( cảm ơn bạn đã gợi lại
một thời " vàng son " thật trong sáng ,
cái thời đại huy hoàng , cái thời dân
Nam chưa hề biết lừa lọc ,
mánh mung , phản phúc , cái thời mà dân miền
Nam - tuy biết
tiền là cần thiết , nhưng chưa được cho
là :
" Tiên là Phật , là
sức bật tuổi trẻ , là lọng che ông già ...."
như một châm ngôn thông dụng ngày
nay , tại quốc nội ! (A)
Đúng là "một thời
đáng nhớ " , không bao giờ có lại được nữa ,
cho dù vài trăm năm sau !
Bởi lẽ , người Việt Nam quốc nội , nay
đã được " lột xác ' và
" tẩy não " ngay từ
lúc lọt lòng , rồi !
**** (A)
Có đúng không ? khi GS
Trần Phong , chủ tịch UB Khoa học xã hội (quốc nội)
đã phát biểu "
Chủ nghĩa Xã hội được đưa ra chỉ để bịp thiên hạ . Chúng ta
tự lừa dối mình và chúng
ta lừa dối người khác . "
Có đúng không ? khi nhà văn
Nguyễn Khải - đại tá, đại biểu đảng hội , phó
TTK hội nhà văn
VN ( quốc nội ) - đã viết : " Người cộng sản nói dối lem lém ,
nói dối lỳ
lợm , nói dối không bao giờ biết xấu hổ và không hề run sợ .
Người dân
vì muốn sống còn , đành phải nói dối theo " )
----- Forwarded
Message -----
From: Le Hiep <
Sent: Wednesday, January 8, 2020, 10:53:55 AM CST
Subject: Fw: Một thời đáng nhớ...
Bài hay , hình ảnh
thân quen ...
Giá trị như một hoài
niệm về một thời đáng nhớ ...
Xin cám ơn người gởi
rất nhiều .
Kính chuyển Quý Trưởng
Bối , Quý Bằng hữu coi chơi cho vui .
Kính chúc bình an ,
mạnh giỏi .
LH
MỘT THỜI ĐÁNG NHỚ...
Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng
cũng là niềm say mê tốc độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn
của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say mê này đã ghi vào ký ức của
nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không phai nhạt với thời
gian . . .
Xe gắn máy tại miền Nam trước 1975
Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm
đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay, xe gắn máy vẫn là phương tiện
di chuyển được nhiều người sử dụng nhất . Bài này xin nhắc lại một số xe
gắn máy đã hiện diện tại miền Nam trước 1975.
Nói đến xe gắn máy thì chắc là mọi người sống tại miền Nam trước
đây đều biết đến xe Mobylette. Vì Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hãng
Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc Mobylette, đương nhiên là hiện diện
trên thị trường Việt Nam. Nhưng nhiều người biết đến tên Mobylette hơn là
Motobécane. Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette vàng và Mobylette
xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp vào loại vélomoteur,
không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng thì nhỏ hơn, chỉ có ống nhún phía
trước, còn Mobylette xanh thì lớn, nặng hơn có ống nhún ở cả bánh trước lẫn
bánh sau nên đi êm hơn và giá cao hơn .
Mobylette Xanh
Mobylette Vàng
Xe Mobylette xem chừng ra không thay đổi nhiều lắm qua nhiều
năm. Xe Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuýp hàn lại.
Qua thập niên thì thân làm bằng tôn ép. Màu sắc cũng ít thay đổi. Có lúc
Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe Mobylette được chế tạo để dễ sử
dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga lớn thì
xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì xe chạy chậm và đứng lại. Khi muốn nổ
máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp hoài không nổ thì chỉ gần
gạt môt cái chốt ở đĩa có dây couroie ăn vào động cơ để tách rời động cơ
và bánh sau thì có thể đạp bộ về nhà.
Velo Solex
Velo Solex 1951
Nếu có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ bụng sao không
gắn một cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý nghĩ đó đã có
người nghĩ đến và chế tạo ra chiếcVélosolex. Xe Vélosolex là một
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
Quảng cáo xe Mobilette
Hình xe Mobylette trên tem thư Cộng Hòa Pháp
Vì cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe
Mobylette, Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.
Xe
Vespa
Xe Lambretta
Ở một hạng cao hơn là các xe scooter của Ý: Vespa, Lambretta.
Các xe scooter này vì lòng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là 125 cc hoặc 150
cc hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp vào loại vélomoteur.
Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái. Vì thế, những người
đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung niên và có đời sống cũng
tương đối khá vì xe scooter đắt hơn. Xe Vespa hàng chục năm nay không
thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm hình tròn như
quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ phình bên phải, còn bên
trái là ngăn để chứa đồ. Vì thế xe Vespa khi chạy hơi nghiêng về phía phải
vì bên này nặng hơn. Xe Lambretta tuy trông bề ngoài giống Vespa nhưng cấu
tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn lại, máy đặt ở giữa khung và che
bên ngoài bằng lớp vỏ sắt. Xe Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường
nét cong. Cuối thập niên 60, qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng,
theo như mốt của thời đó, nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số bằng tay,
bóp embrayage vào và vặn để đổi số.
Vespa Sprint 1974
Lambretta 1974
Từ cuối thập niên 1950, miền Nam cũng nhập cảng các xe gắn máy Đức
như Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có bình xăng
đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn sau, và
máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái. Mỗi
xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được bọc trong lớp
vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát. Như thế có lợi điểm là máy xe được
làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có
50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên
cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành
khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs ngày nay vẫn còn tồn tại.
Goebel
Puch
Sachs
Puch
Goebel
Xe 3 bánh gắn máy Sachs/Goebel
Vào khoảng 1965 thì thấy nhắc đến tên Honda, với một số kiểu xe
mới lạ xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua đem sang Việt
Nam để đi làm việc rồi khi họ về nước thì để lại, lọt ra ngoài thị trường
người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là các phi công
Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh trại ra
chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút. Có xe Honda
phóng thì thu ngắn thời gian nhất là khi có báo động thì phóng xe Honda
ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ. Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng
nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ
ròn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe
P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng
vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực
khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe
dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì
không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe.
Xe Honda dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp.
Trong khi chiếc Honda dame nhập cảnh hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng
chân.
Honda Dame C50
Honda P50 1967
Honda PC50 1968
Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu
thụ là xe Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu C50, nhưng mọi
người thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda Homme,
mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại
Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những ngày đầu tiên xe
bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn thấy các chiếc xe
Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe, hý hoáy
nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng chân. Sang lộn số có
thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt xe Honda đi bên đường,
có người nói hãng Motobécane của Mobilette thuê người dắt xe Honda Dame
đi khắp các đường phố để người dân thấy xe Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ
không dám mua. Không biết là có đúng hay không. Một số người lúc đó nói
là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là hỏng và tiên đoán rằng chừng năm
mười nữa thì các xe gắn máy Pháp, Đức vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc
đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật
trước thập niên 1960. Nhưng qua thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật
đã trải qua những năm cạnh
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
Honda SS50 69-72
Honda SS90
Xe Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng ambrayage tự động,
khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà chỉ cần giảm ga. Các
hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. Còn các xe gắn máy Nhật
kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc mô tô phân khối lớn ở chỗ
không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có thanh ngang để chân,
bên phải là thắng chân, bên trái là cần sang số, embrayage tay trái, thắng
trước tay phải, bình xăng phía trước. Các xe này còn giống mô tô ở chỗ
hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng
kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á Châu khiến cho việc leo lên
xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn
nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ.
Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng
dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.
Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66
(SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào
năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng
cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal, hộp số có
năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một
chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của
xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố vì tay lái
quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay
lái rộng hơn, hộp số có năm số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn signal, ống nhún
trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 80k/ giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đã đi vào
lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là
được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda
có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì
máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe
Đức trước đây.
Honda Dame C50
Honda SS50 -
1967
Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki,
Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe nam
M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống nhau,
dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và vè trước
ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.
Suzuki Dame 1968
Suzuki M15 - 1965
Suzuki
M12 1967
Kawasaki 1965
Hãng Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu YF5, và một
kiểu Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận xi bóng
loáng. Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu dàng, trông rất
mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng bằng Honda vì máy không
mạnh bằng.
Yamaha YL1 1968
Yamaha
Dame
Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame,
trông vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.
Kawasaki là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa
sang một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng
và máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc,
thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần
bằng lái.
Kawasaki
1960's
Bridgestone 1968
Hiệu xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone. Bridgestone là
hãng chuyên chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một phân bộ chuyên sản
xuất xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt Nam năm 1966 có máy
65 cc. Vì thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm của Bridgestone là hộp
số có bốn số quay vòng giống như các xe đua, nghĩa là sang đến số bốn thì
nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải trả số ngược lại. Xe Bridgestone
chìm vào quên lãng của người Việt khi phân bộ xe mô tô của hãng đóng cửa
năm 1967 vì lý do là nếu sản xuất xe đua thì các hãng xe gắn máy Nhật
khác không muốn mua vỏ xe của hãng kình địch với mình trong các cuộc đua.
Honda Scrambler CL50 1969
Honda
Scrambler CL50 70's
Không như các hãng xe châu Âu giữ các kiểu xe y nguyên nhiều
năm, các hãng Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt Nam với các kiểu xe mới
ra mỗi năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết tắt của
Scrambler. Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường đất lồi lõm nên
chỉ có bốn số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng tốc độ tối đa kém xe
Honda 67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô đất hay ngập nước. Qua
1969, Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng máy và sườn như xe Honda
67 nhưng bình xăng dài hơn cho có vẻ thể thao. Qua năm 1970, Honda đưa
sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn và động cơ như SS50 nhưng
bình xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu khác nên trông bề ngoài khác hẳn.
Xe được chế tạo để chạy trong thành phố nên chỉ có bốn số với các số đầu
kéo mạnh, thích hợp với cách chạy xe trong thành phố phải luôn luôn dừng
lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu vọt lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972,
Honda tung ra kiểu xe với sơn đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng
bò trông rất hấp dẫn. Honda thay đổi hình dáng bề ngoài thu hút thêm
khách hàng mới. Năm 1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất
thể thao và rất đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên
đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như
Honda Monkey, nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là
viết tắt của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên
các đường mòn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi làm
tuốt luốt.
Honda SS50E 1970
Suzuki
AS50 Maverick 1969
Honda SS50
1967 keo xe lôi
Trong tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng loại động cơ
bốn thì, với xăng và nhớt chứa riêng còn các hãng kia dùng loại động cơ
hai thì, chạy xăng pha nhớt.
Với các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố miền Nam trở
nên nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài Gòn náo nhiệt với
các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng, máy nổ ròn, đinh
tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng vì nhiều người đã
tháo bỏ ốm tiêu hãm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy nổ lớn. Ống này nhỏ
như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng gang tay. Chỉ cần tháo
con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra được. Lý do tháo ốm hãm
thanh là vì người dùng thấy xe chạy vọt hơn.
Sài Gòn nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn vì các xe Nhật đều chạy
nhanh, vọt mạnh. Vì thế, một số phụ huynh lo ngại không muốn mua
cho con mình chiếc xe quá mạnh. Hãng Honda tung ra loại xe PC50, cũng
dùng động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt mạnh như các loại
xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến 60 km/giờ. Xe PC50
là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa cho xe được thăng bằng
hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau. Cách sử dụng xe PC50 cũng giản
dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy rồi vặn ga phóng đi.
Mini Cady 1969
Honda PC50 1968
Hãng Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn thích hợp với
giới học sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết đây là kiểu em
út trong gia đình Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50 cc nhưng xe chỉ
chạy được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một khuyết điểm của xe cộ
nhưng đây lại là ưu điểm vì nó là lý do để các bậc phụ huynh chọn mua xe
cho con mình để được an tâm hơn. Với khuynh hướng design nhiều màu sắc
vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn nâu, hay xám, về sau sơn các
màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất hiện của mini jupe, đường phố
Sài Gòn thấy xuất hiện xe mini Cady với hai bánh xe nhỏ trông rất xinh xắn,
đồng thời mini xe đạp cũng xuất hiện và các cô nữ sinh áo dài mini trông
trẻ trung, tươi tắn tung tăng trên các loại xe mini đủ màu sắc.
Cady
Xa lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời đó còn rất ít
xe nên trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe gắn được đem ra
chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê bình, điểm các loại
xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được truyền miệng rộng rãi.
Các loại xe máy hai thì tuy có thể chạy nhanh nhưng khi chạy với tốc độ
cao nhiều giờ thì máy bị yếu đi, tốc giảm đi. Chỉ trừ có xe Honda là được
khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng ra chỉ có xe Honda sau 1965 mới
chạy lâu không bị giảm tốc độ vì Honda cải tiến hệ thống phun nhớt, làm
cho nhớt phun rất nhiều khiến cho khi máy nóng không bị sức ma sát làm giảm
tốc độ. Còn các loại Honda S65, C110, tuy có thể chạy được đến tốc
độ hơn 100km/giờ nhưng khi nóng máy thì cũng bị chậm lại.
Mini Cady
Để tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng thêm từ 50
cc thành ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có thể đến hơn
100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.
Một trò chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe gắn máy, gọi
chệch từ chữ anh hùng vì đua xe là can đảm nhưng không phải là đáng khen,
là lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài năm, bẩy mét. Một đầu
khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu phía sau gắn vào remorque
sau, còn giữa xe vận tải và remorque sau không có gì ràng buộc. Chiều cao
từ thân cây đến mặt đường chi hơn một mét. Các tay đua đánh cá xem ai dám
lạng chui dưới gầm xe be từ bên này qua bên kia. Vì khoảng cách thấp nên
không thể chạy thẳng đầu mà người lái phải lạng cho xe nghiêng đi thì mới
đủ thấp mà chui qua. Nếu tính sai thời gian, người lạng có thể bị hai
bánh sau chạy tới đụng và cán chết.
Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc
độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say
mê này đã ghi vào ký ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không
phai nhạt với thời gian.
ovv's
1966-Honda-CB150
Nó trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ lại giây phút dắt chiếc
xe mới toanh đi về nhà và những ngày tháng rong ruổi trên những con ngựa sắt.
Phi Long
__._,_.___