bình Thuận, vì lý do gia cảnh. Giữ chức
vụ Ðại Ðội Trưởng/ÐÐ/ÐPQ sau đó được vinh thăng Thiếu Tá làm Tiểu Ðoàn Trưởng
TÐ 274/ÐPQ cho tới ngày mất nước. Tiểu Ðoàn của Thiếu Tá Bình là một trong những
đơn vị tác chiến lừng danh của Tiểu Khu Bình Thuận, tham dự hầu hết các trận đánh
lớn nhỏ trong liên vùng hai quận Thiện Giáo và Hàm Thuận, từng dẩm nát các mật
khu của VC như Nam Sơn (Cà Tót), Tam Giác, Ba Hòn, Mường Mán.. làm rạng danh
màu cờ sắc áo của ngưòi lính quê hương Miền Biển Mặn, không thua sút bât cứ một
quân binh chũng nào của QLVNCH.
Ngày 19-6-1975, VC tập trung tất cả sĩ quan Bình Thuận tại Cà Tót hơn 1000 người.
Tháng 6/1976 các sĩ quan cấp Tá, trong đó có Thiếu Tá Bình bị đầy ra tận biên giới
Hoa-Việt. Cuộc chiến giữa ba đảng Cộng Sản Tàu, Miên và Việt đã bùng nổ, nên Hà
Nội lại chuyển cac trại tù về Nghệ An, Thanh Hoá.. Riêng Thiếu Tá Bình về trai
tù Vĩnh Quang ở Vĩnh Phú, ở đây ông đã vĩnh viễn ra đi vì không chịu nổ sự hành
hạ, đói khát và bệnh tật cưu mang từ sau tháng 5-1975. Theo lời kể của bà
Trương Ðức Nghi, thì từ ngày bị giam 5-5-1975 cho tới khi qua đời ngày 27-11-1978,
ông không hề thấy được mặt vợ con một lần nào
- Trung Uý Tôn Thất Ái :
Tôn Thất Ái sinh năm 1941 tại Phú Vang, Thừa Thiên nhưng quê hương thứ hai là
Phan Thiết. Ái học Trường Nam Tiểu Học và TH Phan Bội Châu (1955 - ), sau đó
lên Ðà Lạt học Kinh doanh Chính Trị. Xuất thân từ Trường Bộ Binh Thủ Ðức, Ái về
Tiểu Khu Bình Thuận, làm Phan Chi Khu Trưởng Xã Phú Lâm thuộc Quận Hàm Thuận, cấp
bậc cuối cùng là Trung Uý tới ngày mất nước.
Sau tháng 5-1975, Trung Uý Ái đi tù nhiều năm từ Cà Tót tới Sông Cái (Phan
Rang) được thả về, rồi bắt lại và bị Cộng Sản tra tấn tới chết tại trại giam
vào năm 1983. Hiện vợ con Ái định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO..
- Ðại Uý Nguyễn Văn Ba :
Niên khóa 1957-1958, lớp đệ lục 2 Phan Bội Phan Thiết, ba dãy bàn cuối cùng về
phía sân vận động có Huỳnh Ngọc Ghênh, Hoàng Công Bình, Thân Trọng Nguyên, Võ
Văn Phát, Nguyễn Văn Ba (gà), Nguyễn Văn Ba (lân) và Nguyễn Văn Ba (cao), Hồ
Như Bang (Hàn Bô), Trần Thanh Bang, Bạch Văn Long, Bích Văn Mười, Ðắc Văn Kiết,
Lê văn Hai, Phạm Văn Nhàn.. Sỡ dĩ phải phân biệt để khỏi lộn tên mà còn nhắm
đúng vào đặc điểm của các đương sự lúc đó như Ba gà (nhà đường Trân Hưng Ðạo) ốm
nhách, Ba lân có mũi giống kỳ lân (Tường Phong, sau là giáo viên) và Ba cao Mũi
Né mặt mày luôn cau có nghiêm nghị. Năm đó Huỳnh Ngọc Ghênh làm trưởng lớp, thầy
Hồ Thế Viên dạy Việt Văn cũng là giáo sư hướng dẫn. Trong lớp còn có Mai Xuân
Cúc, MG, Trần Khánh Thiện, Nguyễn Chánh Trúc, Lê Giao, Võ Kim Ấn.
Ðại Uý Nguyễn Văn Ba (cao) sinh năm 1943 tai Mũi Né Hải Long Bình Thuận, cựu học
sinh PBC 1956-1963, khóa 20 SQ/TB/Thủ Ðức. Ra trường phục vụ tại binh chủng LLDB
(các toán Delta). Sau mấy lần bị thương nên được thuyên chuyển về làm huấn luyện
viên tại TTHL/LLÐB Ðông Ba Thìn ở Cam Lâm, Khánh Hòa.
Năm 1972 vì lý do gia cảnh, Ðại Uý Ba xin về phục vụ tại nguyên quán Tiểu Khu Bình
Thuận với chức vụ Ðại Ðội Trưởng các ÐÐ 2/510 ÐPQ , ÐÐ2/TÐ249/ÐPQ.. giữ vững xã
Phú Long và Tùy Hòa quận Thiện Giáo suốt thời gian CS Bắc Việt lợi dụng hiệp định
Ba Lê tháng 1-1973, cắm cờ dành dân chiếm đất. Sau khi Ðại Uý Huỳnh Văn Quý
ÐÐT/ÐÐ283 ÐP biệt lập được cử làm Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ249/ÐPQ thì Ðại Uý Nguyễn
Văn Ba về làm ÐÐT/ÐÐ283 ÐP biệt lập kiêm Yếu Khu Trưởng Yếu khu Phú Long (thời
gian này có sự thay đổi : ÐÐ 283 ÐPQ do Quý chỉ huy trở thành ÐÐ4/TÐ249/ÐP còn
ÐÐ4/TÐ249 của Ðại Uý Ba đổi danh hiệu là ÐÐ283).
Từ đó cho tới ngày tàn cuộc chiến, ÐÐ283 ÐP do Ðại Uý Ba chỉ huy, đã bình định
và lập lại an ninh tại Long Hiệp (Long Phú), Tuỳ Hòa và Yếu khu Phú Long. Những
ngày cuối tai Bình Thuận, ÐÐ283 đuợc tăng cường cho TÐ249 của Ðại Uý Huỳnh Văn Quý,
đã tái chiếm lại Thị Trấn Phú Long cho tới chiều ngày 18-4-1975 trước tăng pháo
và binh đoàn CS Bắc Việt từ Phan Rang vào, nên các cánh quân của ta tại Phú
Long trong đó có ÐÐ283 của Ðại Uý Ba được lệnh di tản bằng đường biển tới Vũng
Tàu và tiếp tục chiến đấu tới ngày 30-4-1975 thì buông súng theo lệnh TT Dương
Văn Minh.
Sau ngày 1-5-1975 như hầu hết quân công cán cảnh VNCH đều lâm cảnh tù ngục của
CSVN qua cái gọi là ‘ học tập cải tạo ‘.Tại Bình Thuận, Ðại Uý Nguyễn Văn Ba đã
lần lượt qua các tầng địa ngục từ Cà Tót tới Sông Mao. Cuối tháng 12/1975 một số
sĩ quan cấp uý trong đó có Ðại Uý Ba, được chuyển tới lao tác tại khu vực Giếng
Triềng trong khu Lê Hồng Phong . Tại đây Ba đã vượt trại cùng với Ðại Uý Ðặng Phiên
(em cựu dân biểu Thiếu Tá Ðặng Quang Lượng) , khóa 20 B Sĩ Quan/TB/TD Ðại Ðội
Trưởng ÐÐP và Ðại Uý Nguyễn Văn Ngư khóa 20 SQ/TB/TÐ Ðại Ðội Trưởng ÐÐ118/ÐPQ
thuộc Chi Khu Phan Lý Chàm và Ðại Uý Thông Ngộ. Từ đó tới nay các Ðại Uý Ba, Ngộ
và Phiên mất tích không rõ sống chết thế nào. Riêng Ðại Uý Nguyễn Văn Ngư theo
nguồn tin từ Trung Uý Cao Hoài Sơn cho biết vào năm 1981, Anh đã gặp Ðại Uý Ngư
bị CSVN giam tại một lô cốt ngầm ở Chi khu Hải Ninh cũ. Hiện Ðại Uý Ngư đã định
cư tại Washington DC qua diện HO. Tóm lại, qua quá trình chiến đấu chống lại sự
xâm lăng của Bắc Việt, các Ðại Uý Ba, Phiên, Ngộ và Ngư đều là những đại đội
trưởng tài giỏi, gan dạ , lập đuợc nhiều thành tích, giữ vững an ninh các ấp xã
và quốc lộ số 1.
Suốt thời gian phục vụ, Ðại Uý Ba đã được ân thưởng nhiều huy chương : 1 anh
dũng bội tinh ngôi sao vàng + 1 ngôi sao bạc (khi còn trong binh chủng LLÐB) ,
1 chiến thương bội tinh + 2 anh dũng bôi tinh ngôi sao vàng và bạc (Tiểu Khu
Bình Thuận).
- Ðại Uý Huỳnh Ngọc Ghênh :
Cựu học sinh TH Phan Bội Châu Phan Thiết niên khóa 1956-1963, khóa 15 SQ/TB/TÐ,
sĩ quan Quân Báo tại Quân Ðoàn I, sau đó thuyên chuyển về phục vụ tại Trung Tâm
Thẩm Vấn Tù Binh VC ở Suối Máu, Hố Nai Biên Hòa, thuộc Quân Khu III. Sau ngày
1-5-1975, Ðại Uý Ghênh bị giam tại Suối Máu, là một trong những nhà tù lớn của
CS Bắc Việt giam cầm Sĩ Quan các cấp của QLVNCH. Suối Máu gồm có 4 trại 1,2,3
và 4.
Tháng 5/1977 Ðại Uý Ghênh bị chuyển ra Liên Trại Tù 1, Hoàng Liên Sơn tại tỉnh
Yên Bái thượng du Bắc Việt (chung với Đại Uý Lê Bá Bình) và bị VC bắn chết vì
vưọt ngục..
- Ðại Uý Tống Ngọc Yến :
Sinh năm 1943 tại Ðức Thắng, thị xã Phan Thiết tỉnh Bình Thuận, cựu học sinh
Trung Học Tư Thục Bạch Vân (em ruột Tống Ngọc Nhuận), khóa 24 SQ/TB/TÐ phục vụ
tại Phòng 4 và sau cùng là Toán Huấn Luyện Lưu Ðộng thuộc Phòng 3/Tiểu Khu Bình
Thuận. Ðại Uý Yến đã chết vì bệnh sốt rét cấp tính tại trại tù Cà Tót (K24) thuộc
Thiện Giáo tỉnh Bình Thuận.
- Ðại Uý Nguyễn Văn Biên :
Khóa 14/SQ/TB/TÐ, sĩ quan tài chánh kiêm phát ngân viên thuộc Tiểu Khu Bình Thuận.
Ông đã chết tại trại tù Sông Cái (Ninh Thuận) vào năm 1978.
- Trung Uý Nguyễn Văn Biên :
Sinh năm 1945 tại Ðức Thắng Phan Thiết, em ruột thầy Nguyễn Văn Thảnh giáo viên
trường Nam Tiểu Học. Là cựu học sinh trường TH Phan Bội Châu niên khóa 1957-1964,
sĩ quan khóa 3 trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt, Trưởng Ban CTCT thuộc
Chi Khu Tuy Phong. Trung Uý Biên sau khi được lệnh đi chôn Trung Uý Hải, hôm
sau thì ngả lăn ra chết vì căn bệnh sốt rét cấp tính và dù các bác sĩ của ta
lúc đó đang làm việc tại bệnh xá xin chích trụ sinh để cứu Biên nhưng VC không
cho.
- Trung Uý Nguyễn Văn Tư :
Sinh năm 1941 tại Ðức Nghĩa Phan Thiết, cựu học sinh TH Phan Bội Châu 1956-1963,
khóa 22 SQ/TB/TÐ, sĩ quan tài chánh của Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch, chết tại
trại tù Cà Tót vào tháng 8-1975.
- Trung Uý Tăng Thanh Ðồng :
Sinh năm 1946 tại Phan Rí Cửa quận Hòa Ða Bình Thuận, cựu học sinh TH Phan Bội
Châu 1957-1964, khóa 3 SQ trường Ðại Học CTCT Ðà Lạt, sĩ quan CTCT thuộc Chi
Khu Hòa Ða. Ðồng được chuyển từ Lao Xá tới trại tù Cà Lon và chết tại đó (trại
tù này còn có Trung Tá Diệp Sắng Cảnh, Quận kiêm Chi Khu trưởng Hải Ninh).
- Thiếu Uý Nguyễn Văn Quang :
Sinh năm 1946 tại Ðức Thắng Phan Thiết, cựu học sinh trường trung học tư thục Bồ
Ðề. Từ năm 1964-1967 là Nghĩa Quân biệt phái cho Phòng 3/Tiểu khu Bình Thuận. Từ
1974-1975 là Thiếu uý Phân chi khu phó phân chi khu Hòa An thuộc quận Thiện Giáo.
Chết tại trại tù Cà Tót cuối năm 1975.
- Trung Uý Lữ Tây Tựu :
Sinh năm 1940 tại Quảng Bình, khóa 12 SQ/TB/TÐ. Ðã tốt nghiệp khóa tình báo
tại trường Cây Mai (Sài Gòn) năm 1963 và khóa tình báo tại Okinawa (Nhật) vào
năm 1964. Trung Uý Tựu đã phục vụ tại Phòng 2/SÐ23BB từ năm 1963-1965. Sau đó
thuyên chuyển về Tiểu khu Bình Thuận, giữ chức Trưởng phòng 2 từ đầu năm 1966.
Là một sĩ quan can đãm đầy mưu lược, Trung Uý Tựu đã phối hợp chặt chẽ giữa
Phòng 2 và Trung Ðội tình Báo tỉnh do Thiếu Uý Nguyễn Văn Thức (cấp bậc sau
cùng là Ðại Uý, hiện ở Florida qua diện HO) làm Trung Ðội Trưởng, đã nhiều lần
hành quân đột kích, phá vở các cơ sở của Vc tại Phú Hội, Bàu Sẽ, Tường Phong..
Biến cố Tết Mậu Thân 1968 (đợt 1), nhờ sự chiến đấu can trường của Trung Ðội
Tình Báo tại Lao Xá cũ (sau trường Chính Tâm) nên VC đã không tiến chiếm đuợc
BCH Tiểu Khu cũng như Tòa Hành Chánh Bình Thuận như kế hoạch. Sau Tết Mậu Thân,
Trung Uý Tựu thuyên chuyển về BTL/SÐ23BB. Năm 1969 vinh thăng Ðại Uý về phục vụ
tại Trung Ðoàn 45/SÐ23BB. Mùa hè đỏ lửa 1972, Ðại Uý Tựu tử trận tại Kon Tum. Tóm
lại trong các vị Trưởng Phòng 2/Tiểu Khu Bình Thuận hai Ðại Uý Lữ Tây Tựu và
Nguyễn Văn Thức là xuất sắc nhất.
- Trung Sĩ I Nguyễn Văn Nhọn (Nhuận) :
Ở năm xã thuộc quận Tuy Phong (Liên Hương, Phước Thể, Bình Long, Tuy Tinh
và Vĩnh Hòa), không một người lính NQ hay ÐPQ nào mà không biết tới tên Nguyễn
ăn Nhọn tự Nhuận, Liên Ðội Trưởng Nghĩa Quân (gồm các Trung Ðội 67,68,69).
Suốt cuộc chiến hai mươi năm, sỡ dĩ các xã ấp xôi đâu không bị VC chiếm giữ, phần
lớn là nhờ tin tình báo do dồng bào, trong mạng lưới tổ chức của TS Nhọn cung cấp.
Nhờ vậy mà ta đã kịp thời phá vở nhiều lần âm mưu của địch, kể chiến dịch ‘
dành dân lấn đất ‘ ngày 27-1-1973. Ðịa bàn hoạt động của Liên Ðội Nghĩa Quân là
Xã Phước Thể, cách BCH Chi Khu Tuy Phong khoảng 3 km, cũng là tiền đồn của quận
lỵ, tức thị trấn Long Hương. Vì vậy nhiều lần Tiểu Ðoàn 186 cộng sản Bắc Việt mở
cuộc tấn công vào Ðồn NQ Phước Thể do LÐ trấn giữ, đều bị TSI Nhọn phản công bằng
lựu đạn và súng cối đơn vị. Sau ngày 30-4-1975, TSI Nhọn bị VC cầm tù nhiều
năm.
Hởi ôi ! trong tận cùng của sự đau khổ này, đã không còn giọt nước mắt nào để
có thể nói lên được những điều tan vỡ ! không bao giờ ! Chúng tôi xin được làm người
ở lại, chia xẽ những đớn đau cho cảnh ly tan, như con xa cha, vợ xa chồng, đầu
bạc khóc đầu xanh và hơn hết, là một người bạn, một người em, một chiến hữu, để
được đốt nén hương nguyện cầu. Mong rằng vong hồn của những người Anh, những bạn
bè, những Anh Hùng Dân Tộc sớm tiêu diêu.
XIN VINH DANH VÀ TRUY ÐIỆU cho những thế hệ Cha Anh, Bạn Bè Ðã Vì Tổ Quốc Vong
Thân. Xin một nén hương lòng, hãy đốt lên, để thơm hương tình người . Rồi
nghìn năm sau đó, có ai nghĩ như ta, để viết về nghìn năm trước, đã có những
anh hùng, liệt nữ, từng đi qua những con đường Bình Thuận đầy máu lệ suốt cả cuộc
đời..
Viết sau khi phỏng vấn Quý Niên Trưởng :
-Phạm Ngọc Cửu,
-Phan Bái
Huỳnh Văn Quý, Cao Hoài Sơn, Ngô Trúc Khánh
-Trần Hữu Thân, Nguyễn Tấn Hợi, Hồ Ngọc Trai
-Trương Đúc Nghi, Mai Xuân Cúc
-Phan Chính, Lê Ngọc Lan..
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
__._,_.___
Posted
by: Ho Dinh <