Kính mời viếng thăm
----- Forwarded Message -----
From: "Nhut Chau Nguyen [truongvobiquocgiavietnam]" <>
To:
Sent: Monday, May 26, 2014 8:07:19 AM
Subject: [TVBQGVN] Fwd: WG: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975
XIN MỜI ĐỌC . ACL 16
---------- Forwarded message ----------
From: Monique HN
Date: 2014-05-26 13:27 GMT+02:00
Subject: Fwd: WG: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975
To: AnhTo Vien <>, Nhut Chau Nguyen <>
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, một đạo quân đã chiến đấu dũng mãnh
chống cả Khối Đế Quốc Liên Xô, Trung Cộng và chư hầu để bảo vệ tự do, no ấm cho
miền Nam.(HsPblogspot)
Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những
chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm
trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm
định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung
Tâm Việt Nam thuộc Ðại Học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và
18 Tháng Ba năm 2006.
Trong số nhiều diễn
giả Việt-Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm của riêng ông về một quân đội
mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều
năm. Bài này được chuyển ngữ từ nguyên bản bài viết của Bill Laurie, mà ông
dùng để trình bày, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài
viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt
ngữ. Những chữ viết ngả để trong ngoặc đơn là chú thích của tác giả để câu văn
chuyển dịch mang được đầy đủ ý nghĩa của nó.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thay đổi một cách đáng kể cả về số
lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không
hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn
không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ
trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này
là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên
kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
trước năm 1968.
Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện
hữu, hay phủ nhận rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây
hiểm họa cho khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước họ. Tuy
nhiên, ở một mức độ nào đó, những vấn đề này có được giải quyết, và những khía
cạnh tích cực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể bị xóa khỏi trang lịch
sử vinh quang.
Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971
và phục vụ 1 năm tại MACV(Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam), rồi sau đó
trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tùy Viên Quân Sự. (DAO)
Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi
tham dự khóa huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia,
tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Ðông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và
học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những
nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi
được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo,
trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao
gồm công tác liên lạc giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các
toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh thị của Việt Nam, và cả các đơn vị Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ
khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa, liên lạc không những
với các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ
USAID, và CIA.
Khi thì đứng vào vị trí rất cao cấp trong những buổi thuyết
trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong
cùng với các binh sĩ Ðịa Phương Quân, hay bay ngang tỉnh Ðịnh Tường trên một
chiếc trực thăng Huey của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hoặc là nằm trong căn cứ
Biệt Ðộng Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Ðông.
Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một
tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe
ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các
trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải.
Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu quả thật tất cả những người ở Mỹ đang nói về Việt
Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”
Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn
vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh,
hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì,
cháo… háo hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han,
và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.
Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi
đã đọc hằng feet/khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả
những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ với
những cựu chiến binh gốc Ðông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm
trang web Việt Nam và Ðông Nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt
Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và
những kết luận do những người ở các xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù
hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.
Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Ðúng là có
những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì
với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng
Hòa, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt
động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói
với tôi là Sư Ðoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đơn vị cứ mãi bị kết tội vì khả
năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị
có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam,
một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến
thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được
người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi
rằng có thể là lực lượng Ðịa Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của
tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những 1 mà tới 3 trung đoàn chính quy của quân đội
miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ
ra nguyên cả lực lượng xung kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm
đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó.
Ðịa Phương Quân không được Pháo Binh và Không Quân sẵn sàng yểm
trợ như lực lượng chính quy Việt Nam Cộng Hòa, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt
Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu
căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã
lập tức trực tiếp đe dọa Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh
Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt
hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến Sĩ James H. Willbanks viết trong tác phẩm
xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư Ðoàn 21 tuy không thành công trong việc
phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng
khỏi chiến trường An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả
khốc liệt.
Nói vắn tắt, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một cách toàn diện, đã
có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam,
và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày
trước… và ngày nay cũng vậy.
***
Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Ðiều này là hiển nhiên.
Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa
Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.
Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng Việt Nam Cộng
Hòa khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu.
Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa đã gây thiệt hại nặng
và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông
gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng
“Huy chương của tổng thống Hoa Kỳ”. Ðại Úy Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này,
đã mô tả người đối tác của ông, Ðại Úy Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là
con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, mang
huy hiệu Trâu Ðiên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản miền Nam và chính quy
Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với
những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công
trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa
Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…
Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà
Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hóa
phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa
hai thời kỳ, thời kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không chiến đấu, và bây giờ là
lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì
chiến sự hằng tháng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt xa mức tổn thất
trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại.
Rốt cuộc thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được cung cấp vũ
khí tối tân, thay thế những trang bị thời Thế Chiến Thứ Hai mà hầu hết quân lực
này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội Việt Nam Cộng Hòa được
trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt Cộng và bộ đội Bắc
Việt. Ðồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày:
(Bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính
quy và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số
tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 triệu 48 ngàn quân.
Trong đó, Không Quân
gia tăng quân số tới 163%, Hải Quân tăng 110%, Lục Quân tăng gần 8% quân số)
Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic
of Vietnam, có nghĩa là Lục Quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra
còn những thành phần khác, gồm Cảnh Sát Dã Chiến, Nhân Dân Tự Vệ, và các toán
Xây Dựng Nông Thôn.
Lực lượng xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến
đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu nhưng (những lực lượng
này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North
Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã
đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi
pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào
tài liệu.
Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá
già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như
lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên
truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng
sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt
cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ
không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có
nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (Trích từ các sách vở của các tác
giả người Mỹ).
“Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân
tự vệ khác xuất hiện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M1 (không ghi rõ
garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly.”
Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và
B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ.”
Còn nữa: Một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc
xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu hủy tại An
Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.
Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu
sau đây:
“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính
quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ
bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động
cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ
thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã
gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt cộng).”
Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân
dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai
do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.
Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Ðịa phương quân với sự
trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và
trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một
toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:
“Chúng tôi vừa vượt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hỏa lực từ một
rặng cây trước mặt bắn tới.
Nước văng tung tóe xung quanh, đạn bay véo véo trên
đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống
như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy
cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều
động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hỏa lực địch. Khi
toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác
xạ. Dưới hỏa lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần
chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong.
Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi
người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá hay.”
Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook
nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:
“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất
lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu
và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích
quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”
Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn
vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém
cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn
công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan
địa phương của Việt Nam mà họ không hòa thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không
gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của
những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố
vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc
thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng
như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.
Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không
phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh
VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ
động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens,
trước đó từng phục vụ trong Thủy quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc
nhiên trước thành tích của một đơn vị thuộc sư đoàn 1 bộ binh Việt Nam trong
trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:
“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách
thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Ðây là cuộc hành quân thứ
13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những
chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực
hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung
đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những
người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này
làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa lực mà thôi. Còn về sự hiểu
biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta.’ Chúng tôi có các cố vấn
người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác giả trích luận án Master năm
1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii).
Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Ðịnh Tường thuộc quân khu IV, sư
đoàn 7 bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời
xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các
binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là
sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì
trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì
hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần
hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của sư
đoàn 7 bộ binh:
“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển
quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.
Ở Bến Tre (tức tỉnh Kiến Hòa) sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính
gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu
Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi.”
(tác giả trích dẫn David Chenoff và Ðoàn văn Toại, sách Chân dung kẻ địch,
Random House ở New York xuất bản năm 1986).
Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền
khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được
trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía Bắc vùng châu thổ. Một tù
binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người
khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm
sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại
bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của sư đoàn 7, trước khi tới
lượt lực lượng chính. (Tài liệu trích dẫn).
Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968
và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi
những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ
rệt:
(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt
Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của
Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận,
những cuộc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc,
khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng
9.8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số
của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%).
Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là
tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, dưới
tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Ðiều này xảy ra trong khi quân số tham
chiến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những
chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc
hành quân tấn kích.
Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số
xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá
rõ ràng, và không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều
gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân
đội Bắc Việt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971.
Trong khi Việt cộng, gọi
như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và những
ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như
Chương Thiện, Ðịnh Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương
cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô
của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự
tàn lụi.
Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn
không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances
Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi
cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt
trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của
cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội
sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn
90%.
Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng
cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân
gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các
chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính
phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng
định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần
giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “riêng phía Việt cộng không phải
là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn.”
Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết
đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa sả om
sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những
khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi
như toàn những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích
tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:
“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu
IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy
tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và
không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp
tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém
cỏi và tham nhũng.
Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương
xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn
mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước
kia tôi cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi
thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát
được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”
Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc
chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với
đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử
dụng như hỏa tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hỏa tiễn công phá điều khiển bằng
dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 được yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hỏa tiễn
122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho
lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc,
và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở
tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt
Nam, tính tới lúc đó.
Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam,
Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “…Nam Việt
Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc.” Nhiều nhà bình
luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố
quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính.
Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH
không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều
căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như
QLVNCH đã được. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một
yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vượt trội của Bắc Việt là thiết
giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính
xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km).
Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí
lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp
cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hỏa tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ
đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn
các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly
khoan hầm, nổ chậm. Tựu chung, trở lại đề tài không lực, thì không quân Việt
Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972,
nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều
không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà
anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lục vào vị trí quân Bắc Việt:
“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên
thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper
dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một
bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay
đó, các phi công của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm
xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hỏa lực từ mặt đất
vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam
Việt Nam.
“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều
xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công không quân Việt
Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ
trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vượt hẳn sự khôn
ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.”
Ðây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát
viên không quân của Mỹ chứng thực:
“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972…
Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu.”
QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so
với trận Tết Mậu Thân 1968, về khía cạnh quân số và hỏa lực. Ước lượng có
khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50
ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết 1968
chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng
rất hạn chế. (ngoại trừ ở quân khu I).
QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hiệp định Paris gian
lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối Tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc
nhiệm VNCH đã đánh đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn
thất nặng tới nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót
phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành
quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba
tỉnh Ðịnh Tường-Kiến Tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp
chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị
trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng
sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ
đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên hiệp
quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong
những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang
sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không
sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến của VNCH.
Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt
đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi
ấy. Ðến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn
đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho
mỗi khẩu đội bắn trong một ngày:
Năm 1972 Năm 1975 Tỉ lệ giảm
Ðạn 105 ly 180 viên 10 viên 94%
Ðạn 155 ly 150 viên 5 viên 97%
Ðạn 175 ly 30 viên 3 viên 90%
Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh
được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều đơn vị cấm binh
sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị
giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn
ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ
sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu
thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên
cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ
thực phẩm cho nhu cầu của gia đình.
Ðói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh
thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và
người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết
thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như
những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi
thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại
sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự
thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái
bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?
Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh
ông Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần
nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng
trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của
những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối.
Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng
sự có mặt và vai trò của của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được
biết đến. Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại
một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất
nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận”
(tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng
do các Trung Úy Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn
yểm trợ hỏa lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ
đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh
nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các Trung Úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận
nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá
Trương Phụng và Ðại Úy Phúc lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau
cùng chỉ còn Ðại Úy Phúc sống sót, oanh kích đến khi hết đạn. Hai Trung Úy
Thanh, Hiền và Thiếu Tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến
đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!
Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một
quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt,
với thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược,
do khối cộng sản cung cấp.
Trước một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt viện trợ
như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400
ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại
QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như
họ đã ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ
Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc
Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm
xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại,
Ðoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng
cộng sản hồi Tết Mậu Thân 1968.
Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không
sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như
QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công
kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hỏa lực quyết định chiến
trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối,
QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát,
trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 triệu.
Nước Mỹ với dân số 200
triệu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy,
con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa
mới đủ ghi tên tử sĩ. Ðiều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir
Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:
“Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc
gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn
thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một triệu
quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế,
theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao
giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều này.” (được nhấn mạnh và
thêm vào).
Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc,
sau khi Sài Gòn thất thủ:
“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm
ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia
hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”
Kế hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành
nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?
Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hóa có hiệu quả, nhưng
lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng
lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hóa
thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:
1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.
2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai?: 57% đồng ý.
3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng
Việt cộng-Bắc Việt trong tương lai?: 25% nghi ngờ.
4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%.
Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ
lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng
lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng
1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà
các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân
đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Ðịa phương quân,
Nghĩa quân, vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi: “Nếu quân
đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững
được bao lâu?”
Ðiều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn
thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung
chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh
bại quân xâm lược Bắc Việt trong năm 1972, thường là không cần tới sự yểm trợ
hỏa lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của
Nghĩa quân và Ðịa phương quân. Ðiều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết
của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm
không đáy.
Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và
tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ
trung hơn, hết lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi
mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ
cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị
công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi
xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân
dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó,
đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với
tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH
bày tỏ:
“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý
tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống
trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào
quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tưởng gì riêng cho mình. Nhưng
người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”
Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Ðoàn Lao công Nam Việt Nam, tương
đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có thể xếp đặt cho con trai
ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ
quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập
pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá
thư:
“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình
hình chúng ta… Họ phải cung cấp viện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con
xin ba, ba à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất
trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con
sẽ giữ vững vị trí và không rút lui.”
Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.
Bác sĩ Phan Quang Ðán là quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một
cựu đối lập với ông Ngô Ðình Diệm, nổi tiếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền
lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai
cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ
dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe
tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà
Nội, Ðại Úy Tuấn bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy
không phải là duy nhất. Người viết bài này hằng ngày gặp những phi công trực
thăng võ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thủy quân lục
chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị
“lưỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn
tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn. Một trong những tấm gương
gây xúc động hơn nữa về lòng tận tụy với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh
viên sĩ quan trường Võ Bị quốc gia Ðà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của
họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn
vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:
“- Anh sắp bị giết đó!
- Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.
- Sao vậy? Ðã kết thúc rồi mà!
- Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản.”
Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt
đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết.”
Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học
trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc
cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập
chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:
“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong
số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiếu sinh quân đánh trả.
Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”
Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp
bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa
trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.
Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn
toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các
đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một
cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến
1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền
hình. 0.7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về bình định. 2.7%
về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia.
Tổng cộng chỉ có 392 chương
trình, tức 2.7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về
Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về
QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công Ong Chúa lừng danh của trực
thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc
đường mòn Hồ Chí Minh.
Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình
ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường
Thiên An Môn, nhưng không ai biết Trung Sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam Huỳnh
Văn Lượm đứng trên cầu Ðông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng
khẩu súng chống tăng LAW của anh:
“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường
tiến của 40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại
dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang
đầy niềm phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và
với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách
đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thủy quân lục chiến
Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc
chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”
Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên
tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến
thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt
dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức
rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh
nặng kinh tế cho binh sĩ của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác
bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó,
thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc
Việt:
“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn
phim… Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có
thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”
Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7 đều là “những tay
chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như
đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho
nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ
tại Ðông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay
gắt.
Quân đội Đồng Minh tham chiến tại Việt Nam
Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ
gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những
người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm,
như một loại phản bội văn hóa và truyền thống Việt Nam. Không phải những người
Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để
gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước
của họ. Một thủy quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về
điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với
quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự
kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975 đã chứng thực tính thuận lý và giá trị
của điều quyết tâm ấy.
Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng
khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối
vào cái chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học
được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, chỉ viết rằng: “Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra còn gom góp
hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn
tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học.
Có nói đến vụ tấn công
sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân Việt Nam Cộng Hòa tham dự đông
đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách
cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở
Cambodia. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ
được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).
Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số
phim tài liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu trung
tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là
một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác
tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US
Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông
mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chế độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi
xóa tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa?
***
Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đè bẹp bởi một
gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu
dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ.
Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này,
và cần phải có hội nghị đó. Những chiến lược giả hiệu phát xuất từ Washington,
về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động
nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh.
Không có con đường này
thì cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc
gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản
tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan
trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng.
Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch
và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một
việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của
người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung,
trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường
Ðông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực.
Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù lòa, lần mò vụng dại như con heo trên tảng
băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn. (Những chữ in
đậm là những chữ tác giả viết bằng tiếng Việt)
Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược dòng lịch sử khó có thể
được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đã qua) là
một cuôc chiến không thể nào thắng được.
Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ
sát cánh những chiến hữu của họ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, “những chiến
hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang
trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận
tụy, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế
giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái
Lan.
Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế
giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Ðông
Nam Á đã biết yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê
hương”.
Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối
cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định
kiến của người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách
đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Ðông Nam Á đã trải
qua loại thử thách khổ đau nào. Ðầy dẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những
nét quan sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và
cả người Lào).
Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn
diện. Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam,
Trần Văn Nhựt, và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như
hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản
khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân
cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó
thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là Chiến Tranh Ðông Dương của Hà
Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của
những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn
cứ.
Nhà sử học Bill Laurie
Dịch giả: Nguyễn Tiến Việt
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ.
Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường
hiện nay rất khó.
Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực
dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các
tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường.
Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át
tiếng cầu kinh và niệm chú.
Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu
thị Phật”.
Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn
chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng.
Thầy có chùa rồi thì có bao nhiêu là dự án xây
dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời
buôn thần bán thánh.
Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời
mà không có trong các chùa:
Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây
quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở
thành bệnh dịch
biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng
bán đồ ăn,
biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát
hỏng nỉ non uốn éo,
biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký
gởi tượng Phật.
Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh
pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa
đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.
Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ
tiền vào túi.
Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên
nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết
phục vận động xin tiền.
Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao
mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem
các thầy chùa như Phật thánh.
Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất
vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý
thầy.
Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa
to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng
thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú
trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng
vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan.
Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn
những chuyện cao siêu huyển hoặc.
Số các thầy đang đọa lạc vào tham ái thì
biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là
nạn nhân.
Thủ phạm chính là những người mang danh Phật
tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trể đường
tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra
xây chùa dựng tượng.
Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm sa đọa quý thầy
bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày
khất thực,
chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà
nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành.
Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ,
bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và
Phật tử hoan hỷ suy gẫm.
VP.PHTQ.CANADA
Kính mời viếng thăm
Kính mời tham khảo bài viết về
Ý NGHĨA SỰ CẦU NGUYỆN
và bài
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU?
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA
---------- Forwarded
message ----------
From: VP.PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA <>
Date: 2014-05-05 19:29 GMT-04:00
Subject: [testing2k] Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Saigon -
Khi USA cúp viện trợ thì VNCH sụp đổ đương nhiên - HẾT TIỀN THÌ HẾT ĐÁNH NHAU -
ĐƠN GIẢN
To: testing
MONDAY 05/05/2014
Kính thưa quí vị,
Thân phận nước VNCH
nhỏ bé hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ USA.
Khi USA cúp viện trợ
thì VNCH sụp đổ đương nhiên.
Ví như xây nhà trên bải
cát, không sớm thì muộn cũng tiêu tùng.
Cho nên, bây giờ đổ
lỗi cho tôn giáo này hay tôn giáo kia làm sụp đổ VNCH
chỉ là những lời nói
của kẻ khùng điên, miễn bàn.
Còn đối với những vị
còn ở lại với dân, với quân, với nước để tránh sự đổ máu,
tránh sự đổ nát của
các thành phố trong những giờ phút hiểm nguy nhất của lịch sử
vào ngày 30 tháng
4 năm 1975, Đại Tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống VNCH
là những tấm gương anh
hùng can đảm, có trách nhiệm, đáng tri ân và ghi nhớ.
KHÔNG CÓ AI CÓ THỂ CỨU
VÃN TÌNH HÌNH CỦA VNCH TRONG NGÀY 30-4-1975.
HẾT TIỀN THÌ HẾT ĐÁNH
NHAU - ĐƠN GIẢN.
Cho nên, những kẻ trốn
chạy khỏi nhiệm sở, xin chớ lên giọng chửi bới các vị có tinh thần trách
nhiệm
với dân, với quân, với
nước nói trên.
Đối với TT. Nguyễn Văn
Thiệu,
Ông là người làm
tan rã QL.VNCH trong thời gian kỷ lục đã giúp cho chiến tranh sớm chấm dứt.
Dĩ nhiên, trên cương
vị Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh tối cao, Ông là người có trách nhiệm với lịch sử.
Tuy nhiên, Ông không
thể ở lại để bị đối phương bắt giữ và làm nhục.
Trên phương diện cá
nhân cũng như tập thể, mọi người có nhiều suy nghĩ đúng đắn để
giúp cho dân giàu nước mạnh hơn
là chửi bới, bôi nhọ lẫn nhau.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
TT.Nguyễn Văn Thiệu
& Phu nhân
TT.Dương Văn Minh nhậm
chức 28-4-1975 khi tình hình VNCH không còn viện trợ và không còn phương cứu
vãn.