---------- Forwarded message ---------
From: Cuong Nguyen <
Date: Wed, Sep 25, 2019 at 11:08 AM
Subject: 💔 ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN
From: Cuong Nguyen <
Date: Wed, Sep 25, 2019 at 11:08 AM
Subject: 💔 ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN
💔 ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY
TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN.
Anh cũng
như
bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền
Nam. Sau 75, đều
bị
tập
trung cải
tạo.
Những
tháng đầu
anh được vợ
gửi
cho một
hai lần
đồ
ăn, sau đó thì biệt
tăm. Anh được phép viết thư
về
cho gia đình nhiều
lần.
Nhưng
không thấy
vợ
trả
lời.
Như
thế
kể
như
anh bị
vợ
bỏ.
Sống
trong trại
cải
tạo
mà không có người thăm nuôi, không được tiếp
tế
đồ
ăn, người đó kể
như
chết.
Anh biết
mình nằm
trong số
người bất
hạnh
đó. Nên anh phải
tự
lực
cánh sinh. Nói chơi
cho vui vậy
chứ
tự
lực
gì nổi.
Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức
ăn dành dụm
từng
chút. Ra ngoài lao động, con mắt của
họ dáo
dác tìm bất
cứ
thứ
gì có thể
bỏ
vào bụng
cho đở
đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ
côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo
tìm kiếm
đào bới
như
nhau. Ai tìm được nấy
ăn.
Chuyển
ra ngoài Bắc
anh lại
càng tơi
tả
hơn.
Không quen với cái lạnh thấu
xương, bụng
thì đói meo. Trông anh như một
ông cụ
già hom hem. Công việc nặng
nhọc
làm cho anh còm lưng.
Ngày trở
về
thì không thấy
hy vọng.
Anh cứ
nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc
nầy
mãi, thì thế
nào cũng bỏ
xương tại
cái xứ đèo
heo hút gió nầy.
Trốn
trại
thì không can đảm.
Mà cũng chẳng
biết
trốn
đi đâu, giữa
núi rừng
trùng trùng điệp
điệp.
Đành phải
bó tay chịu
trận.
Bỗng
nhiên một
hôm anh nhận
được gói đồ ăn gửi
bằng
đường bưu
điện.
Anh nghĩ chắc
vợ
anh gửi
cho. Nhưng
khi cầm
gói quà trên tay nhìn tên người gửi
lạ
hoắc,
anh phân vân, đắn
đo. Chắc
chắn
đây là một
sự
nhầm
lẫn.
Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại
cho cán bộ,
khi mà sự
thèm khát đã lên tới
tột
đỉnh.
Mà chắc
gì gói quà được trả
về
cho khổ
chủ
của
nó! Cán bộ
trại
đời
sống
cũng chẳng
hơn
tù bao nhiêu, thế
nào họ
cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy.
Anh về
trại.
Bạn
bè tới
chúc mừng
anh. Như
vậy,
kể
từ
nay anh thuộc
thành phần
có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở
ra kiểm
soát, cột
lại
sơ
sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận
quà về
đến
chỗ
nằm
của
mình, đều
bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến.
Lúc đầu
cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
" Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng
anh đã chết.
Em và các con lập
bàn thờ
mấy
năm nay. Không ngờ,
cách đây mấy
hôm, vô tình đến
thăm một
người bạn,
có người anh được thả
ra từ
trại
cải
tạo
Miền
Bắc.
Em hỏi
thăm là có bao giờ
anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu
trong trại
của
anh không? Anh đó trả lời
là có một
người cùng đội sản
xuất
với
anh mang tên ấy,
trước là đại
úy thuộc
Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng
để
vi phạm
nội
quy, ráng học
tập
tốt,
sẽ
được nhà nước khoan hồng để
sớm
về đoàn
tụ
với
gia đình. Có dịp
được trại
cho phép viết
thư,
anh viết
thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư
nầy
không viết
dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe
mạnh.
Vợ
anh
Lê Thị
Hồng"
Anh không dám đọc lại
lần
thứ
hai. Một
sự
trùng hợp
lạ
ky, anh và ông Hữu
kia cùng thuộc
Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh,
không thấy
chữ
mất
tích từ
đầu
lá thư.
Anh nhìn gói đồ
ăn mà lòng trĩu nặng.
Một
bên vợ
người ta, chồng mất
tích bao năm mà vẫn
chờ
đợi.
Còn mình sống
sờ
sờ
vợ
chẳng
thèm ngó ngàng tới.
Đọc
thư
xong, anh bỏ
thư
lại
trong gói đồ
rồi
cột
lại
như
cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số
bạn
cùng cảnh
ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon
miệng
nhưng
khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy
ngày đầu
anh mang tâm trạng
nầy,
nhưng
dần
dần
về
sau nguôi ngoai. Hình như sự
phạm
tội
thường xuyên, ít bị lương tâm cắn
rứt
hơn
là phạm
tội
một
đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại
cho phép viết
thư
về
gia đình. Đây là một
điều
khó khăn cho anh. Gửi thư
cho vợ
hay gửi
cho chị
Lê Thị
Hồng?
Gửi
cho vợ
thì bao nhiêu cái vẫn biệt
vô âm tín, còn gửi
cho chị
Lê Thị
Hồng,
thì biết
nói sao cho chị
hiểu
là anh không phải
là chồng
chị
ta. Nếu
thư
không bị
kiểm
duyệt
thì chuyện
nầy
dễ
nói. Còn thư
tù như
anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải.
Biết
đâu khi cán bộ
kiểm
duyệt
phát giác chuyện
nầy
sẽ
tống
cổ
anh vô cùm. Cái tội
mạo
nhận
ẩu
để
lãnh đồ
thăm nuôi. Một
lần
cũng là mang tội,
mà cái tội
nầy
bạn
bè biết
được thì khinh khi lắm. Nhưng
mọi
chuyện
đã lỡ
rồi,
đành phải
theo lao vậy.
Anh đánh liều
viết
theo cái kiểu
người chồng
viết
cho vợ.
"Hồng em,
Cám ơn
em rất
nhiều
về
gói quà vừa
rồi
em gửi
cho. Em đừng
lo gì cho anh nữa,
ở
đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ,
ăn uống
không thiếu.
Em yên tâm để
dành lo cho các con. Em ở nhà cố
gắng
dạy
dỗ
các con nên người, cố
gắng
chấp
hành chính sách và pháp luật của
nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng
lầm
lẫn
đi theo con đường cũ nữa, phải
sống
hòa đồng
với
nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc
lại
cho em rõ, đừng
gửi
quà cho anh nữa.
Ở
đây anh ăn uống
rất
đầy
đủ,
hãy dành dụm
cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu
chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng
em
Nguyễn
Hữu"
Anh nhắc
lại
hai lần
chữ
"lầm
lẫn",
để
chị
Hồng
biết
đoán ra mọi
sự,
không dám viết
đi viết
lại
nhiều
lần,
sợ
cán bộ
trại
nghi ngờ.
Hai ngày sau, văn phòng trại gọi
anh lên làm việc.
Anh điếng
hồn,
không biết
chuyện
gì xẩy
ra. Có lẽ
vì mấy
chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản
giáo, đầy
lo âu và không biết
chuyện
lành dữ ra
sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của
anh viết
cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh lắc
đầu:
"Nhiều
năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn
nữa
gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt.
Lo thêm cho tôi, kiệt sức
mất.
"
"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực
khổ.
Mới
có vài năm đã thấy
thèm khát đủ
thứ.
Chúng tôi mấy
chục
năm đánh giặc.
Ăn uống
kham khổ.
Không hề
hé răng."
Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ
đấy
chứ.
Chúng tôi cũng muốn
cho các anh về
với
gia đình. Nghẹt
vì các anh chưa
thông suốt
chính sách cách mạng,
nên chúng tôi phải
tạm
giữ
thêm một
thời
gian nữa."
Anh ấp
úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng
nói: " Thay mặt
Quản
Giáo trại,
tôi biểu
dương tinh thần ý thức
của
anh. Thư
anh gửi
có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy
thằng
làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa
cho về
sớm.
Nên chúng nó ra sức
kiếm
điểm,
mà có thấy
thằng
nào được về
trước đâu. Anh cười thầm
trong bụng
với
cái chiêu dụ
nầy.
Người cán bộ tiễn
anh ra cửa
và bắt
tay thân thiện.
Anh hú hồn,
thoát được sự căng
thẳng.
Anh về
chỗ
nằm.
Mấy
người bạn
tới
hỏi
thăm tin tức
về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày nầy
qua tháng khác, anh vẫn lao động đều
đặn.
Anh vẫn
yên tâm là mình trở
lại
với
vị
trí mồ
côi muôn thuở.
Anh không còn hy vọng
có ai đó ngó ngàng tới để
gửi
cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ
an cho cái dạ
dày. Vì thế
nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ
được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận
quà thăm nuôi bằng
bưu
điện
lại
có tên anh. Lại
thêm một
lần
ngạc
nhiên. Lần
trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư
vì biết
thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.
Thư
viết
cũng thắm
thiết
như
lần
trước, không hề đá động
gì sự
lầm
lẫn
mà anh đã nhấn
mạnh.
Nét chữ
cứng
cỏi
thể
hiện
người viết
có học
thức,
thế mà
tại
sao không biết
mọi
sự
lầm
lẫn
đó. Trong thư
nầy
chị
Hồng
lại
hiểu
sai vấn
đề,
nghĩ rằng
vì mấy
năm không nhận
quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi.
Biết
làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự
sự.
Mặc
kệ,
cứ
thản
nhiên mọi
chuyện,
cứ
ăn cho sướng. Phó mặc mọi
chuyện
cho trời
đất.
Anh đổ
ra cáu kỉnh
và lì lợm.
Hình như anh
muốn
tạo
ra tình huống
nầy,
để
dễ
dàng nuốt
trôi mấy
miếng
thực
phẩm
thăm nuôi, mà không thẹn với
lương tâm.
Mỗi
lần
sực
nhớ
lại
chuyện
quà cáp, anh vội
vàng xua đuổi
ngay. Nhủ
với
lòng mình như
vậy,
nhưng
dễ
gì quên được điều
đó. Mỗi
đêm, khi cơn
đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị
Hồng
lại
hiện
lên. Đẹp
hay xấu
lúc nầy
đối
với
anh chẳng
cần
thiết,
nhưng
tấm
lòng thương chồng
của
chị
đã làm cho anh cảm
phục.
Thực
sự,
anh thương hại
cho hoàn cảnh
côi cút của
chị
và mấy
đứa
con. Sống
giữa
sự
khó khăn chung của
xã hội,
nuôi mấy
miệng
ăn cũng thấy
khó lắm
rồi,
đừng
nghĩ gì xa xôi hơn
như
chuyện
thăm nuôi chồng.
Tệ
hại
hơn
nữa,
đây không phải
là chồng
của
mình.
Mọi
chuyện
vẫn
bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải
tạo.
Anh vẫn
sinh hoạt
chung với
các anh em. Bỗng
nhiên một
ngày, sau khi đi lao động về,
anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng
đến
thăm. Lần
nầy
thì anh bối
rối
thật
sự.
Anh biết
sự
gặp
nhau nầy
rất
bẽ
bàng và ngượng ngập.
Mọi
sự
thật
sẽ
làm cho chị
Hồng
đau khổ
biết
mấy.
Với
anh thì không sao, anh đã biết trước mọi
chuyện,
anh đã chuẩn
bị
tinh thần.
Dù gì thì anh cũng phải trả
lại
sự
thật
nầy.
Anh không muốn
nó cứ
mãi kéo dài, cứ
mãi gây cho anh cảm
giác phạm
tội.
Anh cố
gắng
diễn
tả
cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để
chị
tha thứ.
Anh sợ
một
vài tháng bị
cùm, sợ
mất
mấy
miếng
ăn, mà phải
để
lại
sự
hiểu
lầm
trầm
trọng.
Để
chị
phải
lặn
lội
khó nhọc,
leo đèo vượt suối,
từ
Sài Gòn ra tận
nơi
đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ
trách dẫn
anh ra khu trại
thăm nuôi. Từ
xa anh nhìn thấy
người đàn bà đang ngồi nơi
bàn chờ
đợi.
Tự
nhiên anh hồi
hộp.
Tự
nhiên chân anh bước cảm
thấy
nặng
nề.
Rồi
anh cũng bước tới
chỗ
chị
ngồi.
Tim anh muốn
vọt
ra khỏi
lồng
ngực.
Anh e thẹn
như
con gái. Thấy
xấu
hổ
và hối
hận.
Chị
Hồng
nhìn anh rồi
bật
khóc. Chị
khóc nức
nở.
Mặt
cúi xuống
bàn. Tiếng
khóc ấm
ức
như đang
gặp
sự
bất
trắc.
Anh ngồi
vào vị
trí đối
diện.
Nước mắt
anh cũng chảy
dài. Anh không nói được với
chị
câu gì. Những
gì anh đã chuẩn
bị
bay đi đâu cả.
Người cán bộ ngồi
ở
đầu
bàn kiểm
soát thấy
hai người cứ
khóc mãi.. Có lẽ
anh ta nghĩ rằng
vì vợ
chồng
lâu ngày xa nhau, thương nhớ
chồng
chất
lâu ngày, để
họ
khóc cho đã nư.
Anh ta cũng chẳng
cần
để
ý tới
họ.
Anh ta vừa
đứng
dậy
đi ra cửa
sổ
khạc
nhổ,
anh chụp
ngay cơ
hội
nói với
chị:
"Xin lỗi...xin
lỗi
chị".
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ
báo cho biết
giờ
thăm nuôi chấm
dứt.
Chị
đưa
tay nắm
lấy
tay anh. Anh đưa
hai bàn tay ra ôm lấy
tay chị.
Tự
nhiên, không biết
tại
sao anh bật
khóc lớn.
Có lẽ
anh thấy
tủi
thân. Anh thấy
lòng thương hại
của
chị
dành cho anh, đây là lần cuối.
Làm sao anh đòi hỏi
gì hơn,
với
người đàn bà không phải là vợ mình.
Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn
lội
đường xa tìm chồng. Chị
lủi
thủi
trở
về
với
niềm
tuyệt
vọng.
Rồi
anh chị
chia tay. Anh gánh phần quà của chị
mang tới
cho anh, vào trại.
Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm
vi giam giữ,
thì các bạn
anh chạy
ra phụ
mang đồ
về phòng.
Anh đứng
lại
nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến
khi chị
ra khỏi
cổng
trại
khuất
dạng.
Anh lầm
lũi về
chỗ
nằm.
Đồ
đạc
còn để
lăn lóc dưới đất.
Anh chẳng
màng sắp
xếp.
Anh vẫn
chưa
kịp
định
thần
lại.
Những
giây phút thật
bất
ngờ
đến
với
anh nhanh quá. Suốt
trong nửa
giờ
gặp
nhau, anh chỉ
nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn
ra thật
xuất
sắc,
xuất
sắc
đến
nỗi
anh là người trong cuộc, vẫn
cảm
thấy
rất
tự
nhiên không ngượng ngịu.
Không sao hiểu
nổi
được lòng chị.
Ngồi
nhớ
lại
cảnh
gặp
gỡ,
khi chị
ngước mắt
lên nhìn anh. Khuôn mặt chị
thật
đẹp,
đôi mắt
thật
hiền
từ.
Anh nghĩ chị
cũng đã biết
trong mấy
lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện..
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị
lầm
lũi bước lên tàu trở về
Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ
còn một
mình chị
thức,
nhìn ra bên ngoài với sự
trống
vắng.
Chị
ôm một
nỗi
buồn
sâu lắng.
Đất
nước đang trải qua một cơn
sốt
kinh khủng,
đày đọa
biết
bao người lâm vào cảnh khốn
cùng. Chị
nghĩ sao về
anh? Chị
có còn giữ
liên lạc
với
anh không?... Dù sau nầy thế
nào, dù có giữ
liên lạc
hay cắt
đứt,
ơn
nầy
với
anh suốt
đời
không quên được. Anh hứa với
lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.
Phan Xuân Sinh
--
TRAN
NANG PHUNG
__._,_.___