Trần
Trung Đạo: “Bước đường dài đến tự do” của Nelson Mandela
28 Tháng 6 2013 lúc 16:53
Theo kết quả thăm dò của tổ chức tư vấn Reputation Institute được
công bố vào tháng Chính năm 2011, Nelson Mandela được chọn là lãnh tụ được yêu
mến nhất, kính trọng nhất, thán phục nhất và tin tưởng nhất thế giới. Tổng
thống Mỹ Barack Obama đứng hạng thứ 14, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đứng
hạng thứ 27, Thủ tướng Anh David Cameron đứng hạng thứ 34.
Nhân loại yêu chuộng tự do, dân chủ và hòa bình kính phục Nelson
Mandela không phải chỉ vì ông yêu nước, yêu tự do, can đảm ở tù suốt 27 năm dài
lao động khổ sai nhưng quan trọng hơn ông không dùng sự khổ đau chịu đựng của
riêng mình làm thước đo cho chiều dài tương lai của đất nước Nam Phi và không
đặt đôi gánh nặng quá khứ hận thù lên trên đôi vai của các thế hệ Nam Phi mai
sau. Thay vào đó, Nelson Mandela đã dùng đức tính bao dung, kiên nhẫn, khôn
ngoan, biết nhìn ra thấy rộng để vực dậy một đất nước bi phân hóa bởi màu da,
chủng tộc, xã hội giáo dục, kinh tế chính trị và cả văn hóa lịch sử kéo dài hơn
300 năm từ thời nô lệ, thuộc địa cho đến thời kỳ Nam Phi độc lập.
Con người cũng như đất nước, giá trị được thẩm định không phải ở
sự chịu đựng nhưng ở chỗ biết vượt qua. Một con người bình thường phải vượt qua
những hoàn cảnh khắc nghiệt để tiến thân, một dân tộc chỉ có thể đuổi kịp đà
tiến của nhân loại nếu dân tộc đó vượt qua được những bất hạnh của chính mình
và vận động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc.
Một câu nói nổi tiếng của Nelson Mandela về hòa giải “Hòa giải
thật sự không đơn giản chỉ là việc quên đi quá khứ”. Nelson Mandela được kính
trọng không phải vì ông quên đi quá khứ nhưng nhờ ông đã sống rất trọn vẹn
trong quá khứ, đã chiêm nghiệm và chuyển hóa những hào quang và chịu đựng,
thành công và thất bại, hy vọng và tuyệt vọng của quá khứ thành nhựa nguyên,
nhựa luyện cho những hàng cây xanh tốt tươi và hy vọng của tương lai Cộng Hòa
Nam Phi.
Hãy tưởng tượng, Nelson Mandela, người bị tù hơn 27 năm và đã có
thời gian chọn lựa phương pháp đấu tranh bằng võ lực, không chủ trương hòa giải
mà nhất định trả thù cho bằng được thiểu số da trắng một thời đã áp đặt những
chính sách bất công, phân biệt chủng tộc lên trên số phận của đa số người da
đen rồi nước Cộng hòa Nam Phi ngày nay liệu có thể là quốc gia ổn định và phát
triển hay không?
Chắc chắn là không.
Hãy tưởng tượng, công việc đầu tiên của tổng thống Nelson Mandela
không phải là việc thành lập Ủy Ban Hòa Giải và Sự Thật mà là lập một danh sách
mấy trăm ngàn viên chức chính quyền Nam Phi đã có liên hệ ít nhiều đến việc đàn
áp các phong trào chống phân biệt chủng tộc để rồi sau đó tống giam họ trong
các trại tù tận vùng núi rừng KwaZulu-Natal xa xôi hiểm trở, bắt thiểu số da
trắng phải giao nộp nhà cửa, tài sản, đày sang các vùng kinh tế mới ở miền
Northern Cape hoang vu để trả thù cho những cực hình đày đọa mà dân da đen đã
từng chịu đựng dưới ách phân biệt chủng tộc của chính quyền da trắng Nam Phi
thì liệu hòa giải dân tộc có thật sự đến cho quốc gia này hay không?
Chắc chắn là không.
Rất nhiều tác phẩm viết về Nelson Mandela và một số tác phẩm khác
trích từ các cuộc phỏng vấn ông, nhưng Bước đường dài đến tự do (Long walk to
freedom) là tác phẩm cho chính ông chấp bút từ những năm 1970 khi còn bị tù ở
đảo Robben, ngoài Cape Town, Nam Phi. Phần lớn các chi tiết trong bài viết này
cũng được trích dẫn từ hồi ký dày hơn sáu trăm trang Bước đường dài đến tự do
của Nelson Mandela.
Nelson Mandela ra đời ngày 18 tháng 7 năm 1918 tại Mvezo, một ngôi
làng nhỏ bên bờ sông Mbashe thuộc quận Umtata, thủ phủ của Transkei, một trong
những khu vực lớn nhất của Nam Phi. Ông được đặt tên là Rolihlahla. Theo ngôn
ngữ Xhosa, Rolihlahla có nghĩa “kéo một cành cây xuống” nhưng chính xác hơn có
nghĩa là “kẻ gây rối”. Cha của ông, Gadla Henry Mphakanyiswa, cai quản khu vực
Mvezo và cũng là một cố vấn của vua bộ lạc Thembu. Mandela kế thừa không những
cá tính mà cả vóc dáng cao và thẳng của cha ông ta. Cha của Mandela có bốn vợ,
và bà Nosekeni Fanny, mẹ của Mandela là vợ thứ ba. Theo cách gọi trong gia
đình, vợ thứ nhất được gọi là Vợ Cả, Vợ Phía Tay Phải (mẹ của Mandela), Vợ Phía
Tay Trái, và Vợ Chăm Sóc Gia Đình. Mandela là con lớn của mẹ ông nhưng lại là
con trai nhỏ nhất trong số bốn anh em cùng cha khác mẹ.
Khi còn nhỏ Mandela chịu phép rửa tội theo đạo Tin Lành phái
Methodist Church. Khi đi học, cô giáo Mdinggane thêm tên Nelson vào tên gia
đình đặt. Từ đó, ông được gọi là Nelson Rolihlahla Dalibhunga Mandela. Năm
Mandela lên 9 tuổi, cha ông qua đời vì bịnh phổi. Nelson Mandela được
Jongintaba Dalindyebo, người kế tục chức vụ của cha ông, nhận làm con nuôi. Sau
lễ cắt bao quy đầu vào năm ông 16 tuổi, Nelson Mandela được đưa vào trường
trung học nội trú Clarkebury.
Năm 1937 khi vào tuổi 19, Nelson Mandela theo học đại học
Healdtown, Fort Beaufort. Giống như Clarkebury, Healdtown là một trường đạo Tin
Lành thuộc phái Methodist Church và là trường đại học nội trú duy nhất dành cho
người da đen. Sinh viên da đen ưu tú từ khắp Nam Phi theo học tại đây. Một biến
cố tinh thần đã xảy ra cho Nelson Mandela vào năm cuối tại Healdtown là buổi
viếng thăm trường của nhà thơ lớn Krune Mqhayi, người dân tộc Xhosa. Lần đầu
tiên trong đời Nelson Mandela xúc động lắng nghe một nhà thơ lên tiếng phê bình
chính sách phân biệt chủng tộc của chính quyền da trắng một cách công khai với
sự hiện diện của viện trưởng và toàn ban giảng huấn trường, rất đông trong số
họ là da trắng.
Năm 1960, Nelson Mandela theo học tại đại học University College of
Fort Hare. Đây là trường đại học nội trú da đen lớn nhất ở Nam Phi. Mandela hy
vọng sẽ tốt nghiệp Cử Nhân tại trường này. Ông được bầu vào Hội Đồng Sinh Viên
và tức khắc trở thành một lãnh tụ sinh viên tranh đấu cho các quyền lợi sinh
viên. Trong một lần xung đột với ban lãnh đạo trường về tiêu chuẩn thực phẩm
dành cho sinh viên, Nelson Mandela từ chức khỏi hội đồng sinh viên. Viện trưởng
viện đại học tức giận trục xuất ông khỏi trường cho đến cuối niên khóa.
Mandela trở lại nhà nhưng chỉ để biết tin cha nuôi đang chuẩn bị
cưới vợ cho mình. Mandela không muốn và cùng người anh nuôi bỏ trốn sang
Johannesburg. Tại đây, Mandela tiếp tục học hàm thụ các lớp còn lại của hệ cử
nhân và chính thức tốt nghiệp tại Fort Hare vào năm 1942. Năm 1943, Nelson
Mandela theo học cử nhân luật tại trường đại học Witwatersrand với ý định trở
thành một luật sư.
Chàng thanh niên Nelson Mandela là một người đàn ông cứng rắn
nhưng cũng rất đa cảm. Mandela yêu nhiều người. Trong thời gian trú trại khu
Alexandra thuộc thành phố Johannesburg, Mandela gặp Ellen Nkabinde, cô bạn luôn
có nụ cười tươi, làm nghề dạy học mà Mandela quen biết khi cả hai còn ở
Healdtown. Họ yêu nhau. Khu Alexandra đông đúc và chật hẹp, cặp tình nhân đang
yêu không biết đi đâu ngoài việc ngồi ngắm những vì sao trên nền trời vào ban
đêm. Dù sao, Ellen mang đến cho Mandela tình yêu, sự ủng hộ, niềm tin và hy
vọng trong lúc anh ta đang lạc lõng giữa thành phố Alexandra còn xa lạ. Rất
tiếc chỉ vài tháng sau Ellen rời thành phố mang theo mối tình đầu của Mandela.
Sau khi Ellen đi, Mandela lại yêu một người con gái khác. Nàng tên
là Didi, xinh nhất trong năm người con gái của gia đình Xhosa mà Mandela đang
trọ. Cuộc tình rồi cũng không đi đến đâu vì Didi không thật sự để mắt xanh đến
anh chàng Mandela đa cảm đang trọ trong nhà mình. Nhưng lần thứ ba thì khác.
Trái tim Mandela hướng về phía người con gái trẻ đẹp đang theo học nghề y tá
tại Johannesburg tên là Evelyn Mase. Cha mẹ Evelyn chết sớm và cô sống với
người anh. Vài tháng sau khi yêu nhau, Mandela hỏi cưới. Evelyn là vợ đầu của
Nelson Mandela cho đến năm 1958.
Nelson Mandela bắt đầu tham gia các hoạt động của tổ chức Nghị Hội
Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC vào năm 1942 và
cuộc đời hoạt động của ông từ đó được chính trị hóa. Như ông ta giải thích
trong Bước đường dài đến tự do: “Thật
khó để xác định thời điểm nào tôi bị chính trị hóa khi tôi biết mình đã dành cả
cuộc đời trong cuộc đấu tranh giải phóng. Làm một người Phi trong xã hội Nam
Phi có nghĩa là bạn được chính trị hóa từ lúc mới ra đời, dù bạn có thừa nhận
điều đó hay không. Một hài nhi ra đời trong bịnh viên chỉ dành cho da đen. Đưa
về nhà trên xe bus chỉ dành cho da đen. Nếu may mắn được đi học cũng chỉ học
trường dành cho da đen. Khi cô hay cậu đó lớn lên cũng chỉ làm những công việc
người da đen phải làm và mướn một căn nhà để ở cũng chỉ được ở trong khu da
đen”.
Nhắc lại, ANC được thành lập vào ngày 8 tháng Giêng năm 1912 tại
Bloemfontein để đấu tranh cho quyền của người da đen Nam Phi do nhà biên khảo
John Dube và nhà thơ Sol Plaatje sáng lập. Chủ tịch đầu tiên của tổ chức là
John Dube. Trong suốt hơn 70 năm tranh đấu, ANC đã trở thành đảng chính trị
chiếm đa số trong cuộc bầu cử năm 1994 và trong cuộc bầu cử năm 2009, ANC chiếm
đến gần 66 phần trăm trong tổng số cử tri đi bầu. Nhiều người ảnh hưởng đến
quan điểm chính trị của Nelson Mandela đối với tổ chức ANC nhưng như chính
Mandela thừa nhận, ảnh hưởng nhất phải là Walter Sisulu vì đức tính cương
quyết, có lý có tình, thực tế và tận tụy của ông ta. Walter tin tưởng ANC là
phương tiện cần thiết để thay đổi Nam Phi, là nơi gìn giữ của khát vọng của
tầng lớp da đen bị trị tại Nam Phi. Mandela cũng tin tưởng sâu xa điều đó.
Sau khi gia nhập, Mandela trở thành một thành viên tích cực của
phong trào chống phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. Năm 1943, Nelson Mandela là
một trong những thành viên sáng lập của Liên Đoàn Thanh Niên ANC nhằm đưa cuộc
đấu tranh vào quần chúng, tổng hợp sức mạnh của giới nông dân ở nông thôn và tầng
lớp công nhân tại các thành phố. Nelson Mandela cho rằng các hình thức thư
thỉnh nguyện, cầu xin giới lãnh đạo da trắng không phải là hình thức đấu tranh
thích hợp nhưng phải đánh trực tiếp vào quyền lợi của chúng qua các hình thức
tẩy chay, đình công bãi thị, bất hợp tác với giới cầm quyền. Mặc dù ban đầu gặp
trở lực từ các thế hệ lãnh đạo già, các hoạt động của Liên Đoàn Thanh Niên ANC
dần dần đã được trung ương ANC chấp nhận. Vai trò lãnh đạo của Nelson Mandela
được chính thức hóa qua các hoạt động cương quyết của ông.
Năm 1947, Manela được bầu vào ban chấp hành ANC vùng Transvaal.
Người lãnh đạo trực tiếp của ông là C.S. Ramohane, một người yêu nước và kế
hoạch xuất sắc. Bản thân Ramohane không có cảm tình với Cộng Sản nhưng làm việc
với họ vì ông cho rằng ông ta nên đón nhận sự ủng hộ từ mọi phía. Mandela cũng
là tác giả của đề án Mandela làm tiêu chuẩn hoạt động cho cả tổ chức ANC trong
đó đặt nặng vai trò chỉ đạo từ trung ương khi nhà cầm quyền da trắng đặt ANC ra
ngoài vòng pháp luật.
Chiến Dịch Thách Thức Những Luật Bất Công (Defiance Campaign of
Unjust Laws) là chiến dịch có quy mô lớn của ANC đòi hủy bỏ sáu đạo luật bất
công trước ngày 29 tháng Hai năm 1952 và nếu không ANC sẽ có những hoạt động
ngoài hiến pháp chống chính phủ da trắng. Dĩ nhiên, chính phủ da trắng không
nhượng bộ mà còn đàn áp quyết liệt. Ngày 6 tháng Tư năm 1952, hàng loạt cuộc
đình công đã được thực hiện tại các thành phố lớn như Johannesburg, Pretoria,
Port Alizabeth, Durban và Cape Town. Ngày 30 tháng Bảy năm 1952, Nelson Madela
bị bắt cùng với hai mươi lãnh đạo ANC khác. Nelson Mandela bị kết án chín tháng
tù ở nhưng sau đó được chuyển thành hai năm tù treo.
Năm 1952 cũng là năm có nhiều thay đổi trong nội bộ ANC. Albert
Luthuli, một lãnh tụ có khuynh hướng đẫy mạnh các hoạt động của ANC được bầu
vào chủ tịch. Mandela, trong cương vị chủ tịch khu Transvaal, là một trong bốn
phụ tá của của Albert Luthuli. Nelson Mandela tiếp tục cuốn hút vào các hoạt
động cho ANC cho đến ngày tháng 12 năm 1956, Nelson Mandela bị bắt lần nữa. Lần
này bị truy tố với một tội nặng hơn nhiều: mưu phản. Nelson Mandela đóng tiền
tại ngoại hầu tra. Phiên tòa mưu phản kéo dài hai năm đã làm Nelson Mandela
kiệt quệ về mọi mặt, tình cảm gia đình tan nát và điều kiện tài chánh suy sụp.
Cũng trong thời gian khó khăn này, sự khác biệt về cách sống, lý tưởng đã làm
hai vợ chồng Mandela và Evelyn vốn khác biệt đã khác biệt sâu sắc hơn. Cuối
cùng cả hai đã đồng ý chia tay nhau.
Một lần trên đường từ tòa về qua một ngã tư đường, Nelson Mandela
chợt lưu ý một cô gái đang đứng chờ xe bus. Nét đẹp của nàng cuốn hút Mandela
nhưng ông ta biết khó mà có dịp gặp lại nàng. Như mối duyên tiền định, một hôm,
khi đang ngồi làm việc trong văn phòng luật sư vừa mới lo tái trang bị, Mandela
gặp lại cô lần nữa. Cô gái tên là Nomzamo Winifred Madikizela, và thường được
gọi tắt là Winnie.
Từ đó, họ gặp nhau bất cứ khi nào có thể. Họ ăn trưa với
nhau và cùng nhau đi dạo trên cánh đồng cỏ xanh giống như cánh đồng cỏ ở quê
hương Transkei. Mandela chia sẻ với Winnie những hy vọng và khó khăn. Như
Mandela thuật trong hồi ký “Tôi không hứa hẹn với nàng vàng bạc hay kim cương,
tôi sẽ không bao giờ có khả năng tặng nàng những món quà như thế”. Winnie hiểu
và chấp nhận mọi khó khăn. Vì Mandela vẫn còn trong thời gian bị truy tố, lễ
cưới phải được tòa án chấp nhận.
Đám cưới của Mandela và Nomzamo Winifred
Madikizela được tổ chức vào ngày 14 tháng Sáu năm 1958 tại một nhà thờ nhỏ.
Toàn bộ ban chấp hành trung ương ANC đã được mời nhưng một số đông, giống như
Mandela đang bị truy tố nên không tham dự được. Vì không có tiền và thời gian
để đưa nhau đi tuần trăng mật, đám cưới xong, chú rễ Mandela lại tiếp tục ra
tòa.
Sáng 29 tháng Ba năm 1961, sau hơn bốn năm dài từ khi bị bắt, hỏi
cung, ra tòa với hàng ngàn tài liệu và hàng trăm nhân chứng, chính quyền da
trắng vẫn không đủ bằng chứng tin cậy để kết án ANC là tổ chức Cộng Sản. Chánh
án Rumpff, một thẩm phán có lương tâm công lý, tuyên bố các bị can vô tội và
được thả tức khắc.
Mandela biết việc trắng án chỉ có giá trị tạm thời, nhà cầm quyền
da trắng sau nhiều năm với biết bao nhiêu tốn kém để truy tố ông chắc chắn thế
nào cũng tìm bắt lại. Thay vì về nhà, Mandela quyết định lui vào hoạt động bí
mật. Hầu hết các hoạt động của Nelson Mandela trong giai đoạn này được giữ kín
với hành tung bất thường. Ông ẩn mình vào ban ngày và thường hoạt động vào ban
đêm. Các lực lượng công an cảnh sát tung nhiều đợt lục soát để tìm bắt ông.
Không những công an mà cả báo chí cũng tung phóng viên để thăm dò tung tích của
Mandela. Nhiều báo phóng đại việc Mandela tránh thoát hệ thống công an trong
đường tơ kẽ tóc.
Thật ra không ai biết thật sự “đường tơ kẽ tóc” đó như thế nào nếu
không do chính Mandela viết trong hồi ký. Một lần khi Mandela lái xe và nhìn
qua người khách đang ngồi trong xe bên trái không ai khác hơn là Đại tá
Spengler, giám đốc sở an ninh Witwatersrand. Tuy Mandela hóa trang nhưng khó mà
qua được đôi mắt chuyên nghiệp của Spengler. Cũng may viên đại tá có trách
nhiệm lùng bắt Mandela đã không nhìn sang hướng của ông.
Rất nhiều lần khác,
các cảnh sát yêu nước đã tìm cách báo cho bà Winnie biết trước khi có cuộc hành
quân lục soát xảy ra trong vùng Mandela đang trốn. Mandela là người tổ chức từ
bóng tối cuộc tổng đình công 29 tháng Năm năm 1961 tại Nam Phi. Nhiều trăm ngàn
công nhân Nam Phi chấp nhận rủi ro mất việc đã ở nhà để ủng hộ lời kêu gọi của
Mandela và ANC. Tuy nhiên, sau khi đánh gía kết quả ngày đình công, Mandela cho
rằng nếu phía chính phủ da trắng đàn áp thẳng tay, cuộc đình công sẽ thất bại.
Trong thời điểm khó khăn và quyết liệt đó, Mandela và nhiều lãnh
đạo ANC nghĩ không có một chọn lựa nào khác hơn là con đường võ trang. Tháng
Sáu năm 1961, cánh quân sự của ANC, Umkhonto we Sizwe gọi tắt là MK, được thành
lập nhằm mục đích lật đổ chính quyền phân biệt chủng tộc da trắng bằng các biện
pháp quân sự. ANC giao trách nhiệm thành lập, tổ chức và chỉ huy cánh quân sự
cho Nelson Mandela. Như chính ông ta thú nhận “Tôi, chưa bao giờ là một người lính, chưa từng chiến đấu
trong mặt trận nào, thậm chí chưa bắn một viên đạn, lại được giao trọng trách
thành lập một quân đội”. Nhưng cũng từ đó, Mandela bắt đầu đọc các sách
về chiến tranh du kích, sách chiến lược và chiến thuật quân sự và học rất
nhanh.
Ngày 26 tháng Sáu năm 1961, Nelson Mandela, từ một địa điểm bí mật
công bố qua báo chí lá thư công khai với nội dung sau:
“Tôi được báo một trát tòa bắt giữ tôi đã được phát ra, đồng thời
công an cảnh sát đang lùng bắt tôi. Hội Đồng Hành Động Quốc Gia thuộc ANC đã
nhận xét kỹ lưỡng và khuyến cáo tôi không nên đầu hàng. Tôi đồng ý với lời
khuyên và sẽ không nộp mình cho một chính quyền mà tôi không công nhận. Bất cứ
nhà chính trị chín chắn nào cũng hiểu rằng trong tình trạng hiện nay của đất
nước, tìm cách làm một thánh tử đạo rẻ tiền qua việc giao nộp sinh mạng cho
cảnh sát là một hành động ngây thơ và là một trọng tội.
Tôi đã chọn con đường
này, một con đường khó khăn và đòi hỏi nhiều rủi ro, gian khổ hơn là ngồi trong
nhà tù. Tôi đã phải tự tách rời khỏi vợ con thân yêu, xa mẹ già và các chị em
tôi để sống như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật trên chính đất nước của mình.
Tôi đã phải đóng cửa cơ sở làm việc, từ bỏ ngành nghề chuyên môn và sống trong
đói khát như nhiều triệu đồng bào tôi… Tôi sẽ chiến đấu chống chính quyền phân
biệt chủng tộc sát cánh bên các bạn trong từng phân, từng dặm cho đến chiến
thắng cuối cùng.
Các bạn sẽ làm gì? Đến để cùng chiến đấu với chúng tôi hay hợp
tác với chính quyền để trấn áp các đòi hỏi và khát vọng của nhân dân Nam Phi?
Các bạn sẽ im lặng và bàng quan mặc trước những vấn đề sống và chết của nhân
dân tôi và nhân dân chúng ta?
Phần tôi, tôi đã có một chọn lựa cho riêng mình.
Tôi sẽ không rời Nam Phi và cũng chẳng đầu hàng. Chỉ thông qua gian khổ, hy
sinh và hành động quân sự, mục đích tự do mới đạt được. Đấu tranh là cuộc đời
tôi. Tôi sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu vì tự do cho đến những ngày cuối của đời
mình.”
Sau khi công khai phát động cuộc đấu tranh võ trang, tháng 10 năm
1961, Nelson Mandela di chuyển vào nông trại Liliesleaf ở Rivonia, vùng ngoại ô
phía bắc Johannesburg. Nông trại được xem là tổng hành dinh của MK. Nelson
Mandela mang tên mới là David Motsamayi, một người giữ nhà do chủ phái đến chăm
sóc nhà cửa đất đai. Sau Mandela, các chỉ huy vùng của MK lần lượt đến nông
trại. MK cũng xoay xở khéo léo để Winnie và các con đến thăm Mandela vào vài
cuối tuần. Cấu trúc tổ chức của MK cũng tương tự như ANC, gồm bộ chỉ huy trung
ương và các địa phương. Hàng ngàn truyền đơn được rải khắp các thành phố lớn để
công bố ngày ra đời của MK.
Tháng Hai năm 1962, Nelson Mandela bí mật xuất ngoại đại diện cho
cả ANC lẫn MK tại hội nghị của Phong Trào Tự Do Liên Phi cho Đông, Trung và Nam
Phi Châu, gọi tắt là PAFMECSA được tổ chức tại thủ đô Addis Ababa thuộc
Ethiopia. Tổ chức này là tiền thân của Tổ Chức Đoàn Kết Châu Phi hiện nay. Đây
là một hội nghị vô cùng quan trọng vì là lần đầu tiên ANC có cơ hội kêu gọi sự
yểm trợ trực tiếp của các quốc gia Phi Châu trong cuộc đấu tranh võ trang chống
chính phủ da trắng Nam Phi.
Trong dịp này, Mandela thăm viếng và kêu gọi viện
trợ từ các quốc gia Phi Châu như Egypt, Lybia, Tunisia, Ghana, Algeria,
Morocco, Mali, Guinea, Sierra Leone, Liberia, Senegal. Tuy cùng một Phi Châu
nhưng không phải quốc gia nào cũng nhiệt tình ủng hộ. Một số lãnh đạo quốc gia
viện trợ năm ngàn bảng Anh và cũng có một số quốc gia không tặng đồng nào.
Trước khi lên đường trở lại Nam Phi, Nelson Mandela tham dự khóa huấn luyện
quân sự tám tuần lễ tại Ethiopia. Trong thời gian Mandela ra nước ngoài, các
cuộc đánh phá do MK chủ trương diễn ra tại nhiều nơi ở Nam Phi. ANC yêu cầu
Mandela thu ngắn thời gian thụ huấn quân sự để về nước.
Tuy nhiên vài hôm sau khi trở lại Nam Phi, Nelson Mandela bị bắt
vào ngày 5 tháng Tám năm 1962. Lần này, Nelson Mandela bị kết án 5 năm vì hai
tội sách động công nhân đình công và xuất ngoại bất hợp pháp. Mendela bị đưa
đến nhà tù Pretoria Local.
Thời gian ngắn sau đó, tổng hành dinh của MK tại nông trại ở
Rivonia bị khám phá, lục soát và nhiều tài liệu quan trọng bị tịch thu. Phần
lớn các cấp chỉ huy trung ương của MK cũng lần lượt bị bắt. Một số ít may mắn
thoát được nhưng đã phải lưu vong sang các quốc gia Phi Châu.
Trong lúc đang bị
tù, Nelson Mandela lại bị truy tố với một tội nặng hơn trong phiên tòa được báo
chí gọi “Chính phủ chống lại Bộ Chỉ Huy Quốc Gia Tối Cao và những người khác”.
Mandela là bị cáo đầu tiên trong danh sách nên phiên tòa còn được gọi là “chính
phủ chống lại Nelson Mandela và những người khác”. Phiên tòa kéo dài gần hai
năm. Khắp thế giới bùng lên phong trào ủng hộ Mandela. Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc yêu cầu chính quyền Nam Phi ân xá. Sinh viên đại học London bầu
Nelson Mandela làm chủ tịch sinh viên dù vắng mặt bởi vì Mandela vẫn còn là
sinh viên hàm thụ khoa Luật của đại học London và vừa hoàn tất kỳ thi cuối khóa
hai ngày trước ngày tuyên án.
Đêm trước, Mandela và các bạn đã quyết định dù bản án nặng đến đâu
hay thậm chí có tử hình đi nữa, cũng không kháng án. Theo lời Mandela giải
thích với các luật sư bào chữa, kháng án chỉ làm giảm giá trị đạo đức của lý
tưởng mà họ đã và đang đeo đuổi, kháng án cũng có nghĩa là phải giải thích khác
hơn và từ chối những hành động chính nghĩa mình đã làm.
Mandela tin nếu bản án
do tòa quyết định là tử hình, chắc chắn sẽ có một phong trào quần chúng mạnh mẽ
đứng lên phản đối, ông không muốn làm nhẹ tinh thần của cuộc đấu tranh đó. Như
Mandela viết trong hồi ký “không
có sự hy sinh nào có thể gọi là quá to lớn trong cuộc đấu tranh vì tự do”.
Mandela còn chuẩn bị cả câu nói cuối cùng trường hợp chánh án De Wet hỏi ông
sau khi nghe tuyên đọc án tử hình: “Tôi
chuẩn bị chết trong niềm tin vững chắc rằng cái chết của tôi sẽ là niềm khát
vọng cho lý tưởng mà tôi đang dâng hiến cuộc đời mình”.
Ngày 12 tháng Sáu năm 1964, ngoại trừ hai người, một được miễn tố
và một nhẹ tội, Nelson Madela và các bạn còn lại bị kết án chung thân. Kết án
xong, nửa đêm ngày hôm sau, Mandela và 6 thành viên lãnh đạo của MK bị đưa đến
nhà tù Robben Island, tương tự như đảo Alcatraz ngoài vịnh San Francisco của
Mỹ, trong một máy bay quân sự bí mật với các lực lượng công an cảnh sát vây kín
từ nơi tạm giam đến phi trường. Xà lim của Mandela rộng khoảng 1.8 mét. Mỗi
phòng có một tấm bảng giấy ghi tên và số tù. Bảng của Mandela ghi là “N Mandela
466/64”. Năm đó Mandela 46 tuổi. Mandela dành hơn 100 trang trong hồi ký để mô
tả đời sống vô cùng khắc nghiệt trong suốt 17 năm dài tại nhà tù Robben Island,
nơi đó mỗi ngày ông phải đập đá dưới cơn nắng cháy da và ban đêm ngủ trong xà
lim mới dựng còn rất ẩm thấp. Đó cũng là thời gian Mandela bị nhiễm vi trùng
lao.
Sau 21 năm qua hai trại tù, từ Robben đến Pollsmoor với tất cả
gian lao và chịu đựng, trong một lần khám bịnh thường lệ, bác sĩ khám phá tiền
tuyến liệt của Mandela bị sưng to và cần phải được giải phẫu. Nhưng sau khi
giải phẫu xong, viên điều hành trại tù, Thiếu tướng Munro, đưa Mandela đến một
phòng giam khang trang nhiều so với phòng giam mà ông ta sống trước đó. Tuy
không nói ra, Mandela biết chính quyền da trắng đã có ý thăm dò phản ứng của
ông về cách đối xử mới của chính quyền.
Trong suốt cuộc đời tranh đấu từ khi gia nhập ANC, Nelson Mandela
đã chọn nhiều phương pháp đấu tranh, trong đó có bất bạo động và cả bạo động.
Tuy nhiên, sau nhiều năm suy tư về con đường đất nước đã trải qua và hy vọng
nào còn đang chờ trước mặt, Mandela đã thay đổi phương pháp đấu tranh. Nelson
Mandela viết trong hồi ký “Sự
thay đổi, tôi quyết định, không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi
đắn đo từ lâu về việc bắt đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời
gian đã đến và cuộc đấu tranh sẽ thuận lợi hơn khi cần được đẫy mạnh qua đàm
phán. Nếu chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối
của áp bức, bạo động và chiến tranh.”
Mandela nhìn lại cuộc đấu tranh của ANC trong suốt 70 năm, rất
nhiều thường dân vô tội đã bị giết nhưng chính quyền phân biệt chủng tộc da
trắng vẫn nhất định không nhường bước. Thật là vô nghĩa nếu cuộc đấu tranh võ
trang tiếp tục và mỗi ngày nhiều mạng sống bị cướp mất đi. Không ít các hoạt
động của MMK là hành động khủng bố.
Tuy nhiên, một bên nào muốn dừng lại cũng
không phải là chuyện dễ dàng. Nhà cầm quyền da trắng đã nhiều lần khẳng định
ANC và MK là những tổ chức khủng bố Cộng Sản trong lúc ANC cũng không kém phần
quyết liệt khi cho rằng chính phủ Nam Phi là chỉ là một chính quyền phát-xít,
phân biệt chủng tộc và do đó sẽ không có gì để đàm phán với họ cho đến khi nào
họ công nhận ANC. Về phần nội bộ ANC, việc thông tin giữa Mandela và các lãnh
đạo trung ương của ANC cũng rất khó khăn vì một số đang bị tù, một số khác đang
lưu vong và số còn lại hoạt động bí mật rải rác khắp nơi.
Nelson Mandela cuối cùng chọn một giải pháp, đó là tự quyết định
cách giải quyết vấn đề một mình và tuyệt đối không cho ai, kể cả các thành viên
ANC đang bị tù chung biết. Nếu thành công sẽ có lợi cho đất nước và nếu thất
bại chỉ một mình ông ta chịu trách nhiệm. ANC có thể cho rằng vì Mandela không
tiếp cận với thực tế và đầy đủ thông tin nên đã có những quyết định không đúng
với đường lối của ANC.
Vài tuần sau khi về phòng giam mới, Mandela viết thư cho bộ trưởng
tư pháp Nam Phi Kobie Coetsee và đề nghị thảo luận về những vấn đề cần thảo
luận. Đầu năm 1986, Mandela tiếp đón một phái đoàn bảy thành viên đại diện
nhiều quốc gia thăm viếng Nam Phi để tìm hiểu sự thật. Phái đoàn do Tướng
Olusegun Obasanjo, cựu tổng thống Nigeria và cựu ngoại trưởng Úc Malcolm Fraser
cầm đầu.
Tại buổi gặp gỡ, Nelson Mandela lần nữa đưa ra chủ trương đối thoại
nhưng nhấn mạnh đó là việc đối thoại giữa ANC và chính phủ chứ không phải riêng
ông ta và chính phủ. Mandela khẳng định với phái đoàn quốc tế rằng ông là một
người Quốc Gia Nam Phi chứ không phải là Cộng Sản.
Mặc dù có làm việc với nhiều
đảng viên Cộng Sản, Mandela từ lâu đã quan niệm rằng cuộc đấu tranh của ANC
chống chính quyền da trắng là cuộc đấu chống kỳ thị chủng tộc chứ không phải là
cuộc đấu tranh giai cấp hay đấu tranh vì lý do kinh tế như đảng Cộng Sản Nam
Phi lý luận. Tuy chưa tuyên bố công khai từ bỏ phương tiện võ trang, Mandela
thừa nhận rằng bạo động không bao giờ có thể là giải pháp cuối cùng cho vấn đề
Nam Phi.
Trong buổi hội kiến với phái đoàn quốc tế, Mandela cũng đòi hỏi phía
nhà cầm quyền da trắng phải bày tỏ thiện chí trước bằng cách giải tỏa vòng vây
công an cảnh sát khỏi các thôn ấp da đen. Nếu làm được như vậy, ông tin phía
ANC cũng sẽ đáp ứng bằng cách hạn chế các cuộc tấn công để làm tiền đề cho đàm
phán. Mandela cho phái đoàn biết việc trao trả tự do cho bản thân ông trước áp
lực quốc tế đang phát động không giải quyết được vấn đề tranh chấp tại Nam Phi.
Trong năm 1987, Tổng thống Nam Phi Botha thành lập một ủy ban bí
mật trong đó có bộ trưởng tư pháp Kobie Coetsee để đàm phán riêng với Nelson
Mandela. Các buổi thảo luận bí mật diễn ra nhiều lần giữa Mandela và ủy ban
tổng thống.
(Ảnh: Nelson
Mandela và Walter Sisulu trên đảo Robben Island in 1966) Vào thời
điểm quan trọng này, Nelson Mandela xét thấy cần phải hội ý với các lãnh đạo MK
đang bị tù với ông và hiện đang bị giam giữ ở tầng trên. Ông gặp riêng từng
người và tất cả đều không chống đối phương pháp đàm phán nhưng đồng thời cũng
không tin tưởng hoàn toàn nơi thiện chí của nhà cầm quyền da trắng. Ngoài ra,
Oliver Tambo, lãnh tụ của ANC đang hoạt động bên ngoài đã biết về sự đối thoại
đang diễn ra giữa Mandela và chính quyền, và đã đặt ra cho Mandela nhiều câu
hỏi. Để các lãnh đạo ANC bên ngoài an tâm, trong một tin nhắn bí mật cho Oliver
Tambo, Mandela xác định việc đàm phán thật sự chỉ diễn ra giữa ANC và chính
quyền da trắng chứ không phải giữa ông ta và chính quyền da trắng.
Ngày 4 tháng Bảy năm 1989, Nelson Mandela bí mật được đưa đi gặp
tổng thống Nam Phi P. W. Botha tại dinh tổng thống vào lúc 5:30 sáng. Trong
buổi hội kiến ngắn chưa đầy 30 phút, Nelson Mandela yêu cầu tổng thống Botha
trả tự do cho tất cả tù chính trị Nam Phi trong đó có cả ông. Tổng thống Botha từ
chối. Tuy nhiên, không đầy một tháng sau, Botha từ chức tổng thống Cộng Hòa Nam
Phi và quyền lãnh đạo quốc gia được trao qua de Klerk. Tháng mười cùng năm, de
Klerk tuyên bố trao trả tự do cho bảy lãnh tụ cao cấp của ANC.
Tháng Chạp cùng năm, tổng thống de Klerk mời Mandela hội kiến.
Trong dịp này, Nelson Mandela nhắc lại các đòi hỏi tiên quyết trong đó bao gồm
việc hủy bỏ luật ngăn cấm ANC hoạt động, trả tự do cho tất cả tù chính trị còn
lại, hủy bỏ luật tình trạng khẩn cấp quốc gia, cho phép các lãnh tụ đảng phái
chính trị đang lưu vong trở về nước. Mandela lưu ý tổng thống de Klerk, nếu
chính phủ Nam Phi không làm được những điều đó, một mai khi được trả tự do,
Nelson Mandela tại tiếp tục tranh đấu như trước và chẳng lẽ chính phủ da trắng
lại bắt giam, kết án và tù đày ông như hai mươi bảy năm trước đó hay sao.
Ngày 2 tháng Giêng năm 1990, Tổng thống F. W. de Klerk rong diễn
văn lịch sử đọc trước quốc hội Nam Phi tuyên bố hủy bỏ chính sách phân biệt
chủng tộc và đặt nền tảng cho cải cách dân chủ tại Nam Phi. Nói chung, tổng
thống de Klerk đã thực hiện hầu hết các điều khoản do Mandela yêu cầu trong lần
gặp gỡ trước đó. Lần đầu tiên trong 30 năm, hình ảnh và các lời tuyên bố của
Nelson Mandela được công khai trưng bày trong dân chúng.
Ngày 10 tháng Giêng, de Klerk mời Nelson Mandela gặp lần nữa và
thông báo chính phủ sẽ đưa ông về lại Johannesburg và trao trả tự do cho ông
tại đó vào ngày hôm sau. Nelson Mandela từ chối việc được trả tự do tại
Johannesburg và cũng không muốn được trả sớm như vậy. Trong suốt 27 năm tranh
đấu để được tự do, không bên nào nghĩ cuối cùng việc trả tự do ở đâu lại trở
thành vấn đề tranh cải. Cả Mandela lẫn nhà cầm quyền cũng không ngờ có một ngày
bên chính phủ muốn thả tự do cho tù nhân Mandela nhưng chính tù nhân Mandela
lại muốn ở thêm một tuần lễ nữa. Cuối phiên họp, mỗi bên nhượng bộ một phần.
Nelson Mandela sẽ ra khỏi cổng nhà tù ông đang ở nhưng không thể ở lại thêm ngày
nào khác.
Lúc 3:30 chiều ngày 11 tháng Giêng năm 1990, Nelson Mandela bước
ra khỏi cổng nhà tù cuối cùng Victor Verster giữa rừng người đang hân hoan chờ
đợi.
Trần Trung Đạo
__._,_.___