DỰ LUẬT
H.O
của Ông
NGUYỄN NGỌC BÍCH và Bà KHÚC MINH THƠ
Đây là một
số dữ kiện liên quan đến việc ra đời của chương trình HO mà một số anh em trong
GĐ569KQ đã được đưa sang MỸ nhờ có chương trình này,xin mời các bạn đọc để cho
ân oán phân minh về việc một số người đã kể công nhờ họ mà các cựu tù cải tạo
CS mới sang Mỹ được.NHC
Lịch sử sẽ ghi
nhận những hy sinh xương máu của họ và không ai đươc phép lợi dụng danh nghĩa
anh hùng của họ cho những ý đồ bất chính.- Đỗ Ngọc Uyển
Lời nói đầu: Ngày 23/9/2008, trên trang báo điện
tử Ánh Dương có đăng bàì của ông Huy Phương phỏng vấn ông giáo sư Nguyễn Ngọc
Bích: “về hoạt động của Bà Khúc Minh Thơ và Hội Gia đình Tù Nhân Chính
trị cho chương trình H.O.” Trên Người Việt Online, ngày 1/11/2008, ông
Huy Phương đã viết bài “Tạp ghi Huy Phương: Chút ơn nghĩa cuối đời.”để
trách cứ những người tù chính trị Việt Nam đã vô ơn đối với bà Khúc Minh Thơ.
Vì nhận thấy có những điều trả lời của ông Nguyễn Ngọc Bích không đúng sự thật
và lời trách cứ của ông Huy Phương là hồ đồ. Với tư cách một người lính và cựu
tù chính trị, tôi viết bài này để trình bày những sự thật về sự kiện người tù
chính trị Việt Nam, một sự kiện mang dấu ấn lịch sử.
1- Trong bài phỏng
vấn ông Nguyễn Ngọc Bích “về hoạt động của Bà Khúc Minh Thơ và Hội Gia
đình Tù Nhân Chính trị Việt Nam cho chương trình H.O.” do ông Huy
Phương thực hiện và được đăng lại trên trang báo điện tử Ánh Dương ngày
23/9/2008, có một đoạn ông Nguyễn Ngọc Bích đã nói nguyên văn như sau:
“…Vào ngày
30-4-1987 chúng tôi cùng bà Khúc Minh Thơ, tức là Nghị Hội với Hội Gia Đình Tù
Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức một buổi tiếp tân ở trên Quốc Hội. Buổi tiếp
tân này vừa đánh dấu ngày 30/4 đau buồn của đất nước, vừa đưa vấn đề Việt Nam
cho Quốc Hội họ nghe. Dịp may trong buổi tiếp tân đó là có sự hiện diện của hai
vị Thượng Nghị Sĩ quan trọng là ông Bob Dole và Edward Kennedy… Buổi tiếp tân tại
Quốc Hội hôm đó, chúng tôi (NNB) làm MC, khi chúng tôi giới thiệu hai vị TNS
này thì chúng tôi cũng dùng một câu rất được lòng hai ông ấy… Khi giới thiệu,
chúng tôi đã giới thiệu rằng hai vị đây là hai ứng cử viên tương lai có thể làm
tổng thống…. cả hai vị đều hài lòng nên có hứa rằng là họ sẽ tiếp tay với chúng
tôi làm chuyện can thiệp cho các tù nhân chính trị đang bị giam giữ.
Họ giữ lời hứa,
ngay ngày hôm sau 1/5/1987, họ bảo các phụ tá của họ ngồi lại với nhau viết ra
cái dự luật sau này gọi là dự luật H.O. Chúng tôi đã đi theo từ giai đoạn đầu
tiên, từ lúc thành dự luật, rồi nó đi qua nhiều chặng trong Quốc Hội. Chúng tôi
thường xuyên lên Quốc Hội gõ cửa, không chỉ riêng hai ông Bob Dole hay Kennedy,
mà còn nhiều vị Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu khác… ”
Ông giáo sư Nguyễn
Ngọc Bích đã nói không đúng sự thật. Cái mà ông Bích gọi là dự luật H.O
ngày 1/5/1987 chỉ là cái Nghị Quyết số S.RES.205 Title: A
resolution calling for the release of political prisoners by the government of
Vietnam. (Một nghị quyết kêu gọi chính phủ cộng sản Việt Nam thả những người tù
chính trị.) Nghị quyết này do 6 Thượng Nghị Sĩ đồng bảo trợ trong đó có hai Thượng
Nghị Sĩ Bob Dole và Edward Kennedy.
Không chỉ
riêng có Thượng Viện Hoa Kỳ ra nghị quyết kêu gọi cộng sản thả tù chính trị,
vào ngày 26/5/1987, tại Hạ Viện Hoa Kỳ, Dân Biểu Bob Dornan cùng 58 Dân Biểu
khác cũng đã đồng bảo trợ một Nghị Quyết yêu cầu cộng sản VN thả những tù nhân
chính trị ra. Nghị Quyết này mang số H.RES.212 Title: A resolution concerning
the release of political prisoners by the government of Vietnam. (Một nghị quyết
liên quan đến chính quyền cộng sản thả những người tù chính trị.)
Thực ra, không
phải đợi cho đến ngày 1/5/1987 nhờ có ông Bích và bà Thơ vận động với hai ông
Thượng Nghị Sĩ Bob Dole và Edward Kennedy nên mới có được cái gọi là Dự Luật
H.O. tưởng tượng ra đời để can thiệp cho những người tù chính trị ra khỏi nhà
tù cộng sản và đi tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa kỳ đã làm công việc
này từ lâu, chậm nhất là từ năm 1982. Cao Uỷ Phủ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính
phủ Mỹ đã có những chuẩn bị để tiếp nhận tù chính trị Việt Nam từ tháng 7/1982.
Sau đây là bản tin được đăng trên tờ New York Times số ra ngày July 1, 1982.
U.S. and U.N
Said to Study Vietnam Resettlement Offer
Special to the
New York Times
Published July
1, 1982
A State
Department official said today that the Reagan administration was working with
the United Nation High Commission for Refugees “to determine whether the
Vietnamese are in fact prepared to release persons from re-education camps for
resettlement abroad.”(Hôm
nay, một viên chức Bộ Ngoại Giao nói rằng chính quyền Reagan đang làm việc với
Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc “để xác định xem Viêt Nam có thực sự chuẩn bị thả
những người bị giam cầm trong các trại cải tạo để họ đi định cư tại ngoại quốc
hay không.”)
The official
estimated that there were about 100,000 people in so-called re-education camps,
many of them confined because of their past ties to the United States. (Viên chức này ước tính rằng có khoảng
100,000 người bị giam giữ trong những cái gọi là trại cải tạo, nhiều người
trong số họ đã bị giam cầm vì có những liên hệ chặt chẽ với Hoa Kỷ.)
Nhìn lại thật kỹ
những chuyển động chuẩn bị cho việc thả những người tù chính trị để họ đi định
cư tỵ nạn tại Mỹ thì thấy những diễn tiến như sau: Từ đầu thập niên 1980, cộng
sản đã bắt đầu di chuyển những người tù từ Bắc vào Nam, những người mà cộng sản
đã quyết tâm đưa đi đầy ải để giết chết trong các “trại cải tạo” dã man tại Miền
Bắc. Tiếp theo đó, cộng sản cũng bắt đầu lần lượt thả tù ra. Cũng vào khoảng thời
gian này, Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan đã bắt đầu nhận đơn xin tỵ nan và cấp
LOI (Letter of Introduction) cho những người tù đã được thả ra để chuẩn bị lập
hồ sơ xuất cảnh. Kể từ năm 1984 trở đi – nghĩa là 3 năm trước khi có cái Dự Luật
H.O. ngày 1/5/1987 tưởng tượng của ông Nguyễn Ngọc Bích và bà Khúc Minh Thơ ra
đời - việc gửi đơn sang toà Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan để xin đi tỵ nạn là công
khai và chính thức; chẳng phải gửi “chui” hay giấu giếm gì cả, cứ việc gửi thẳng
tại bưu điện Saigon. Vào tháng 10/1989, cộng sản ra thông báo và bắt đầu nhận
đơn xin xuất cảnh và cấp phát sổ thông hành (passport) cho người cựu tù đi Hoa
Kỳ theo đơn xin. Khi đó, người cựu tù đã có sẵn trong tay cái Giấy Giới Thiệu
(LOI/Letter of Introduction) của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan cấp để góp vào
hồ sơ xuất cảnh. Cũng vào thời gian đó, Mỹ lập văn phòng phỏng vấn tại Sàigòn.
Mỗi tháng Hoa Kỳ phỏng vấn và nhận hơn một ngàn gia đình cựu tù chính trị Việt
Nam vào Mỹ liên tục trong hơn 4 năm cho tới ngày 3/2/1994, khi những người cựu
tù cuối cùng và gia đình bước chân lên máy bay thì tổng thống Hoa Kỳ Bill
Clinton tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cộng sản VN và chuẩn bị thiết lập bang giao. Tất
cả mọi việc diễn tiến rất có lớp lang, gần như theo một lộ trình đã được thoả
hiệp ngầm trước đó.
Như đã nói ở
trên, kể từ năm 1984 trở đi, việc gửi đơn sang Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan để
xin đi tỵ nạn là công khai và chính thức; nhưng cũng có một số người tù chính
trị khi được thả ra đã e ngại, hoặc vì lý do nào đó đã không gửi đơn qua bưu điện
mà tìm cách gửi qua Hoa Kỳ nhờ bạn bè, người thân hay bà Khúc Minh Thơ chuyển
tiếp đến toà Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan. Đó là “công ơn” của bà Khúc Minh Thơ đối với
một số anh em cựu tù nhân chính trị mà ông Nguyễn Thanh Ty đã coi đó là “bát
cơm phiếu mẫu.”
Đúng là bà Khúc
Minh Thơ và ông Nguyễn Ngọc Bích đã có công đi vận đông vất vả từ Quốc Hội sang
Bộ Ngoại Giao đến chính giới nên mới có cái dự luật “H O.” tưởng tượng ngày
1/5/1987. Không ai phủ nhận công lao to lớn đó của hai vị này; nhưng khi tra cứu
và tìm hiểu kỹ thì thấy rằng ông Bích và bà Thơ đã vất vả đi gõ những cánh cửa
đã mở toang ra sẵn từ trước để mời quý vị vào dùng coca cola ướp lạnh, nghỉ mệt,
chụp hình kỷ niệm để sau này trưng bày và nhận những lời cảm ơn rất lịch sự kiểu
Mỹ…; có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ đã đi tìm cách trả món nợ quốc gia đối với đồng
minh trong cuôc chiến “closing out this nation’s debt to its
Indochinese wartime allies” từ rất lâu, trước khi ông Nguyễn Ngọc Bích
và bà Khúc Minh Thơ đến gõ cửa văn phòng họ.
Như đã trình bày
ở trên, không có cái gọi là dự luật H.O. ngày 1-5-1987 nào cả, mà chỉ là cái
Nghị Quyết số S.RES.205 yêu cầu cộng sản thả tù chính tri. Cái gọi là dự luật
H.O. chỉ là một món hàng giả do ông Bích và bà Thơ vẽ ra để đánh tráo một sự kiện
lịch sử.
Viêc người tù
chính trị ra đi muộn là do cộng sản gây khó khăn kể từ năm 1982 như ông Funseth
đã nói trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Nguyễn Khanh của RFA nhân dịp kỷ niệm
30 năm ngày 30/4/75. Ông Robert Funseth đã nói nguyên văn như sau: “…và ngay
trong buổi đầu gặp gỡ với họ, (vào năm 1982) tôi được thông báo là trong số những
người Hoa Kỳ muốn đón sang Mỹ định cư, thành phần tù nhân chính trị là diện khó
nhất.”
Hoa kỳ là một quốc
gia gồm những di dân và người tỵ nạn. Từ rất lâu, Hoa Kỳ đã có những đạo luật về
di dân và tỵ nạn; nhưng sau ngày 30/4/1975, để đáp ứng với làn sóng hàng triệu
người tỵ nạn Đông Dương, đặc biệt là người Việt Nam, Quốc Hội và Chính Phủ Hoa
Kỳ đã ban hành 3 đạo luật về Đinh Cư và Tỵ Nan (Three Acts have facilitated the
immigration and resettlement of Southeast Asian refugees) sau đây:
Đạo luật thứ
nhất – Indochina
Migration and Refugee Act of 1975 – University of California Irvine
Southeast Asian Archive đã ghi lại trường hợp ban hành đạo luật này như sau:
“…In fact, one
public opinion poll taken when Saigon fell in 1975 showed only 36% of the
respondents in favor of Vietnamese immigration, fearing loss of job and
increase public spending. However, President Gerald Ford and other public
figures, including people who had been opposed to the war in Vietnam, strongly
supported the refugees. Congress allocated resettlement aid and passed the 1975
Indochina Migration and Refugee Act, which allowed the refugees to enter the
United States under a special migration and “parole” status...” (Thực vây, một
cuộc thăm dò dân ý khi Saigon sụp đổ vào năm 1975 đã chỉ có 36% người được hỏi
đã đồng ý nhận người di dân Việt Nam, vì họ sợ mất việc làm và tăng chi tiêu của
công. Tuy nhiên, tổng thống Gerald Ford và những nhân vật quan trong của Hoa Kỳ
kể cả những người đã chống đối cuộc chiến Việt Nam cũng mạnh mẽ ủng hộ những
người tỵ nạn. Quốc Hội đã phân phối ngân khoản tái định cư và thông qua Đạo Luật
Đinh Cư và Tỵ Nạn Động Dương năm 1975, nó cho phép người ty nạn nhập vào Hoa Kỳ
theo một quy chế nhập cư đặc biệt.)
Đạo luật thứ
hai – Indochina
Migration and Refugee Assistance Act of May 23, 1975. This Act
established a program of domestic resettlement assistance for refugees who fled
from Cambodia and Vietnam. (Đạo Luât Trợ Giúp Di Dân và Tỵ Nạn ngày 23 tháng 5
năm 1975. Đạo luật này thành lập một chương trình trong nội địa để trợ giúp cho
người tỵ Nạn đến từ Cambodia và Việt Nam.)
Đạo luật thứ
ba – The
Refugee Act of 1980 – This Act created The office of Refugee
Resettlement, which administers programs and services for refugees within the
U.S. Individual states play a central role in the resettlement process and are
required to have plan for refugee assistance in order to receive federal
funding… The Refugee Act of 1980 was passed to set up systems to deal with
increasing number of refugees from Vietnam and other countries of the
world. (Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 - Đạo luật này thành lập Văn Phòng Tái
Định Cư Tỵ nạn để quản trị các chương trình và dịch vụ cho người tỵ nạn trong nội
địa nước Mỹ. Các Tiểu Bang của Hoa Kỳ giữ vai trò trung tâm trong phương cách
tái nhập cư và đòi hỏi phải có kế hoạch trợ giúp tỵ nan để được nhận ngân khoản
trợ cấp từ Liên Bang…Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 được thông qua để thiết lập một hệ
thống nhằm đối phó với sự gia tăng số người tỵ nạn từ Việt Nam và các nước khác
trên thế giới.)
Trên đây là 3 đạo
luật chính của Hoa Kỳ áp dụng cho tất cả các trường hợp đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ
sau ngày 30/4/1975 kể cả những người cựu tù chính trị Việt Nam, và không có cái
gọi là Dự Luật H.O do ông Nguyễn Ngọc Bích và bà Khúc Minh Thơ vận động để áp dụng
riêng cho những người tù chính trị Việt Nam. Ngoài 3 đạo luật trên đây, vào năm
1987, Quốc Hội Hoa Kỳ còn thông qua đạo luật Amerasian coming Home Act để đón
nhận các trẻ em lai Việt Mỹ trở về nhà.
Người tù chính
trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ là do Một Thoả Thuận (An Agreement) được
ký kết giữa Hoa Kỳ và Việt cộng vào ngày 29/7/1987 tại Hà Nội. Cái bút mà ông
Robert Funset dùng để ký cái thoả thuân đó với thứ trưởng Việt cộng Vũ Khoan đã
được ông Funseth, vì lịch sự kiểu Mỹ, tặng cho bà Khúc Minh Thơ để trưng bày
(display) và làm kỷ niệm vì bà Thơ và Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị đã nhận và
chuyển giúp nhiền ngàn hồ sơ xin tỵ nạn chính trị của các cựu tù nhân tới Toà Đại
Sứ Mỹ tại Thái Lan.
Sự kiện tù chính
trị Việt Nam là một sự kiện mang Dấu Ấn Lịch Sử. Do đó, mọi việc phải được
trình bày một cách nghiêm túc và trung thực. Chúng tôi ghi nhận bà Khúc Minh
Thơ đã có những quan tâm đặc biệt đến những người tù chính trị trong đó có Đại
Tá Nguyễn Bê, phu quân của bà, và làm trung gian chuyển tiếp hồ sơ xuất cảnh -
có thể lên đến nhiều ngàn - của một số anh em cựu tù nhân tới Toà Đại Sứ Hoa Kỳ
tại Thái Lan. Và chỉ có vậy mà thôi. Ơn nghĩa phải minh bạch và sòng phẳng.
Trong một đoạn
khác của bài phỏng vấn, ông Nguyễn Ngọc Bích có nói nguyên văn như sau: “…nếu
không có cái hội của bà Khúc Minh Thơ thì chương trình H.O. không biết ở cái
quy mô nào, có thể nó cũng xảy ra, nhưng ở quy mô rất nhỏ …”
Đọc câu này thì
phải hiểu rằng chính là nhờ bà Khúc Minh Thơ và cả ông Nguyễn Ngọc Bích nên mới
có chương trình H.O. quy mô lớn như thế và nếu không có bà Thơ và ông Bích thì
không có chương trình H.O. và nếu có thì nó cũng sẽ ở quy mô rất nhỏ. Đây chỉ
là lời suy đoán mơ hồ, không dẫn chứng cụ thể. Một giáo sư đại học Mỹ không làm
chuyện suy đoán như thế.
Chúng tôi tin chắc
rằng dù bà Khúc Minh Thơ và ông Nguyễn Ngọc Bích có vất vả đi vận động hay
không thì việc những người cựu tù chính trị ra khỏi nhà tù cộng sản và sang cư
ngụ tại Mỹ vẫn diễn ra theo đúng quy mô như nó đã diễn ra, bởi vì việc này phù
hợp với quyền lợi lâu dài của Mỹ. Sớm hay muộn, Mỹ phải trở lại Việt Nam, một vị
trí chiến lược, để bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế lâu dài của Mỹ trong
vùng Đông Nam Á. Trong tập Hồi Ức và Suy Tư của Trần Quang Cơ, thứ Trưởng Ngoai
Giao cộng sản, đã viết đại khái rằng ngay trong tháng 5-1975, hai cơ quan ngoại
giao của Việt cộng và Hoa Kỳ tại Paris đã trao đổi thư từ bàn về việc thiết lập
bang giao giữa hai bên, nhưng không thực hiện được ngay lúc đó và phải đợi cho
tới hơn 20 năm sau mới thiết lập được bang giao bởi vì Việt Cộng “đang thừa thắng
xông lên,” đòi Mỹ phải bồi thường 3 tỷ mỹ kim. Và như tôi đã nói ở trên, khi những
người cựu tù cuối cùng bước chân lên máy bay để rời khỏi Việt Nam thì ngay lập
tức vào ngày 3-2-1994, tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cho cộng
sản và chuẩn bị thiết lập bang giao giữa hai bên. Cũng nên nhớ rằng ngay từ năm
1977, tổng thống Gerald Ford đã không phủ quyết mà còn ngầm ủng hộ để cho cộng
sản Việt Nam ra nhập làm thành viên Liên Hiệp Quốc; nghĩa là ngay sau khi tháo
chạy khỏi Việt Nam, Mỹ đã chuẩn bị trở lại Việt Nam, một vị trí chiến lược để bảo
vệ quyền lợi lâu dài của Mỹ tai vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã chạy khỏi
Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn không thể thoát ra khỏi Việt Nam. Do đó, vấn đề tù chính
trị Việt Nam là vấn đề nằm trong tâm can cuả Mỹ. Dù có là đệ tử trung kiên của
chủ nghĩa thực dụng, người Mỹ cũng không thể vác cái mặt mo đến Hà Nội lập Toà
Đại Sứ khi những người từng là đồng minh thân thiết của họ còn nằm trong nhà tù
cộng sản.
Ngoài
yếu tố thực dụng trên đây, còn một yếu tố tâm lý cũng quan trọng. Đó là tâm thức
tập thể của Hoa Kỳ đã nhận thấy rằng những người làm chính sách cao cấp của Hoa
Kỳ như Kissinger và Nixon đã phản bội một cách vô đạo đức những cam kết của Hoa
Kỳ đối với đồng minh VNCH.
Đây là một lỗ
đen trong lịch sử Hoa Kỳ (a black hole in the American history) không thể tẩy
xoá được. Không một người Mỹ nào có lương tri và tự trọng có thể hãnh diện mình
là người Mỹ trong ngày 30-4-1975. Lương tâm tập thể của Hoa Kỳ đã bị day dứt.
Do đó, ngay trong tháng 5/1975, những khuôn mặt quan trọng của Mỹ đã từng chống
đối cuộc chiến Việt Nam cũng đã ủng hộ manh mẽ người tỵ nạn Việt Nam. Quốc Hội
và Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng ban hành Đạo Luât Định Cư và Tỵ Nạn Đông
Dương (The 1975 Indochina Migration and Refugee Act) cho phép người tỵ nạn Việt
Nam vào Hoa Kỳ theo một quy chế nhập cư đặc biệt.
Do
đó việc đưa những người tù chính tri VN sang định cư tại Mỹ là để trả một món nợ
lương tâm và đạo đức của Hoa Kỳ đối với những người đã một thời là đồng minh
sát cánh chiến đấu trên cùng một chiến trường. Trả xong món nợ đạo đức và lương
tâm này, người Mỹ mới có được những giấc ngủ yên hàng đêm. “This has helped us
American sleep better at night.”
Mục đích trước hết
và trên hết của cuộc phỏng vấn do ông Huy Phương thực hiện là để cầu cứu ông
giáo sư Nguyễn Ngọc Bích biện hộ cái tính chính danh cho bà Khúc Minh Thơ - đã
bị Tổng Hôi Cựu Tù Nhân Chính Tri Việt Nam
chính thức phủ nhận bằng một tuyên cáo - để bà này đứng ra tổ chức
cái gọi là: “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.” Ông giáo sư càng cố gắng biện hộ
thì càng lòi ra những điều không đúng sự thật. như đã trình bày ở trên.
2- Trong bài “Tạp
ghi Huy Phương: Chút ơn nghĩa cuối đời,” đăng trên Người Việt Online, ngày
1//11/008, có một đoạn ông Huy Phương đã viết nguyên văn như sau:
“…Gần đây, luận
về một sự giúp đỡ trong quá khứ cho mgười tù chính trị, người ta đã phân tích,
đem chẻ sợi tóc ra làm tư để phủ nhận công ơn những ai đã giúp đỡ mình, dù nhiều,
dù ít, bằng cách này, hay bằng cách khác. Để khỏi mang ơn hay tránh mặc cảm là
kẻ vô ơn, người ta phải tự lừa dối với cả chính mình bằng cách vẽ lại hình ảnh
người ơn một cách xấu xa đến mức tàn tệ. Khi xúc động với lòng biết ơn người ta
vẽ nên hình ảnh bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái, khi bất bình người ta
sẵn sàng tô vẽ hình ảnh ấy thành một mụ phù thuỷ quái ác. Thật ra, chúng ta
không phải nhất thiết làm những chuyện như vậy, vì vào những ngày xa xưa ấy, những
người bỏ công sức, bằng cách này hay cách khác để tìm cách cứu vớt người lâm nạn,
không có ai mong mỏi sẽ có một ngày nào đó được đền đáp lại, dù chỉ là một câu
cám ơn đầu lưỡi."
Trong toàn bài
viết cũng như trong đoạn văn trên đây, ông Huy Phương đã vận dụng một thứ tình
cảm lê thê để trách móc một cách hồ đồ và gọi những người tù chính trị là kẻ vô
ơn đối với bà Khúc Minh Thơ, đại ân
nhân của ông Huy Phương.
Bằng một giọng
văn nỉ non, bi thảm, ông Huy Phương đã tô vẽ hình ảnh những ngượi tù chính trị
thành những hình nhân đau khổ, tuyệt vọng, mất hết niềm tin, chỉ còn biết ngồi
chờ bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái của ông Huy Phương đến cứu. Ngòi
bút của ông Huy Phương đã phản ánh ngược lại bản chất hiên ngang của các chiến
binh anh hùng của QLVNCH mà tôi đã chứng kiến qua 9 trại tù cộng sản từ Nam ra
Bắc. Chính bọn cai tù ác ôn cộng sản cũng phải thú nhận rằng: “bọn nguỵ
quân cứng đầu này không thể cải tạo được. Bọn tù binh Pháp, tù binh Mỹ còn biệt
sợ chứ bọn lính nguỵ này không biết sợ là gì.” Chính vì cái bản chất
hiên ngang, không chịu khuất phục mà người chiến binh sa cơ đã bị lũ cai tù vô
nhân tính cộng sản trả thù một cách rất dã man và đê tiện. Đã có biết bao nhiêu
anh em đã chết dưới đòn thù của cộng sản và trước khi chết anh em vẫn giữ được
hào khí anh hùng của người chiến binh QLVNCH.
Ở trên, tôi đã
trình bày một cách minh bạch và sòng phẳng về “công ơn” của bà Thơ trong việc
chuyển giúp nhiều ngàn hồ sơ xin xuất cảnh cho một số anh em cựu tù chính trị;
cũng như tôi đã chứng mình rằng cái Dự Luật H.O. chỉ là sản phẩm do ông Bích và
bà Thơ vẽ ra; và tôi cũng chứng mình bằng những văn bản và các sự kiện cụ thể rằng
việc vận động để người tù chính trị ra khỏi nhà tù và đi định cư tại Mỹ là do
chính phủ Mỹ chủ động từ đầu đến cưối để trả một món nợ quốc gia (this nation’s
debt) đối với đồng minh trong cuộc chiến (to its Indochina wartime allies.) Bà
Khúc Minh Thơ không có công đầu trong vụ này, tức là không phải vì có bà Thơ hô
hoán: “Có người rơi xuống giếng,” nên người Mỹ mới đem thang, đem dây tới cứu
như ông Huy Phương đã so sánh một cách ngớ ngẩn và gọi những người tù chính trị
là kẻ vô ơn một cách hàm hồ.
Người Mỹ đã tìm
cách trả món nợ quốc gia của họ (a nation’s debt” chậm nhất là từ năm 1982,
nghĩa là từ rất lâu trước khi bà Thơ hô hoán: “Có người rơi xuống giếng.” bằng
cái dự luật H.O. tưởng tượng ngày 1/5/1987. Bà Thơ đã đến sau, chạy chung quanh
cái giếng để hô hoán và cổ võ trong khi người ta đã bắt tay vào việc và đang cứu.nạn.
Dù sao thì cũng phải cám ơn bà Thơ vì những lời hô hoán này.
Bà Khúc Minh Thơ
hiện là Sáng Lập Viên và Thành Viên Hội Đồng Tư Vấn của “Hội Bảo Tồn Lịch Sử
& Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt” mà chủ tịch là bà Nancy Bùi, người đang có cơ
sở làm ăn với cộng sản tại Việt Nam và phó chủ tịch là luật sư Trần Mộng Vinh,
ông này đã ca tụng bọn lính cộng sản, quân đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế, là ái
quốc và có những lời lẽ súc phạm người lính VNCH. Với chức vụ quan trọng của
môt tổ chức gồm những người hai mang như trên và thường đi về Việt Nam và đã được
cộng sản cho mua nhà tại Vũng Tàu, chúng tôi có quyền nghi ngờ lập trường chính
trị của bà Khúc Minh Thơ.
Tôi đã đọc được
trên diễn đàn Internet một câu nói được coi là của bà Khúc Minh Thơ, xin ghi lại
nguyên văn như sau: “Tôi đem các anh qua
đây, mà các anh quậy phá quá, biểu tình tranh đấu tùm lum.”
Đây là câu nói
xúc phạm đến danh dự người tù chính trị và người lính Việt Nam Cộng Hoà mà cộng
sản rất thích nghe. Nếu đúng là bà Thơ đã nói câu này, bà phải có một lời xin lỗi
anh em cựu tù chính trị và người lính VNCH nếu bà còn mang danh nghĩa người Việt
quốc gia chống cộng.
Chúng tôi phải
cân nhắc cẩn thận những lời cám ơn dù là lời cám ơn đầu lưỡi như ông Huy Phương
nói, bởi vì đây là vấn đề Danh Dự và Tự Trọng. Không thể vì không nhịn nổi một
cơn thèm khát nhỏ – dù là ở hoàn cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản - để đưa
tay ra nhận một cái kẹo to bằng đầu ngón tay út để rồi phải mang ơn suốt đời
như ông Huy Phương, và coi “người ơn” đã cho mình cái kẹo là “bà Tiên nhiệm mầu
chan chứa lòng bác ái.” Dù bất cứ trong hoàn cảnh nào, người lính có danh dự và
tự trọng không làm chuyện đó.
Sự kiện tù chính
trị Việt Nam là một sự kiện mang dấu ấn lịch sử, phải được trình bày một cách
nghiêm chỉnh và trung thực. Mọi chuyện, kể cả ơn nghĩa, phải minh bạch và sòng
phẳng.
Đánh tráo một
sự kiện lịch sử là có tội đối với lịch sử. Những người lính VNCH đã hy sinh, đã
chiến đấu và cầm súng chiến đấu đến phút cuối cùng trong ngày 30-4-1975 và sa
cơ rơi vào tay địch trong trận cuồng phong của lịch sử là những anh hùng đã bảo
vệ quê hương thân yêu Miền Nam suốt 20 năm.
Không ai lấy
thành bại để luận anh hùng. Lịch sử sẽ ghi nhận những hy sinh xương máu của họ
và không ai đươc phép lợi dụng danh nghĩa anh hùng của họ cho những ý đồ bất
chính.
Đỗ Ngọc Uyển
Morgan Hill, California
Ngày 9 tháng 11 năm 2008
Mời các bạn xem khúc phim tài liệu v/v Nhật
đầu hàng Đồng Minh sau WW2.
This is an actual film made of the
surrender ceremony of the Japanese to McArthur in Tokyo Bay in September 1945.
Actual voice of the General. Never been shown to the general public before. We
always saw the "stills" but never the film itself.
Historical Footage: Japanese Surrender
Signing Aboard Battleship Missouri Sunday Sept. 2, 1945.
Click here: Japanese Surrender
<http://www.youtube.com/watch_popup?v=vcnH_kF1zXc&feature=player_embedded%3E;
S.RES.205
Latest Title: A resolution calling for the release of political prisoners by the Government of Vietnam.
Sponsor: Sen Kennedy, Edward M. [MA] (introduced 5/1/1987) Cosponsors (6)
Latest Major Action: 5/1/1987 Passed/agreed to in Senate. Status: Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment and an amended preamble by Voice Vote.
Latest Title: A resolution calling for the release of political prisoners by the Government of Vietnam.
Sponsor: Sen Kennedy, Edward M. [MA] (introduced 5/1/1987) Cosponsors (6)
Latest Major Action: 5/1/1987 Passed/agreed to in Senate. Status: Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment and an amended preamble by Voice Vote.
Jump to: Summary, Major Actions, All Actions, Titles, Cosponsors, Committees, Related Bill Details, AmendmentsAbstracts
Declares that the Government of the Socialist Republic of Vietnam should: (1) immediately release all political prisoners held as a result of their previous association with the Government of South Vietnam prior to 1975; (2) fulfill its commitment to negotiate their humane resettlement abroad or to rejoin family members outside of Vietnam; and (3) immediately resume processing of family reunification cases under the United Nations High Commissioner for Refugees' Orderly Departure Program.
MAJOR ACTIONS:
5/1/1987
|
Introduced in Senate
|
5/1/1987
|
Passed/agreed to in
Senate: Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment
and an amended preamble by Voice Vote.
|
5/1/1987:
Submitted in the Senate, considered, and agreed to without
amendment and an amended preamble by Voice Vote.
- OFFICIAL TITLE AS INTRODUCED:
A resolution calling for the release of political prisoners by the Government of Vietnam.
Sen Dole, Robert J. [KS] - 5/1/1987
Sen Durenberger, Dave [MN] - 5/1/1987
Sen Hatfield, Mark O. [OR] - 5/1/1987
Sen Helms, Jesse [NC] - 5/1/1987
Sen Pell, Claiborne [RI] - 5/1/1987
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 4 năm 2010
Morgan Hill,
California
H.O.: Một
Sự Lộng Giả Thành Chân
Đỗ Ngọc
Uyển
Ngày 25-2-2010,
trên báo Người Việt Online có một bài báo với tựa đề “20 Năm Chương Trình H.O.:
Mọi Người Viết Về Hát Ô”. Nguyên văn đoạn mở đầu của bài báo như sau: “Kể từ số
báo hôm nay, Người Việt bắt đầu đăng các tác phẩm liên quan đến đề tài Hát Ô.
Chương trình này sẽ kéo dài ba tháng từ nay đến ngày 1 tháng 6, 2010.”
Hưởng ứng chương
trình nói trên, ngày 26-2-2010, Ông Vũ Quý Hạo Nhiên đã viết một bài báo
có tựa đề “Cha đẻ chương trình H.O. không dùng chữ H.O.” được phổ biến trên
Người Việt Online có đoạn mở đầu như sau:
“Ông Robert
Funseth, nhà ngoại giao Hoa Kỳ được coi là cha đẻ của chương trình định cư cho
cựu tù nhân chính trị Việt Nam, giật mình ngạc nhiên khi được hỏi, Ông có biết
người Việt chúng tôi gọi chương trình đó là H.O. không?”
Ông Robert
Funseth giật mình ngạc nhiên là đúng bởi vì:
a/ Tại
sao người Việt lại đặt tên là H.O. cho một chương trình do người Mỹ chủ trương,
vận động và thực hiện? Người Mỹ đã đặt tên cho chương trình của họ là Tái Định
Cư Những Người Tù Chính Trị qua câu nói khẳng định sau đây của Ông Robert
Funseth được trích trong bài báo trên tờ New York Times ngày 15/10/1989 của ký
giả Seth Mydans có tựa đề: “The Nation; The Next Wave from Vietnam: A New
Disability.”
“…Resettling
this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its
Indochinese wartime allies. These people have been detained because of their
close association with us during the war, said Robert Funseth, the senior
deputy assistant secretary of state, who has spent most of this decade
negotiating their resettlement…” (…Tái định cư nhóm người này,
(những người tù chính trị), là một bước tiến tới việc khép lại món nợ của quốc
gia Hoa Kỳ đối với những đồng minh trong cuộc chiến Đông Dương. Những người này
đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với chúng ta trong cuộc chiến, trên đây
là lời phát biểu của ông Robert Funseth, phụ tá cao cấp của bộ trưởng ngoại
giao, người đã bỏ ra gần một thập kỷ để điều đình về việc tái định cư những người
tù chính trị...)
b/ Ông
Robert Funseth không phải là cha đẻ của chương trình H.O. như Ông Vũ Quý Hạo
Nhiên viết. Ông Funseth chỉ là người được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao trách nhiệm
điều đình với Việt Cộng để mang những người tù chính trị, cựu đồng minh của Hoa
Kỳ, sang định cư tại Mỹ.
Ngày 30/4/05,
đúng 30 năm sau ngày 30/4/1975, trả lời cuộc phỏng vấn của RFA do phóng viên
Nguyễn Khanh thực hiện, Ông Funseth đã nói những câu nguyên văn như sau:
“Khi tôi được
cử về làm việc cho Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao (năm 1982), kế
hoạch cứu tù chính trị được đặt trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật
Tự và nằm dưới sự hỗ trợ của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc.” Trong một đoạn khác
của bài phỏng vấn, Ông Funseth nói: “Riêng cá nhân tôi, tôi không thể nào
nghĩ rằng 7 năm sau ngày khó quên đó (30/4/1975), tôi lại được trao trách nhiệm
đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với
gia đình sang Hoa Kỳ định cư…”
Những câu nói
và trả lời trên đây của Ông Funseth chứng tỏ rằng “kế hoạch cứu tù chính
trị” để trả món nợ quốc gia của Hoa Kỳ đối với đồng minh của họ đã được hoạch định
trước khi Ông Funseth được bổ nhiệm làm việc tại Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của
Bộ Ngoại Giao. Chương
trình tái định cư những người tù chính trị Việt Nam tại Mỹ nằm trong chính sách
ngoại giao của Tổng Thống Hoa Kỳ nhằm phục vụ quyền lợi của Hoa Kỳ mà bộ ngoại
giao có nhiệm vụ thi hành. Ông Funseth không phải là thẩm quyền làm chính sách
(policymaker) để có thể hoạch định chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Do đó, Ông
Funseth không phải là cha đẻ của cái gọi là chương trình “H.O.” như Ông Vũ Quý
Hạo Nhiên đã viết. Ông Funseth chỉ là một phụ tá cao cấp của bộ trưởng ngoại
giao đã kiên trì trong tám năm với 25 cuộc họp để hoàn thành xuất sắc một nhiệm
vụ chính trị và ngoại giao khó khăn được giao phó. Và như Ông Funseth đã phát
biểu trong bài phỏng vấn nói trên: “Ngày ký kết cũng là ngày mà tôi hãnh diện
nhất trong 40 năm làm ngoại giao.”
Một nhà ngoại
giao được kính trọng như Ông Robert Funseth chắc cũng không muốn được tung hô
quá mức vai trò thừa hành nhiệm vụ được giao phó mà bất cứ ai ở địa vị của ông
Funseth cũng làm như Ông Funseth đã làm.
Những điều
trình bày trên đây cũng gạt bỏ những luận điệu tung hô của một số người tâng bốc
cho rằng nhờ có Bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị, vận
động nên Ông Robert Funseth mới đẻ ra cái gọi là Chương Trình H.O. để mang những
người cựu tù chính trị sang định cư tại Mỹ, và Bà Khúc Minh Thơ là ân nhân của
tập thể hàng trăm ngàn người tù chính trị. Câu chuyện hoang tưởng, mờ ám này tưởng
đã chìm xuống nhưng mới đây lại được hâm nóng lại qua báo chí và truyền hình. Để
làm sáng tỏ “công ơn” của Bà Khúc Minh Thơ đối với tập thể người cựu tù chính
trị, cách đây hơn một năm, vào dịp Bà Khúc Minh Thơ đứng ra tổ chức cái gọi là
“Ngày Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị” tại Dallas vào ba ngày đầu tháng 10/2008, tôi
đã viết hai bài có tựa đề: “Người Tù Chính Trị Việt Nam: Món Nợ của Hoa Kỳ Đối
Với Đồng Minh và Dự Luật H.O. của Ông Nguyễn Ngọc Bích và Bà Khúc Minh Thơ.”
Hai bài viết này hiện còn lưu trữ trên một số Websites.
Trong đoạn cuối
của bài báo nói trên, Ông Vũ Quý Hạo Nhiên đã viết:
“Vậy chữ
“H.O.” ở đâu ra? Có tác giả cho rằng khi người cựu tù cải tạo nộp đơn xuất cảnh
qua diện này, phía Sở Ngoại Vụ đánh số hồ sơ bắt đầu bằng chữ “H”. Hồ sơ số
5987, chẳng hạn, sẽ mang số “HO5987” trong đó có số không (số zero) dẫn đầu.
Nhưng người nộp đơn lại đọc số không thành chữ O và từ đó đẻ ra huyền thoại
“Humanitarian Operation” là một chữ mà theo Ông Funseth không có trong vụ này.” Điều này chứng tỏ rằng Ông Vũ Quý Hạo
Nhiên cũng chỉ viết lại những suy đoán mơ hồ của người khác chứ không truy
nguyên rõ lai lịch của cái nguỵ danh H.O..
Một cách chính
thức, không có cái gọi là Chương Trình H.O. nào cả. H.O. không phải là hai chữ
viết tắt của “Humanitarian Operation” mà chỉ là sự suy đoán từ các con số thứ tự
của các danh sách những người cựu tù chính trị đã được Việt Cộng cấp sổ thông
hành (passport) và trao cho phía Hoa Kỳ phỏng vấn để đi tỵ nạn tại Mỹ. Ví dụ
như các danh sách đầu tiên mang các số thứ tự H 01, H 02, H 03… gồm có hai phần:
phần mẫu tự là H và phần các con số hàng đơn vị là 01, 02, 03…, và khi đến con
số hàng chục thì không còn số không (zero) nữa mà trở thành H 10, H 11, H
12….
Sau đây là một
trích đoạn trong “Giấy Báo Tin” của Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh của nguỵ quyền
Việt Cộng tại Hà Nội gửi cho một người cựu tù chính trị.
GIẤY BÁO TIN
……………………………………………………
……………………………………………………
1/ Chúng tôi
đồng ý cho ông cùng 03 người trong gia đình được phép xuất cảnh đến nước Mỹ.
2/ Về việc cấp
hộ chiếu: chúng tôi đã cấp 04 hộ chiếu số: 28273, 28275, 28277, 28279 gửi kèm
theo.
3/ Chúng tôi
đã lên danh sách số H 10, số thứ tự 796, chuyển Bộ Ngoại Giao để chuyển chính
phủ Mỹ bố trí tiếp xúc phỏng vấn xét nhập cảnh.
Nếu gia đình
cần biết thời gian phỏng vấn tiếp xúc và kết quả duyệt xét nhập cảnh xin liên hệ
chính phủ Mỹ.
Xin thông báo
để ông yên tâm.
(Hiện phía Mỹ
đang phỏng vấn danh sách H 05) Hà Nội, ngày 10 tháng 7 / 1990
TRƯỞNG PHÒNG
X.N.C
Trần Thành
(Ký tên và ấn
dấu)
Những điều trình
bày trên đây đã chứng minh rằng không có cái gì chính thức gọi là “H.O.” cả.
“H.O.” chỉ là một nguỵ danh đã được sử dụng một cách lập lờ để chỉ một người “tù
cải tạo” nhằm xoá đi cái chính danh là người tù chính trị. Đây là trò
chơi chữ đểu giả của lũ Việt Cộng bởi vì không bao giờ chúng nhìn nhận rằng
chúng đã giam giữ những người tù chính trị mà chỉ đưa đi “cải tạo” những kẻ phạm
tội hình sự đối với chúng. Cho nên chính danh là điều quan trọng, và phải xoá bỏ
cái nguỵ danh “H.O.” trong từ vựng tiếng Việt.
Nếu dịch sang tiếng
Việt, những cái tên nửa Việt nửa Mỹ như: Chương Trình H.O., các ông H.O., ông
H.O. 1, bà H.O. 5, con ông H.O. 8…sẽ thành những cái tên ngô nghê, vô nghĩa
như: Chương Trình Chiến Dịch Nhân Đạo, các ông Chiến Dịch Nhân Đạo, ông Chiến Dịch
Nhân Đạo 1, bà Chiến Dịch Nhân Đạo 5, con ông Chiến Dịch Nhân Đạo 8….
Cái nguỵ danh
H.O. đã bị lộng giả thành chân từ 35 năm nay. Trong ngôn ngữ nói hàng ngày, người ta thường tự bào
chữa rằng vì “quen miệng” nên sử dụng những cái ngụy danh như: “các ông H.O.,
chương trình H.O., ngày giải phóng, học tập cải tạo, người tù cải tạo…”. Nhưng
khi đã viết ra trên giấy trắng mực đen lại là chuyện khác, người viết phải tôn
trọng độc giả và có nhiệm vụ phải truy nguyên, điều tra cho rõ sự thật và sử dụng
đúng chính danh chứ không thể sử dụng cái ngụy danh lập lờ “H.O.” nếu không muốn
bị coi là có âm mưu bất chánh hoặc thiếu lương tâm nghề nghiệp.
Trước đây, trên
một diễn đàn điện tử, có một ông nhà văn nhà báo đã viết: “Tên H.O. thực
ra như chúng ta đã biết xuất xứ từ cách đánh số của cộng sản bắt đầu từ H 01
cho đến H 09 thì trở thành H 10. Nhưng bây giờ đã thành danh thì ta cứ gọi là
H.O.”. Đây là kiểu ăn nói lấy được, bất chấp lương tâm nghề nghiệp của
nhà văn nhà báo là phải tôn trọng sự thật, đặc biệt là sự thật đối với lịch sử.
Việt Cộng và tay
sai có thể lợi dụng cái danh xưng H.O. không chính, không thực và lập lờ này
cho âm mưu đen tối của chúng để bôi đen chân dung người chiến binh QLVNCH. Cách
gọi bằng những cái tên tỏ vẻ giễu cợt như: “các Ông Hát Ô, các Ông Ếch Ô” là
xúc phạm đến danh dự của tập thể người tù chính trị, người lính VNCH.
Băng đảng Việt
Cộng không bao giờ nhìn nhận rằng những người đã bị chúng giam cầm phi pháp là
tù nhân chính trị và chúng luôn luôn tuyên bố rằng những người này là tội phạm
chiến tranh vì đã cầm súng chiến đấu chống lại chúng, và chúng thả những người
này ra và để họ đi định cư tại ngoại quốc là vì lý do nhân đạo chứ không phải
vì lý do chính trị. Do đó, Việt Cộng và tay sai có thể tuyên truyền lếu láo rằng
đảng của chúng đã tổ chức cả một chiến dịch nhân đạo (H.O., Humanitarian
Operation)) để cho những người tù chính trị và gia đình họ đi định cư tại ngoại
quốc. Nhưng thực tế và lịch sử đã chứng minh rằng Việt Cộng là một lũ vô nhân
tính làm sao chúng có nhân ái để làm chuyện nhân đạo.
Trước đây vài
năm, một tờ nhật báo tại San Jose đã đăng một loạt bài phỏng vấn với tựa đề “Cuộc
Chiến Nhìn Từ Hai Phía”, trong đó có bài phỏng vấn tên Tổng Lãnh Sự Việt Cộng
Nguyễn Xuân Phong tại San Francisco. Tên cộng sản này đã lợi dụng cuộc phỏng vấn
để mạt sát các anh em cựu tù chính trị là vô ơn đối với đảng và nhà nước của y.
Cũng tờ báo này đã xấc xược gọi Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California là
Hội Tù với ý đồ bôi đen chân dung người tù chính trị Việt Nam.
Sự kiện hàng
trăm ngàn người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ là một sự kiện
chính trị mang dấu ấn lịch sử. Sử dụng những cái nguỵ danh như “Hát Ô hay Ếch
Ô” khi nói hay viết là thái độ cợt nhả đối với một sự kiện lịch sử. Để bảo vệ danh dự và chỗ đứng trong
lịch sử của tập thể hàng trăm ngàn người tù chính trị, những người đã hy sinh
xương máu để bảo vệ quê hương Miền Nam thân yêu suốt 20 năm, phải loại bỏ cái
ngụy danh “Chương Trình H.O.” và thay bằng cái chính danh là “Chương
Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị”. Đây là một chương trình do
chính phủ Hoa Kỳ hoạch định và thực hiện với sự hỗ trợ của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên
Hiệp Quốc để trả một món nợ quốc gia của Hoa Kỳ đối với đồng minh của họ trong
cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và Việt
Nam.
Viết để đánh
dấu 20 năm một sự kiện lịch sử là điều rất nên làm. Nhưng chính danh là điều
quan trọng để hậu thế biết và hiểu đúng sự thật lịch sử. Dùng cái nguỵ danh
H.O. - một ám số của Việt Cộng - đã bị lộng giả thành chân để xuyên tạc một sự
thật lịch sử là có tội đối với lịch sử.
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 4 năm 2010
Morgan Hill,
California
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___