Kính
chuyển
MG
CUỐI NĂM 2015, NHÌN LẠI
BANG GIAO VIỆT CỘNG VÀ HOA KỲ
TỪ SAU NGÀY 30-4-1975
MƯỜNG GIANG
Ngay từ thời Hồ Chí Minh còn sống, dù đã tôn thờ
chủ nghĩa Lê-Mác và luôn hướng về Mạc Tư Khoa, Hồ vẫn nổ lực đu giây giữa hai
nước đàn anh Nga-Tàu, để kiếm viện trợ và sự ủng hộ trên các diễn đàn chính trị
quốc tế. Nhưng cả Nga lẫn Tàu, thật sự chỉ muốn lợi dụng VC, bởi vậy đâu có ai
ngạc nhiên khi biết năm 1963, Khrushchev đã cực lực chống Bắc Việt mở cuộc chiến
tranh tại Miền Nam, vì lúc đó Nga đang hòa hoản với Mỹ trong chiến tranh lạnh,
qua kế hoạch giảm bớt số lượng bom nguyên tử. Tương tự vào năm 1972, cả Nga lẫn
Trung Cộng vì đang giao hảo tốt với Tổng thống Richard Nixon, nên để mặc cho Mỹ
oanh tạc Bắc Việt khủng khiếp. Quan trọng nhất dưới con mắt của hai đàn anh lớn,
VC vẫn luôn bị nghi ngờ là phương xét lại, lật lọng, láu cá, phản phúc lưu manh
không thể tin tưởng. Ðó là lý do khiến cho Hà Nội phải bắt cá ba tay, khi quay
ra làm quen với các nước Ðông Nam Á, Nhật, Âu Châu và kẻ thù không đôi trời
chung là Hoa Kỳ.
Tháng 9-1976, VC được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund
- IMF). Vì là nước cọng sản đầu tiên được vào tổ chức này, nên Hà Nội đã bị Nga
và cả khối cộng sản quốc tế phản đối dữ dội vì bị cho là đi lệch hướng, khi
chia xẽ bí mật quốc gia cho kẻ thù. Ngoài ra vì đang đi dây giữa nhiều thế lực
để kiếm lợi, nên VC đã từ chối không gia nhập Khối Kinh Tế Ðông Âu (Comecon),
nên bị Mạc Tư Khoa hủy bỏ nhiều dự án hứa giúp VN lẫn quân viện, kể cả gạo viện
trợ của Trung Cộng cũng bị cúp luôn. Tóm lại bắt đầu năm 1977, VC hoàn toàn bị
cô lập trước thế giới, đồng thời cũng kẹt cứng trong mối liên hệ an ninh quốc
gia, giữa Khmer Ðỏ và Trung Cộng.
Ngày nay qua núi sử liệu trong và ngoài nước đã bật mí, ta mới biết được VC
ngoài miệng lúc nào cũng nói chống Mỹ, Tây Phương, Nhật, Tư Bản nhưng trong tận
cùng tim óc lại rất thèm thuồng sự bang giao với họ, nhất là kẻ thù không đội
trời chung Hoa Kỳ. Bởi vậy khi Sài Gòn vừa bị cưởng chiếm lúc trưa 30-4-1975,
thì chỉ hai tháng sau VC đã trơ trẽn mời hai ngân hàng lớn của Mỹ trở lại VN, để
bàn thảo phát triển kinh tế và thương mại. Với người Mỹ sau khi chiến tranh
Ðông Dương lần 2 kết thúc, càng mệt mõi thất vọng vì sự tháo chạy nhục nhã tại
VN thêm vụ nghe trộm Watergate, nên đã bầu Jimmy Carter, điền chủ trồng đậu phụng
ở miền Nam, thuộc đảng Dân Chủ làm tổng thống. Lúc đó Carter nghĩ rằng muốn xóa
bỏ hội chứng VN trong lòng người Mỹ, thì phải thiết lập ngoại giao và bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước. Hơn nửa giữa hai cưụ thù cọng sản là Trung Cộng và
VC, thì Hà Nội được Mỹ chấp nhận dễ dàng hơn vì không có một vấn đề gì nhiêu
khê, như vụ Ðài Loan đối với Bắc Kinh.
Nhưng thiện chí trên của Tổng thống Carter, đã làm cho Bắc Bộ Phủ lúc đó hiểu lầm
và tăng thêm lòng kiêu căng phách lối trong những bộ óc đặc sệt bùn đất, là Mỹ
đã gục ngã trước chiến thắng thần thánh siêu nhân của các đỉnh cao, cùng với sự
ưu việt của chũ nghĩa xã hội, qua ba dòng thác cách mạng, đã đánh gục ba đại cường
Pháp-Nhật-Mỹ, khiến cho tư bản giẫy chết. Bởi vậy Hà Nội cần gì liên hệ với tên
đầu sỏ tư bản là Mỹ, đang cầu cạnh tới làm quen.
Chính sự chủ quan thiển cận đó, đã làm cho Mỹ quay mặt với VN và quyết
tâm kết thân với TC, đẩy Hà Nội vào con đường tận tuyệt phải chạy theo Liên Xô,
gây nên cuộc chiến long trời lở đất, giữa Hoa-Việt tại biên giới hai nước vào
tháng 2-1979. Kết quả 5 tỉnh thượng du Bắc Việt bị giặc Tàu tàn phá bằng bom đạn,
thành những đống gạch vụn, nhiều vạn đồng bào và bộ đội thương vong thảm thiết
và kinh hoàng nhất là cả nước từ nam ra bắc, đắm chìm trong ngục tù thù hận, địa
ngục đói nghèo, hơn 10 năm dài vì bị cả loài người quay lưng nguyền rũa, khi đối
mặt với hàng triệu thuyền nhân VN, liều chết bỏ quê hương ra biển tìm tự do
trong nổi chết chực chờ.
Ðã mang bệnh tưởng tượng không còn thuốc chữa, các lãnh tụ cọng sản vĩ đại của
Bắc Bộ Phủ, từ Lê Duẩn-Trường Chinh-Phạm Văn Ðồng tới Lê Ðức Thọ.., lại tham
lam không bút mực, nên lúc nào cũng tin là Mỹ phải trả nợ số tiền 3,25 tỷ Mỹ
kim viện trợ + 1,5 tỷ tái thiết, theo lời hứa mà TT Richard Nixon đã viết trong
một lá thư mật gửi choThủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng, khi hai bên ký kết Hiệp
Ðịnh ngưng bắn Paris 1973.
Ngày 16-3-1977, một phái đoàn Hoa Kỳ lần đầu tiên tới Hà Nội sau khi chiến
tranh chấm dứt vào cuối tháng 4-1975. Mục đích của chuyến đi là tìm kiếm người
Mỹ mất tích (MIA) tại Ðông Dương. Dịp này, ngoài đại sứ lưu động Leonard
Woodcock được Carter cử làm trưởng phái đoàn, còn có rất nhiều thương lái quan
trọng khác tháp tùng, gồm đại diện của hai hảng xe Mỹ General Motors và
Chrysler, các nghị sĩ quốc hội Mike Mansfield, đại sứ CharlesYost, dân biểu
Sonny Montgomery, nhà hoạt động nhân quyền Marian Edelman với vài ký giả săn
tin.
Nhưng tất cả đã trở thành trò hề vô nghĩa, lố bịch trước bệnh tưởng tượng vĩ đại
của các đỉnh cao trí tuệ loài người, đang ngất ngưởng ngự trên chiếc ngai vàng
được xây bằng máu xương Việt từ năm 1930 tới nay. Còn gì trắng trợn và tàn nhẩn
hơn, qua cuộc đối thoại đầu tiên giữa Woodcock “ Tôi hy vọng cuộc viếng thăm
này, sẽ tạo được căn bản cho mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước “ và được từ
Nguyễn Duy Trinh tới Phan Hiền.. trả lời theo lệnh của Lê Duẩn “ không có tiền,
thì không có tin tức gì về lính cả “.Tóm lại theo VC, thì Hoa Kỳ phải bồi thường
chiến tranh trước như đã ký trong hiệp đinh Paris 1973, rồi mới nói tới chuyện
kiếm xác lính Mỹ mất tích ‘.Nhưng Woodcock lúc đó đang đại diện cho nước Mỹ, đã
thẳng thắng trả lời với Bắc Bộ Phủ “ HIỆP ÐINH PARIS ÐÃ BỊ BỨC TỬ, VẤN ÐỀ CÒN LẠI
CỦA VN HÔM NAY, CHỈ ÐƯỢC GIẢI QUYÊT BẰNG LÒNG NHÂN ÐẠO MÀ THÔI “.
Thế là trận mưa đô la Mỹ sẽ vĩnh viển chẳng bao giờ đổ xuống cung đình Hà Nội
như lòng ham muốn vô đáy của các chóp bu luôn bệnh hoạn tưởng tượng. Nhưng vốn
là những kẻ lì lợm tráo trở, nên vừa “ thua me đã vội bày bài cào “ để gở bằng
cách lại sử dụng những bộ xương khô của lính Mỹ mất tích trong cuộc chiến vừa
qua, để làm “ mồi câu cá mập “.Ðồng thời còn hứa hẹn sẽ trao cho Hoa Kỳ tất cả
những tin tức và dử kiện về xác Mỹ càng sớm càng tốt, nếu có tiền bồi thường
chiến tranh.
Sau này qua các tài liệu mật được công bố, cho biết lúc đó Carter rất chú
trọng tới VN, không phải do “ lòng thương lính Mỹ mất tích “ mà vì các tiềm lực
tài nguyên thiên nhiên, trong đó có dầu hỏa đã được phát hiện ngoài thềm lục địa
VNCH từ trước tháng 4-1975. Riêng đối với bọn tài phiệt tư bản lái buôn lái
súng chỉ biết có tiền, phần lớn là chủ ngân hàng, hảng xe, các cơ sở thương mại,
hảng dầu của Hoa Kỳ.. thì mờ mắt trước lời rao hàng của VC về “ lao động rẽ,
tài nguyên nhiều..” nên gây áp lực chính phủ Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận giao
thương với VC, vì sợ món hàng quí trên lọt vào tay tư bản Nhật và Âu Châu.
Ðể tỏ thiên chí và cũng cám ơn về 12 bộ xương khô do Woodcock mang về Mỹ, nên
Carter vào tháng 5-1977, đã chấp thuận giúp VC nhiều vấn đề, từ ngân khoản 5
triệu mỹ kim nhân đạo, cho tới sự đồng tình với Liên Hiệp Quốc, qua chương
trình cho vay tiền phát triển VN.
Giữa lúc hai phái đoàn Mỹ (Holbrooke) và VC (Phan Hiền) đang thương thảo tại Ba
Lê, thì vào ngày 19-12-1977, một vụ án gián điệp ngay trên đất Mỹ được FBI khám
phá, đó là vụ Ronald Humphrey và David Trương (con trai Trương Ðình Dzu, một
tên thân cộng từng bị chính phủ VNCH câu lưu trước năm 1975). Thế là qua áp lực
của quốc hội, bắt buộc TT Carter hủy bỏ việc giao thương giữa hai nước, đồng thời
chấm dứt luôn việc LHQ cho vay tiền và các dự án đầu tư tại VN. Tới lúc đó từ
Lê Duẩn, tới Phạm văn Ðồng, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh cả Võ Nguyên Giáp.. mới
sáng mắt, nên lại lặn lội sang Trung Cộng, Liên Xô, Ấn Ðộ, Tây Âu.. để cầu viện,
nhưng ở đâu cũng bị từ chối vì thái độ kiêu căng phách lối, dù đang đi nhờ
thiên hạ giúp đỡ.
Từ đó VC mới mặn nồng trở lại với Liên Xô. Cuối tháng 5-1977 gia nhập khối
Comecon do Nga làm chủ. Ngày 6-6-1977 Phạm Văn Ðồng gặp tổng bí thư LX là
Leonid Brezhnev, để ký hiệp ước liên kết hữu nghị Việt-Xô. Ðây là một thành tựu
vĩ đại của đảng ta, vì Nga hứa là sẽ giúp VC từ A-Z, trong đó có 40 công trình
xây dựng. Cuối tháng 7-1977, một phái đoàn quân sự Nga gồm 21 nhân vật quan trọng
của đảng, bí mật tới các hải cảng Ðà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu và rồi
tháng 10-1977, VC ký một thỏa ước đặc biệt với Nga, để nước này “ chở các chiến
lợi phẩm thu được của VNCH “ như thiết giáp, máy bay.. sang bán cho Ethiopia
(Châu Phi), để mua lại những quân dụng cu của Nga, gồm 2 tàu ngầm, một khu trục
hạm, một số tuần duyên hạm và một phi đội chiến đấu cơ Mig-21. Từ đó VC theo hẵn
LX, mở màn cho hai cuộc chiến biên giới Việt-Khmer đỏ (12-1978) và Việt-Hoa
(2/1979-1990).
Tháng 1-1979, Carter cùng Ðặng Tiểu Bình lúc đó đang nắm quyền Trung Cộng bình
thường hóa bang giao, còn Nga và VC thiết lập liên minh quân sự. Không phải nhờ
lịch sử đã vô tình xếp đăt, mà thực sự chính Brzezinaki kẻ có khuynh hướng thân
Tàu, khi đá được Vance lên nắm quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ, đã ngụy tạo bức
tranh chính sách mập mờ giữa Hoa Kỳ-Ðài Loan, để Ðặng vin vào đó mà có cớ hợp
tác với Mỹ.
Tháng 1-1979 Ðặng sang thăm Carter tại Hoa Thịnh Ðốn, đồng lúc Mỷ-Nga đang
thương thuyết ký hiệp ước SALT II tại Jerusalem (Do Thái) và cao điểm là lúc
Hoa Kỳ đang bán vũ khí chiến lược cho Ðài Bắc. Nhưng Ðặng vẫn điềm tĩnh che lấp
sự gượng ép bên trong, để ký kết liên minh với Mỹ vì không còn con đường nào lựa
chọn. Sáng ngày 30-1-1979, tại Tòa Bạch Ốc ở Hoa thịnh Ðốn, Carter riêng rẽ gặp
Ðặng và nhờ viên thông dịch duy nhất, dịch ngay tại chổ bức thơ ứng khẩu có nội
dung “ CẢM TƯỞNG CỦA TÔI LÀ QUYẾT ÐỊNH NÀY ÐÃ CÓ SẲN TỪ LÂU. ÐÓ LÀ VC PHẢI BỊ
TRỪNG PHẠT”. Tóm lạị tổng thống Carter rất quỷ quyệt dùng bức thơ miệng
không phổ biến, để vừa đồng thuận với Tàu đỏ tấn công VN, gián tiếp dằn mặt những
đỉnh cao trí tuệ kiêu căng phách lối tại Bắc Bộ Phủ. Ðồng thời chạy được tội
trước nhân loại sau này, khi dư luận thế giới lên án Trung Cộng bá quyền, tấn
công VN tại diễn đàn LHQ.
Rốt cục chỉ có dân lành ba nước Việt-Miên-Tàu lãnh chịu nổi đau bom đạn, cùng với
sự tàn phá kinh khiếp của chiến tranh. Hưởng lợi nhiều nhất trong cảnh “ trai
cò tương tranh “, là Mỹ, quốc gia Tây Phương duy nhất “ ca tụng việc Trung Cộng
tấn công VN “ giữa ngàn muôn thóa mạ của cả thế giới. Nhưng ghê tởm nhất là
trong buổi họp của Ðại Hội Ðồng LHQ vào tháng 9-1979, Hoa Kỳ đã trân tráo bỏ
phiếu ủng hộ Khmer Ðỏ của Polpot, vẫn đại diện cho Kampuchia trong tổ chức này.
Bài học lịch sử muôn đời vẫn còn đó, cho thấy Người Mỹ hay bất cứ người nào,
cũng chỉ biết có quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Ngoài ra không bao giờ cần
biết tới danh dự, đạo đức hay dư luận gì hết. Giản dị như vậy, thế mà người Việt
(Quốc Gia cũng như Cọng Sản), chẳng bao giờ thấu triệt, khi quan hệ chính trị với
siêu cường. Tất cả là chiến lược chiến thuật của Mỷ đó, hay nói nôm na là, khi
cần thì gì cũng cho nhưng lúc hết xài rồi, có ai dại vồn vã tiếp đón những thứ
phế thải dư thừa ?
Từ năm 1978-1986, vì tranh chấp với Trung Cộng và Khmer Ðỏ, lại căm thù Mỹ hắt
hũi, nên Hà Nội đã rước Nga vào VN, mặc dù trong trận chiến đẳm máu tại biên giới
Hoa Việt vào tháng 2-1979 sau đó kéo dài tới đầu thập niên 90, LX chỉ phản ứng
bằng nước bọt, khi hai nước đã ký liên minh quân sự. Chính sự hiện diện của Nga
tại Ðông Dương và trên hết là sự gia tăng lực lượng Hải quân, kể cả Tiềm Thủy Ðỉnh
trong vịnh Cam Ranh, đã làm Hoa Kỳ phải xét lại chiến lược ‘ đở lưng’ cho Trung
Cộng, khi Ronald Reagan của đảng Cộng Hòa thắng cử lên làm tổng thống Mỹ, thay
Carter của đảng Dân Chủ. Người Mỹ qua Reagan, lại tái xác nhận liên hệ với Ðài
Loan, để tiếp tục bán vũ khí lên tới hàng chục tỷ đô la. Ðể trả đủa, Trung Cộng
lại quay về với Liên Xô từ 24-3-1982. Hai nước bắt đầu nối lại sự phát triển
thương mại, kinh tế, văn hóa và cao điểm vào tháng 5-1985, Mạc Tư Khoa đồng ý
giúp Bắc Kinh canh tân 17 xưởng kỹ nghệ cũ và xây dựng thêm 7 cơ xưởng mới, đồng
thời ký hiệp ước gia tăng thương mại giữa hai nước lên 12 lần.
Trước tình trạng công khai trở mặt của các đàn anh, Hà Nội chỉ còn cách muối mặt,
tìm đủ mọi cách quay về làm đầy tớ cho Trung Cộng, từ cuối tháng 12-1985 cho tới
nay vẫn còn là đầy tớ rất trung thành với chủ. Mục đích cũng chỉ để mong giữ đảng
và quyền lực xiết cổ họng đồng bào nô lệ cả nước với một cổ ba tròng ‘ VC, TC
và tư bản thế giới ‘.
Tháng 1-1985 gần đúng 10 năm người Mỹ tháo chạy nhục nhã tại Nam Vang và Sài
Gòn, Hoa Kỳ quay lại Ðông Nam Á , nói là để ngăn chận sự bành trướng của Nga lẩn
Tàu. Ðây cũng là thời điểm đánh dấu nổ lực mới của Việt Cộng, trong canh bạc mời
gọi Hoa Kỳ trở lại VN, trước tiên bằng các phái đoàn tìm kiếm xương khô lính Mỹ
mất tích. Rồi giấc mộng theo Mỹ chính thức trở thành sự thật vào tháng 4-1991,
khi Tổng thống .G.Bush (cha) ‘ Bải bỏ lệnh cấm vận VN ‘.Kế tiếp Tổng thống Bill
Clinton ‘ Bình Thường Quan Hệ Ngoại Giao’ giữa hai nước vào năm 1995 và ký ‘ Hiệp
ước Thương Mại Song Phuơng Việt-Mỹ’’năm 2001.
Cuối cùng mới có cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của Thủ Tướng VC Phan Văn Khải, từ ngày
19-6-2005 tới 25-6-2005, nói là tới nhờ Mỹ giúp vào WTO, rồi Nguyễn Minh Triết,
Nguyễn Tấn Dũng., Trương tấn Sang..kể luôn Nguyễn Phú Trọng. liên tiếp qua Mỹ
như đi chợ, để cầu thân mua bán.. nhưng mặt thật sang để cam kết làm hết những
điều khoản bí mật chưa làm theo lời hứa. Tất cả chỉ có trời biết, đất biết,
chóp bu giữa Mỹ và CSVN biết mà thôi. Nhưng chắc chắn có một điều mà mọi người
đều rõ, đó là VC đang đồng thuận với Mỹ trong vở kịch ‘ VC sẽ chống Tàu đỏ cứu
nước ‘ như trước đây Hồ Chí Minh đã diễn với Pháp trong vở tuồng ‘ chín năm chống
thực dân Pháp cứu nước ‘ Có như vậy, Mỹ bây giờ giống như Pháp lúc trước, một lần
nữa lại vực dậy một cái xác chết là đảng CSVN trong năm 2014, để tiếp tục tô
son điểm phấn, vừa làm tôi tớ cho đế quốc, vừa làm chủ một đất nước và dân tộc,
thực tế chỉ còn có cái tên gọi và tên in sẳn trên bản đồ thế giới mà thôi !
Tháng 1-2016, đảng bầu bán bốn chóp bu
trong k đại hội TUĐ XII. Ngoài những trận đấu đá, thanh toán lẫn nhau giữa các
cá nhân và phe phái Trong, Sang, Dũng Hùng..tồi bại và nhục nhã đến độ Nguyễn
Sinh Hùng, chủ tịch quốc hội VC phải bò qua tận Bắc Kinh, lạy Tập Cận Bình và
Mao Trạch Đông chết, để cầu xin bợ lưng, tiến chức.
Bộ mặt thật của CSVN sau bốn mươi mốt năm là thế đó ! chỉ tội nghiệp cho Thân
phận dân tộc VN , không biết bao giờ mới thoát đưọc ách nô lệ của VC và
giặc Tàu .
Viết từ Xóm Cồn Hạ
Uy Di
Cuối tháng 12-2015
MƯỜNG GIANG.
__._,_.___