QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Friday, September 11, 2015

H.O viết - sau 25 năm định cư Hoa Kỳ



On Thursday, September 10, 2015 9:11 AM, Tom Tran <> wrote:

Re: Tài liệu liên quan  quan đến chương trình HO
Nhân kỷ niệm 25 năm CTHO.

Kinh chuyển đến qúy vị một bức điện thư của Đại Tướng John Vessey, ngươì đã qua Ha nội thương thuyết vế vấn đế tù nhân chính trị , gơì cho ông Trần Xuân Thời
cưu CT/CĐVN Hoa Kỳ
.Bức thư naỳ đã đươc doc trong Đai hội  CSVSQ Thủ Đúc tại Minnesota năm 2011

Appreciation  Lunch

John W. Vessey 
From:  <vjack
Add to Contacts
To:      tom42

Dear Mr. Tran:

Thank you, very much, for the kind invitation to the Appreciation Lunch on November 27. Unfortunately, I will not be able to attend. It would have been pleasure to be with you and perhaps greet some old comrades
from the Vietnam War.

In my more than sixty years of service to the United States, the one accomplishment that gave me the most satisfaction was negotiating an agreement with the Hanoi government to release the former South Vietnamese military officers and political officials from the prison camps, or ''re-education camps", as they were called by the Vietnamese government.

When President Reagan gave me the assignment of Presidential Emissary to Hanoi, he gave me a number of goals to achieve, and he said the three most important are: 1. Accounting for all the missing American servicemen, 2. Gaining the release of all the former South Vietnamese military officers and political officials then in prison camps, and 3. Setting up a system to permit the peaceful reunification of separated Vietnamese families. When I reported to him that we had reached agreement with Hanoi on goals 1 and 3, he was very pleased. I then explained to him that, concerning the former South Vietnamese officials, the Deputy Prime Minister had told me they could not be released because they would create dissension in Vietnam. I then told the Deputy Prime Minister that we, the United States would happily take all of them and their families into the USA as long as they agreed to come. He then agreed to the release. President Reagan said, "Fine, our country will be the richer for their presence here. The Vietnamese American Community has certainly borne out the President's prediction, and I am pleased to have had some small part in that success story.

Again, I am sorry that I am not able to be with you on November 27. With Very best wishes,
John W. Vessey General, USA (Ret.)

2015-09-09 18:23 GMT-05:00 Tran Chon <>:
Kinh chuyen,
Chloan

Sent from my iPad
Begin forwarded message:
Giới thiệu cùng quý vị và ACE H.O. - Bài viết dưới đây là của một ngươì - vốn không xa lạ gì, anh nguyên là Chủ Tịch Văn Bút Miền Tây Nam Hoa Kỳ - Nhân có chương trình HỌP MẶT "25 Năm H.O. & Gia Đình"  - Anh gởi cho chúng tôi một bài viết liên quan "Một thời...HO"

Xin giới thiệu cùng đọc.
letamanh
25 năm H.ời
Một Cuộc Đổi Đời

                                  H.O1 Nguyễn Hữu Của                 
( Riêng tặng tất cả Cựu Tù và gia đình  có cùng mẩu số chung H.O,
                 nhân "Ngày Họp Mặt Kỷ Niệm 25  Năm H.O")

      25 năm, một phần tư thế kỷ.

      Khoảng thời gian khá dài so với một đời ngừơi. Nhưng với những ngừơi H.O, những Cựu Tù Nhân Chính Trị sau nhiều năm tháng đọa đày, khổ nhục  trong các Trại tù Cộng Sản , được định cư tại Hoa Kỳ như vừa trải qua giấc mơ. Một giấc mơ không tưởng, một giấc mơ thật đẹp sau giấc ngủ dài với những cơn ác mộng triền miên trên quê hương đau khổ.

   25 năm nhanh chóng trôi qua  kể từ tháng Giêng 1990, khi Ngừơi H.O đầu tiên bước lên phi cơ bay đến đất nứơc xa lạ hơn nửa vòng trái đất nhận làm quê hương thứ hai. Ngừơi H.O cùng với gia đình đã phải đối diện muôn ngàn khó khăn trước một xã hội hoàn toàn xa lạ. Chưa kể những cái nhìn kỳ thị cùng với sự phân biệt đối xử cuả một số it người hẹp hòi, may mắn nhanh chân di tản trong giờ phút hai mươi lăm của cuộc chiến. Tuy nhiên Ngừơi H.O  đã không ngừng phấn đấu vươn lên,   âm thầm chịu đựng, vựơt qua biết bao gian khổ từ ngôn ngữ đến phong tục tập quán hội nhập vào dòng chính xã hội Hoa Kỳ với những thành quả rất đáng tự hào trên mọi lảnh vực từ y tế, văn hóa, kinh tế ,kỹ thuật ,mỹ thuật kể cả quân sự.

     Hơn ai hết, Người H.O và gia đình hiểu rỏ Cộng Sản, vì chính họ là những nhân chứng sống trải qua biết bao đau thương tủi nhục từ trong các "Trại Tù Cải Tạo" và cuộc sống nhiểu nhương  ngoài xã hội khi đất nước thay ngôi đổi chủ. Niềm tự hào không dừng lại ở một cá nhân, một gia đình mà hầu hêt những gia đình có cùng chung mẩu số H.O.

   Hai chử H.O từ hai mươi lăm năm qua đã tạo một ấn tượng khá sâu sắc trong cộng đồng ngừơi Việt hảỉ ngoại. Người H.O góp phần cho bộ măt Cộng Đồng Người Việt hải ngoại thêm khởi sắc, phong phú và đa dạng trên nhiều lảnh vực, nhứt là Chính trị, Văn Hoá và Xã hội.

   Trước đây hơn mười lăm năm ,một nhân vật Cộng Đồng ( người viết xin phép không nêu tên ) khi viết về Người H.O đã có nhận xét: " Người H.O khi sang dịnh cư tại Hoa Kỳ đa số già yếu bệnh hoạn, không giúp ích gì được cho xã hội Hoa Kỳ .....".
     Nhận xét nầy quả thât không sai. ít ra trong thời điểm những năm đâù khi vừa mới định cư. Ngừơi H.O sau bao nhiêu năm sống trong đọa đày tủi nhục, cả tinh thần lẩn vật chất bị hao mòn, đói không đủ ăn, đau không đủ thuốc, chết không có hòm chôn, chỉ quấn bằng chiếc chiếu củ hoặc chiếc mền củ, không có cả tấm bia, ngôi mộ. Sự thiếu thốn vật chất hoà với nổi đau tinh thần từng ngày hủy hoại thân xác, biến Người H.O thành những thể xác bệnh tật, còm cỏi da bọc xương.

     Hai mươi lăm năm sau, nhận xét nâỳ đã hoàn toàn trái ngựơc, nếu không muốn nói là hoàn toàn sai. Ngừơi H.O đã hảnh diện ngẩng măt lên với quê hương thứ hai, với cộng đồng hải ngoại. Hảnh diện với những thành quả đạt đươc không thua kém bất cứ ai may mắn đi định cư trước. Sự thành công không những của thế hệ một rửơi, thế hệ thứ hai mà chính ngay thế hệ thứ nhứt. 

     Người H.O thế hệ thứ nhứt dù phảỉ trải qua nhiều khó khăn về sức khoẻ, tuổi tác, ngôn ngử, nhưng vẩn kiên trì vượt qua, đạt được nhiều thành quả đáng kể trong nhiều lảnh vực. Có không ít Bác sĩ, Kỷ sư, Giáo sư, Tiến sĩ ,Nhà Phát Minh,Chủ Nhà Hàng, Chủ Nhân Trung Tâm Sửa chửa Xe, Chủ Nhân Các Cơ Sở Kinh Doanh Bất Động Sản là những "Người H.O" định cư rải rác trên khắp các tiểu bang Hoa Kỳ. Họ không chối bỏ và vẩn luôn hảnh diện với danh xưng H.O nầy.

    Bước đầu cuộc sống mới trên quê hương thứ hai, Người H.O thường làm nhiều nghề nghiệp chân tay  thấp kém trong xã hội như chạy bàn trong các nhà hàng Việt Nam, cắt cỏ, cắt chỉ , phụ bếp, lau chùi cầu tiêu, bỏ báo, giử trẻ, rửa xe, làm công trong các nông trại,  .....và rất nhiêu công viêc cưc nhọc khác . Người H.O vẩn âm thầm bước đi, kiên trì chịu đựng ,vượt qua mọi khó khăn trở ngại bằng ý chí và sự cần cù, tự vươn lên bằng số vốn kiến thức và kinh nghiệm có được trong cuộc chiến đau thương, dai dẳng  trên quê hương.
     Hoa Kỳ là vùng đất cơ hội cho tất cả những ai có ý chí vươn lên, tạo điều kiện cho cuộc  sống ngày một thăng tiến. Người H.O đã không bỏ lở cơ hội thăng tiến cho chính bản thân và gia đình.    

Bên cạnh đó, Người H.O luôn quan tâm giáo dục cho thế hệ con cháu giá trị của thành quả học vấn và sự hội nhập. Kết quả là hiên nay không ít con em của H.O hiên ngang bước vào dòng chính trong mọi lảnh vực trên quê hương thứ hai. Xuất sắc trong những vai trò lảnh đạo, dân cử, trong các lảnh vực chuyên môn, xoá bỏ mọi thành kiến của người bản xứ đối với những người từng mang căn cước tỵ nạn , như lời Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu trong khi nhận lảnh phần thưởng cao quý nhất cho những người đã cống hiến thành tựu cho xã hội " ....Chúng ta đã trả hết món nợ đối với quốc gia đã cưu mang chúng ta, kể cả lời...."

    25 năm trôi qua  nhiều ngừơi vẩn còn thắc măc về hai chử H.O, mặc dù qua sách vở báo chí nhiều học giả  đã giải thích xem ra khá hợp tình hợp lý: H.O là hai chử đầu của Humanitarian Operation, hoăc Humanitarian Organization tức là những ngừơi đựơc định cư taị Hoa Kỳ trong Chương Trình Nhân Đạo.

    Gần đây nhất có một khán giả cuả Chương Trình SBTN Morning gửi thư cho hai nhà bình luận tin tức Đỗ Dủng và Mai Phi Long xác nhận trong khi làm hồ sơ định cư ông ta đựơc một viên chức trong sở Ngoại Vụ tại Sài Gòn cho biết chử H là chử đầu của "Học Tâp Cải Tạo" và O là số đệm đầu cuả các số lẻ từ số 1 đến số 9,  như  H.O1, H.O2 ...... Đến số  10  thì không gọi là H.O10, H.O11..... mà chỉ gọi H.10,H 11, H12.......Đây cũng chỉ là một trong nhiều giả thuyết, ngừơi viết xin dành quyền phán đoán cho quý độc giả.

     Con đừơng đi của người  Cựu Tù từ các trại "Tâp Trung Cải Tạo" cho đến khi đặt chân lên quê hương thư hai là con đường cam go đầy máu và nước mắt. Nhiều ngừơi kiệt lực, gục ngã, trút hơi thở cuối cùng, lòng còn mang nặng nổi ưu tư nghiệt ngã cho thân phân đọa đày của ngừơi tù không bản án.

       H.O chính là liều thuốc bổ, liều thuốc hồi sinh cho Ngừơi Tù trong các trại "Tâp Trung Cải Tạo" . H.O còn là niềm hi vọng vươn lên cho những thân phận đọa đày, giúp tăng thêm sức chịu đựng. Vựơt qua những đau thương, tủi nhục triền miên mà Ngừơi Tù phải đối diện từng ngày,từng giờ.

   Ngày còn trong Trại "Tập Trung Cải Tạo",qua tin tức của người thân và gia đình chuyển vào trong những giây phút thăm nuôi ngắn ngủi , người "Tù Cải Tạo" đã biết đựơc tin những cưụ quân,cán chính Việt Nam Cộng Hoà đang  bị"Tập Trung Cải Tạo" sẽ có một ngày được sang định cư taị Hoa Kỳ. Từ bản tin ngắn ngủi nầy,một số ngừơi giàu tửơng tượng thêu dệt thêm nhiều câu chuyện lý thú nhằm bổ xung cho niềm hi vọng vươn lên từng ngày từng giờ:

    Nào là phái đoàn Mỹ sẽ vào từng traị "Tâp Trung Cải Tạo" lập danh sách Tù Nhân rồi đưa thẳng ra phi trừơng sang Mỹ.Vợ con và gia đình sẽ đựơc Mỹ  rước đi sau.
    Nào là các "Tù Nhân Cải Tạo" sẽ được tập trung vào một khu "kinh tế mới" riêng biệt, phái đòan Mỹ sẽ đến phỏng vấn rồi lần lượt bốc sang Hoa Kỳ. Khi sang Hoa Kỳ Chính Phủ sẽ trả tiền truy lảnh từ ngày 30 tháng  4 năm 1975  lại còn  chu cấp nhà cửa khang trang , xe cộ đời mới bóng loáng, thậm chí sẽ còn tặng cho mổi gia đình  $30.000  đôla tiền mặt như một sự đền bù cho những tháng năm nghiệt ngã trong lao tù .

   Đại loại những tin như vậy được chuyền miệng nhau hàng ngày từ những "Tù Nhân" được gia đình thăm nuôi. Và để gia tăng niềm tin, các đương sự quả quyết là chính gia đình họ đã nghe lén tin tức qua các đài BBC,VOA cũng như một số các đài truyền thanh khác...

    Hư thực ra sao chưa biết nhưng những tin đồn đải hàng ngày đã làm nức lòng người "Tù Nhân Cải Tao", như một liều thuốc bổ cực mạnh, thấm sâu vào huyết quản của những thân xác còm cỏi. Tạo nên một sức mạnh tinh thần, một niềm hi vọng để có sức chống chỏi với những tháng năm mờ mịt cuả thân phận "Người Tù Không Bản Án". Nhiều ngừơi gần như đặt niềm tin tuyệt đối luôn chuẩn bị trong tư thế sẳn sàng " đề phòng" Mỹ bốc đi thình lình, lại còn căn dặn vợ con về nhà phải luôn sẳn sàng mọi thứ để Mỹ đến rước đi.

   Đôi lúc có tin tức Mỹ sẽ rước đi trong tuần tới hoăc trong tháng tới, mọi việc thương lượng đã xong . Mổi người "Tù Cải Tạo" ra đi Chánh Phủ Hoa Kỳ trả cho Chính phủ Cộng Sản ...một chiếc máy cày. Đến Mỹ sẽ được phái đoàn ra tiếp đón trang trọng như tiếp đón các vị anh hùng trở về từ vùng đất chết. Môt ngôi "làng" khang trang với nhiều ngôi nhà cất chung  cùng một khuôn mẩu đang sẳn sàng chờ đón anh hùng của Việt Nam Cộng Hoà  và gia đình sang ở.

    Thế rồi tuần tới qua đi. Tháng tới cũng âm thầm nhanh chóng trôi qua, chẳng  thấy có ai đến rước. Niềm hi vọng vươn lên thật cao để rồi xẹp xuống giống như quả bóng xì hơi. Những gương mặt buồn thiu tiếp tục ngày ngày tay xẻng, tay cuốc, lon gô , aó quần vá víu chằn đụp cùng với những bửa cơm độn khoai, bắp "đạm bạc" không đủ no sau những giờ lao đông khổ nhọc trên những cánh đồng khô cằn sỏi đá.

     Nguồn hi vọng bổng chốc trở thành hiện thực làm nức lòng người Cưụ Tù . Đầu năm 1990 Những Người H.O đầu tiên lần lượt bước lên phi cơ sang định cư tại Hoa Kỳ .Tôi và gia đinh được may mắn ra đi trong đơt đầu tiên nầy, H.O1. Bước lên phi cơ lòng bồi hồi ,buồn vui lẩn lộn.
     Buồn vì phải xa quê hương nơi ghi dấu nhiều kỷ niệm cuả thời ấu thơ, cùng với những  thăng trầm cuả một thời chiến trận . Ngồi trên phi cơ bay sang Thái Lan tôi cứ ngở như đang trong giấc mơ. Nhiều lúc tôi cố định thần xem thực hay mơ.Khi phi cơ đáp xuống phi trừơng Bangkok Thái Lan nhìn quang cảnh phi trường nhộn nhịp, xe cộ nối đuôi ,tiếng động cơ phản lực gầm rú trên không trung ,tôi bắt đầu nhận rỏ là thật chứ không là mơ. Tức giấc mơ từ bao nhiêu năm qua đã trở thành hiện thực.

     Vui vì những tháng năm nghiệt ngã qua rồi, đã lùi về dĩ vãng cùng với những đau thương tủi nhục của kẻ bất đắc dỉ phải thua trận.Vui vì những tia sáng lấp lánh ở cuối đường hầm báo hiệu cho một tương lai sáng sủa đang dành cho chính cá nhân và gia đình. Những bước chân ngỡ ngàng, xa lạ trên quê hương thứ hai nhanh chóng luì vaò quá khứ, nhường chổ cho những ánh mắt đầy tự tin  qua những sự lo lắng thật chu đáo của chính phủ Hoa Kỳ và người bản xứ .
    Xin dành hai chử "Tri Ân" sâu sắc cho Chính Phủ Hoa Kỳ và tất cả những ai đã nhân danh lòng nhân đạo cưu mang cho những người vì vận nước phải sa cơ lở vận.

   Nói đến H.O mà không nhắc đến một vị ân nhân, một người đàn bà có tâm hồn vỉ đại. bao nhiêu năm âm thầm, đơn độc đấu tranh cho Người Cựu Tù được sang định cư tại Hoa Kỳ là một điều thiếu sót. Ngừơi đàn bà có tâm hồn vĩ đại đó chính là bà Khúc Minh Thơ.Tôi có hân hạnh được găp và tiếp xúc với bà Khúc Minh Thơ lần đầu tiên trong một dịp bà từ Virginia về Hungtington Beach Nam California chịu tang ông ngoại chồng, bác sĩ Nguyễn Văn Ngọc nguyên Giám Đốc Bệnh viên Đa Khoa tỉnh Phong Dinh . Bác sĩ Ngọc cũng chinh là người anh họ của tôi. Gia đình bên chồng của bà Khúc Minh Thơ quê quán Bình Dương, là gia đình khoa bảng .
    Bà Khúc Minh Thơ với dáng người phúc hậu, giọng nói nhỏ nhẹ cởi mở đã bày tỏ sự cảm thông với nổi bất hạnh của những người đã và đang trải qua những năm tháng đoạ đày tủi nhục trong các "Trại Tù Cải Tạo" Cảm thông với gánh nặng  quằng trên đôi vai của những người thiếu phụ trẻ thay chồng nuôi nấng đàn con nheo nhóc. bên cạnh muôn vàn khó khăn cuả một xã hội đầy nhiểu nhương,bất công và vị kỷ.

   Chính Bà Khúc Minh Thơ đã mang nổi bất hạnh trở thành goá phụ khi tuổi đời vừa tròn 23.
   Bà Khúc Minh Thơ sinh năm 1939 taị Sađéc miền Tây Việt Nam, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp . Trước ngày 30 tháng 4  1975  Bà Khúc Minh Thơ đang phuc vụ trong Toà Đại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại thủ đô Manila, Philippine.
     Phu quân bà Khúc Minh Thơ, Đại Úy Hiến Binh Nguyễn Đình Phúc quê Bình Dương, khoá 1 Thủ Đức  hi sinh vì tổ quốc trong một chuyến công tác taị tỉnh Vỉnh Long miền Tây. Tin như sét đánh bên tai, Bà Khúc Minh Thơ, tuổi đời còn rất trẻ, tay dắt hai con thơ, bụng đang mang bào thai đứa con thứ ba được  năm tháng đi nhận xác chồng.
    Còn nổi đau nào hơn. Bà Khúc Minh Thơ khóc lóc vật vã trước xác chồng, ôm choàng lấy xác, máu tươi từ trong miệng, mủi của Đại Úy Nguyễn Đình Phúc bổng trào ra như xót thương cho người vợ trẻ bổng chốc trở thành góa phụ, xót thương cho các con ngây thơ sớm chịu cảnh mồ côi .

     Sau khi đất nước thay ngôi đổi chủ, bà Khúc Minh Thơ tiếp tục lưu laị Phi Luật Tân hai năm. Tại đây bà thường liên lạc với  nử tu Pascal Lê Thị Tríu giúp đở thuyền nhân Việt Nam vượt biển đến Phi. Nhờ vậy bà biết được nhiều tin tức về tù nhân trong các "Trại Cải Tạo"tại Việt Nam, cùng với cảnh đọa đầy tủi nhục mà các cưụ quân cán chánh Việt Nam Cộng Hoà đang phải gánh chịu .
     Năm 1977 Bà Khúc Minh Thơ xin tỵ nạn taị Hoa Kỳ, định cư tại thành phố Arlington, tiểu bang Virginia.  Hình ảnh các Tù Nhân cưụ quân cán chánh Việt Nam Cộng Hoà bị đọa đày trong các Traị Tù Cải Tạo luôn ẩn hiện trong tâm trí, thôi thúc bà phải làm một việc gì giúp đở cho các tù nhân trong  các "Trại Caỉ Tạo " và gia đình. Cơ may lại đến, bà gặp lại một người bạn củ,bà Hiệp. Bà Hiệp có chồng Mỹ, ông Shef Lawman một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam nhiều năm cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến. Ông thường xuyên theo dỏi và biết rất rỏ tình hình chính trị Viêt Nam. Không bỏ lở cơ hội, bà Khúc Minh Thơ trinh bày ước nguyện với Ông Shef Lawman . Ông Lawman bày tỏ sự ủng hộ, thế là từ đó Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam được hình thành. Hội được chính thức thành lập vào năm  1977  bà Khúc Minh Thơ là Chủ Tịch sáng lập, hội viên đa số là vợ, con của các tù nhân.

    Những năm đầu Hội hoạt động âm thầm, không nhận được bất cứ một sự tài trợ nào,chi phí họat động do hội tự túc. Đến năm 1982 tổng thống Ronald Reagan đắc cử tổng thống . Ngay trong năm đầu tiên cuả nhiệm kỳ thứ nhứt tổng thống Reagan đã nghỉ ngay đến việc phục hồi danh dự cho cưụ chiến binh Việt Nam , giải quyết các chiến binh Mỹ còn đang bị giam cầm (POW), đồng thời các chiến binh còn mất tích trong chiến tranh (MIA).

    Tổng Thống Ronald Reagan bổ nhiệm ông Robert Funseth, một chuyên gia ngoại giao lảo luyện làm Phụ Tá Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách tỵ nạn và tù nhân Việt Nam. Từ đó Ông Robert Funseth luôn sát cánh giúp đở cho Bà Khúc Minh Thơ và Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị. Mặc dù trải qua bao khó khăn, gian khổ có lúc gần như tuyệt vọng Ông Robert Funseth vẩn luôn tận tình giúp đở , an ủi bà Khúc Minh Thơ. Có lúc thấy bà Thơ xuống tinh thần quá, ông Robert Funseth  bắt bà phải hứa là không được bỏ cuộc, và bà đã hứa quyết tâm đi cho đến cùng.

    Sau gần 10  năm với biết bao gian lao, khổ nhọc, thăng trầm của Ông Robert Funseth, bà Khúc Minh Thơ và một số viên chức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ,  đầu năm 1990  Người H.O đầu tiên đã lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ và tiếp nối hơn 300.000  ( Ba trăm ngàn) cưụ tù nhân cùng gia đình lần lượt rời Việt Nam đi định cư.
     Xin có lời tri ân Ông Robert Funseth, Bà Khúc Minh Thơ và tất cả những ai đã đóng góp một bàn tay cho cuộc đổi đời cuả Cưụ tù nhân và gia đình trên quê hương thứ hai.

     Hai mươi lăm năm H.O quả thật là một cuộc đổi đời. Người H.O già yếu bênh hoạn của hai mươi lăm năm về trước đã thay hình đổi dạng. Lấy lại phong độ cuả một thời chiến trận xa xưa mang kinh nghiệm đau thương tủi nhục của những tháng năm đọa đày trong các "Trại Tù Cải Tạo" hun đúc ý chí cho đàn con cháu thế hệ một rưởi và thế hệ thứ hai. Tạo cho con cháu biết sống ,biết trân quý giá trị cuả hai chử Tự Do.
     Mặc dù đã ổn định cuộc sống và gia đình nơi quê hương thứ hai ,Người H.O vẩn không quên những chiến hữu đã cống hiến một phần thân thể cho quê hương, đang kéo lê cuộc sống tàn phế bên lề xã hội.

    Hội H.O Cứu Trợ Thương Phế Binh  và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hoà  chính là một điểm son từ gần hai mươi năm qua. H.O cưụ Trung Tá không quân Hạnh Nhơn ,H.O 1 , chủ tịch Hội mặc dù tuổi đời chồng chất vẩn không quản ngại gian khổ mang niềm vui đến cho các Thương Phế Binh tại quê nhà. Những phần quà tuy rất khiêm nhường nhưng đã mang laị niềm vui lớn lao cho các chiến hữu, làm ấm lòng chiến hưũ và gia đình không may trong chiến trận.
    Bên cạnh H.O Hạnh Nhơn là khuôn mặt quen thuộc cuả cưụ nử Thiếu Tá Cảnh Sát Nguyễn Thanh Thủy  H.O 12, Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga Tổng Nha Cảnh Sát VNCH. Mặc dù sức khoẻ yếu kém do ảnh hưởng của hơn  13 (mười ba ) năm trong các traị "Tù Cải Tạo" với nhiều năm biệt giam, H.O Thanh Thuỷ vẩn luôn hăng hái sát cánh với Hội , luôn tận tụy với công việc giúp Hội đạt được nhiều thành quả đáng kể. Ngoài ra còn rất đông cưu Nử Quân Nhân VNCH đã góp phần cho việc điều hành Hội trong nhiều năm qua. Cưụ nử quân nhân trung úy Nguyễn Hoàng H.O 4 ,  cựu đại úy Nguyễn Phán  H.O6  cũng là những nhân tố tích cực của Hội, luôn sát cánh với H.O Hạnh Nhơn và H.O Thiên Nga Thanh Thủy .
    Một bông Hồng tươi thắm nhất xin được trao tặng cho tất cả những ai đã đóng góp cho Hội H.O Cứu Trợ Thương Phế Binh Quả Phụ Việt Nam Cộng Hoà , xoa dịu phần nào vết thương của các chiến hữu không may mắn.
     
       Hai mươi lăm năm trôi qua. Một cuộc đổi đời kỳ diệu vô tiền khoáng hậu. Người H.O hảnh diện ngẩng cao mặt bước đi. Những thành quả mang laị cho gia đình, cho xã hội góp phần cho sự phồn vinh của quê hương thứ hai là minh chứng hùng hồn cho ý chí vươn lên của những con người trưởng thành trong khói lửa chiến tranh cùng những năm tháng đoạ đày khổ nhục trong các "Trại Tù Cải Tạo"
       Xin tri  ân tất cả những ai đã đóng góp một bàn tay cho cuộc đổi đời .
       Đặc biệt xin tri ân cố Tổng Thống Ronald Reagan, Phụ Tá Thứ Trửơng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Ông Robert Funseth, ông bà Shef Lawman và Bà Khúc Minh Thơ./.

                                                                Nguyễn Hữu Của
                                                                           H.O 1
                   (Nguyên Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại / Tây Nam Hoa Kỳ


__._,_.___

Posted by: Xuan Nguyen

Monday, September 7, 2015

VIẾT CHO NGÀY 01 THÁNG 11: MUÔN ĐỜI THÀNH KÍNH TRI ÂN Tổng Thống Ngô Đình Diệm


VIẾT CHO NGÀY 01 THÁNG 11: MUÔN ĐỜI THÀNH KÍNH TRI ÂN

 

Nguyễn Thu Trâm 8406 - Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
 Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975. 

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này. 
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. 

Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.



Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí.

 Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do này. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.


Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. 

Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư". Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

 Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.




























Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam".  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.
Những tướng tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  

Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… 

Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... 

Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ. 

Tôi viết lên bài tâm bút này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ với tấm lòng thành kính tri ân muôn đời muôn kiếp của con dân đất Việt.

__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?B?QuG6rkMgS+G7siBC4bquQyBD4buk?= 

Ai đã bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?



Ai đã bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?

Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một
hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ làm việc cho CIA Sài Gòn.

Ngẫm hay muôn sự tại Trời

Nguyễn Du

Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. 

Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.

Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?

Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.

Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).
Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
– Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
– Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
– Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.

Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN

Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).
Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.

Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.

Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.

Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN

Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.

Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.

Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.

Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.

Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.
Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?

Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?

Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV.

 Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.
Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?

Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?
Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan
Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.

Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.

Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

Ai bắn nát chân tướng Loan?

Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:
– Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
– Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
– Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
– Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.
Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?
2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura.

Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette (8). Chi tiết được biết thêm:
Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.

Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.
Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.
Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?
Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.
Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.
Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.
Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).

Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.

Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.

Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.

Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?

Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.

Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…

Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.

Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du

Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams:
“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.

“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”

“Thiếu tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”
Chu Việt
Tháng 5, 2012




__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List