ÐÂY LONG GIAO và SUỐI MÁU
Những ngày đầu tại trại tù Long Giao tôi ở chung cùng tổ
với Tiểu Đoàn Trưởng TÐ.2/TQLC Trần Văn Hợp, Ban tư Lữ Ðoàn Quách Ngọc Lâm, TÐP
Trần Quang Duật ÐÐT Thủy Xa Doãn Thiện Niệm. Tổ kế bên gồm Trưởng phòng TLC/SÐ
Huỳnh Văn Phú, Trg.P Chính huấn Lê Đình Bảo và các Th/tá Trần Kim Hoàng, Lê Văn
Cưu, Phan Công Tôn. Thấp thoáng xa xa bên kia hàng rào kẽm gai là TÐTr/TÐ.9 Lâm
Tài Thạnh, T.ÐTr/TÐ.4 Trần Ngọc Toàn, CHP/TTHL Trần Xuân Bàng, Th/tá Phạm Văn Sắt
v.v..
Bài viết này không có mục đích nói về cuộc sống mới của
những người bị bắt buộc đầu hàng trong “Thiên Ðường CS”, nếu có chỉ là những
thoáng qua một vài kỷ niệm.
Một chuyện vui và đáng nhớ trong những ngày đầu tiên tại
Long Giao là VC bắt mỗi tổ phải luân phiên cắt cử một người ngồi gác tại cửa. Một
đêm kia vào khoảng 3 giờ sáng, phiên tôi gác, đang đập muỗi, nhìn trăng nhớ nhà
thèm điếu thuốc thì giật mình nghe tiếng la:
- Sĩ quan trực đâu?
Nghe giọng quen quen như của TÐT/TÐ.2 thường gọi tôi khi
xưa, như cái máy, tôi chạy vào xem có chuyện gì, nhưng tất cả đều ngủ cả, một
mình ta thức với trăng khuya! Lát sau, một con ma xách AK chạy đến lên đạn
quát:
- Anh lào na cái rì thế?
Tụi ma này có mặt bất cứ lúc nào và ở khắp nơi để bảo vệ
cho SQ/QLVNCH an giấc, biết có sự quan tâm của Cách Mạng nên một đêm nọ, lại
cũng nhằm phiên trực của tôi, chả hiểu mê thật hay mê giả mà tôi nghe tiếng la
của TÐP Trần Quang Duật:
- Gọi ngay B.52 cho tao
Quả thật chỉ một phút sau, ma lại hiện ra hỏi cái rì thế,
tôi bèn chống chế:
- Anh D nhớ vợ nên mơ ấy mà, vợ anh ấy tên là là..Bê-Thị-Năm-Hai.
Sau vài tháng nghe VC nói tầm-bậy tầm-bạ đủ 8 bài về Ðế
Quốc Mỹ xâm lược, Ngụy Quân, Ngụy Quyền tay sai, chúng tôi bị di chuyển về trại
tù Suối Máu, cái trại mà năm Mậu Thân 1968, ÐÐ1/TÐ2/TQLC của tôi đến để bảo vệ
cho những người anh em phía bên kia, nay tới phiên họ gác cho chúng tôi rong
chơi, không phải đi hành quân, đêm thì ăn ngày thì ngủ, chờ về sân vận động Cộng-Hòa
Saigon làm lễ mãn khóa (theo tin đồn rỉ tai). Ngày ấy đã đến, tôi được về trước,
Trần Văn Hợp là TÐT/TÐ Trâu Ðiên có nhiều tội ác với nhân dân nên bị ở lại học
tập tiếp.
Trong đêm tối, đoàn xe bít bùng chở tù trực chỉ Saigòn,
tôi thò tay vân vê cục đường móng-trâu mà Hợp nó nhét vào túi áo tôi lúc hai thằng
chia tay, bất chợt tôi muốn hát bài dân ca quan họ: Hợp ơi.. người ở.. đừng về..để
tớ về, nhưng chưa kịp hát thì đoàn xe rẽ vào Tân Cảng, đoàn tù bị đẩy xuống hầm
tầu, chẳng ai biết đi đâu, một giọng mỉa mai châm biếm của MX Huỳnh Văn Phú
vang lên:
- Về sân CH làm lễ mãn khóa mà đi bằng tầu thủy chắc mãn
đời không đến!.
Sau 3 ngày đêm, mỗi đêm dài 24 tiếng, tù sống chung với
nước biển pha nhớt dưới hầm tàu chở dầu cộng với nước đái và phân của tù thải
ra, tàu cập bến Vinh, một nón cối chĩa cái miệng vẩu xuống hầm tầu la to:
- Các anh đã được về miền Bắc XHCN
Quả thực đây là thiên đàng CS sau 3 ngày đêm nằm trong địa
ngục trần gian, tôi được vươn vai hít một hơi dài không khí vùng quê xứ Nghệ mặc
dù không khí có tí hơi xú-uế bác Hồ. Hít thở chưa xong một hơi thì lại bị đẩy
lên những toa xe lửa chở súc vật và xi-măng, nó còn khủng khiếp hơn ở dưới hầm
tàu, khi đoàn xe dừng lại, đổ tù xuống Yên Bái thì có nhiều người ngất xỉu! Có
2 trung tá đã chết vì ngộp thở MIỀN BẮC XHCN Năm 1976 thì VC lưu đày SQ cấp tá
và những thành phần bị coi là ác-ôn ra rừng núi miền Thượng Du BV như Lào Kay,
Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. Năm 1979 chiến tranh Việt-Trung bùng nổ, chiến tranh
giữa những người anh-em núi liền núi, sông liền sông, như môi với răng, răng CS
Tàu cắn môi CSVN, chúng sợ Ðặng Tiểu Bình bắt tay với sĩ quan QLVNCH..nên lại
chuyển tù CT về miền Trung Du như Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh v.v.. Chúng (VC) luôn
xáo trộn lung tung, những bạn cũ không còn ở với nhau thì tôi lại gặp thêm những
TQLC khác như các anh Th/tá Lê Văn Huyền, Th/tá Trần Kim Ðệ, T.Ð.Tr <http://T.xn--hda.Tr> /TÐ16 Ðinh Xuân Lãm, T.Ð.Tr <http://T.xn--hda.Tr> PB Tr/tá Ðoàn Trọng Cảo, CHT/TT/HL Tr/tá Nguyễn
Ðức Ân, Lữ đoàn Phó Tr/tá Huỳnh Văn Lượm ..
TRỞ VỀ MIÊN NAM.
Năm 1982 khởi đầu cho những đợt chuyển tù từ Bắc vào Nam
vớí số lượng đông hơn.Tôi được diện kiến ở Z.30D các niên trưởng như Ð/tá tỉnh
trưởngTôn Thất Soạn, Ð/tá Lữ đoàn trưởng LÐ.258 Nguyễn Năng Bảo và Tư lệnh Phó
Ð/tá Nguyễn Thành Trí.
Những MX kể trên là những người mà tôi ở tù chung hoặc
trông thấy, còn rất nhiều các anh em ở những trại khác tôi không gặp nên chưa
ghi ra đây, nhưng con số hơn 90% SQ binh chủng TQLC vào tù là không sai bao
nhiêu.
THẾ GIAN HƠN ÁO HƠN QUẦN.
Các cụ nhà ta ngày xưa có câu: Thế gian hơn áo hơn quần
.giá thử lột trần thì.. ai cũng như ai nên phải nói thật là CÁI ÐÓI trong tù đã
tạo lên nhiều tình trạng thê thảm. Người ta đồn rằng chỉ vì một miếng cơm cháy
mà hai ông Mặt-Chời đánh nhau! Tôi không tin điều đó, nhưng chuyện Cá đối bằng
đầu và những bộ mặt bôi vôi bị trôi đi thì có, nên xẩy ra nhiều trường hợp anh
em đồng đội bôi mặt đá nhau, thuộc cấp bôi C.. vào cấp chỉ huy.
Chuyện có thật 100%, tại đội 8 trại Vĩnh Quang A, tên đội
trưởng Ng..lùn, nguyên là TĐtr, một tên tù hắc ám và mất dậy nhất, đang đêm
đông lạnh lẽo bị đàn em cùng màu áo tên Ð..đem cứt bỏ vào chỗ nằm của hắn! Tên
Ng..lăn lộn với cứt suốt đêm, mùi xú uế lan ra làm khổ lây những người nằm gần
hắn, sáng ra nó xin cai tù cho ở lại trại để xúc miệng, nhưng cái tên Ng..lùn
thì làm sao rửa cho sạch!
Bụt không lên tòa thì gà mổ mắt, tác phong của tên tù
Ng..lại muốn làm chó săn cho cán bộ trại ắt hẳn xưa kia hắn là tên đội trên đạp
dưới, nay bị đàn em cùng đơn vị bôi phân vào mặt thì có chi lạ, cũng là một mảnh
gương vỡ cho nhiều quan soi.
Ðiều an ủi là lòng kính trọng của chúng tôi đối với tất cả
các niên trưởng và đồng đội MX không hề suy giảm. Tư cách và tác phong của các
anh trong tù còn đẹp hơn khi chỉ huy ngoài mặt trận, nói ngắn gọn như thế là đủ,
thiết nghĩ không cần nêu những trường hợp cụ thể, vì đó không phải là mục đích
chính của bài viết này.
NHỮNG AI ÐÃ RA ÐI?
Như đã nói ở trên, bài này chỉ có ý đi tìm tài liệu cho
Chiến Sử TQLC, nên nêu ra những trường hợp cụ thể để xin các chiến hữu bổ sung
và sửa sai mọi chi tiết, xin cung cấp dữ kiện trước khi phê bình ÐÚNG SAI.
1/Trung tá Ðoàn Thức
Khi căn bệnh xơ gan của anh tới giai đoạn cuối thì trại
tù Mễ khoan hồng nhân đạo cho về đoàn tụ với gia đình và anh mất sau đó một
tháng, tháng 1/1980. Có người nói rằng trại tù không chữa được nên cho anh về!
Nếu nói cho công bằng thì VC ở các trại tù không có khả năng chữa và không chữa
bất cứ bệnh gì và cho chúng ta.
Trung tá Ðoàn Thức là một sĩ quan tham mưu giỏi và tận tụy
với nhiệm vụ, đặc biệt là tính hiền hòa vui vẻ với những người xung quanh, những
ngày sau cùng anh là Tham mưu trưởng Lữ đoàn 468/TQLC. Một chi tiết tuy thuộc
chuyện riêng tư nhưng cần phải nói: Tr/tá Ðoàn Thức là em của Ðoàn-Khuê, cựu bộ
trưởng quốc phòng CS, vì lý do này mà anh Thức bị cục An Ninh Quân Ðội VNCH lưu
ý không cho giữ chức vụ chỉ huy, cũng chả sao, anh vẫn là một sĩ quan tham mưu
giỏi, một sĩ quan gương mẫu cho tới giờ phút cuối cùng. Khi Ðoàn Khuê vào trại
giam thăm, anh Thức đã từ chối:
- Tôi không có bà con nào là cán bộ nhà nước cả (Tham khảo
tài liệu của cựu đại tá Tôn thất Soạn) 2/ Trung tá Nguyễn Hữu Cát:
Có lẽ lớp sĩ quan đàn em ít người biết đến anh Cát, có
khi tôi còn viết sai cả họ và tên đệm của anh, nhưng đã có thời gian làm việc
dưới quyền anh, anh là chuyên viên trung tâm trưởng TTHQ/SÐ.Anh ra đi cũng tại
trại Mễ, thuộc huyện Phủ Lý, nơi nhốt những anh em hết thuốc chữa. Ðại úy Nguyễn
Kim Thân, hiện định cư San José, trước kia cùng ở trại Mễ vói anh Cát, nói:
- Chính mắt em thấy anh Trung tá Cát đập đầu vào..tường
Kính cẩn cúi đầu chào vong linh Tr/tá trung tâm trưởng TTHQ của tôi những ngày ở
Hương-Ðiền, của những SQ trực TTHQ như đại úy Hưởng (đã chết tại bờ biển Non Nước
sáng 29/3/75), Ð/úy Tú-xe-bò, Tr/úy Sơn-mập v.v..những nhân viên dưới quyền của
anh thường thiếu sót nhiệm vụ nhưng anh vẫn cười bao dung và.. bao dàn.
3/ Trung tá Nguyễn Văn Nhiều
Anh là trưởng phòng tư Sư Ðoàn TQLC, những ngày cuối
tháng 4/75, hằng ngày một trực thăng liên lạc của của BTL thường đáp xuống
CCST, cạnh hồ tắm, đôi lần tôi thấy anh đi theo chiếc trực thăng này. Là sĩ
quan tham mưu, có đầy đủ phương tiện trong tay, ở ngay BTL tại Vũng Tàu, vì thế
tôi quá đỗi ngạc nhiên khi nghe tin anh không ra đi theo lẽ thông thường mà lại
tự tử trên chuyến tàu chở tù ra Bắc!
Các anh Ðinh Xuân Lãm, Trần Kim Hoàng, Huỳnh Văn Phú và
tôi cũng được chở bằng tàu từ Tân Cảng ra Bắc nhưng cặp bến tại Vinh rồi bị đưa
ra Yên Bái trong các toa xe lửa chở súc vật và xi măng, khi xuống xe có hai
trung tá chết vì nghẹt thở nên khi nghe tin anh Nhiều tự tử tôi lại nghĩ anh là
một trong hai người đã chết trên chuyến xe lửa cùng đi với chúng tôi. Sau này
được tr/tá PB Ðặng Bá Ðạt cùng đi với anh Nhiều cho biết các anh ra Bắc đợt sau
và cặp bến Hải Phòng, xác anh Nhiều đã được đưa lên bờ tại đây.
Tôi không biết anh Ðạt hiện nay ở đâu, nếu được xin anh
cung cấp cho chúng tôi những thông tin về anh Nhiều.
4/ Trung tá Nguyễn Đằng Tống
Anh là Lữ Đoàn Phó LÐ.147/TQLC, lữ đoàn này thiệt hại quá
nặng trong mặt trận tại cửa Thuận An ngày 26/4/75 nên cần thời gian để tái tổ
chức lại tại Vũng-Tầu. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, tướng tài đâu phải để ngồi
rung đùi ngâm thơ, chén tạc chén thù mà phải CHÉM thù nơi tiền tuyến, nên anh
được giao nhiệm vụ mới, là Lữ Đoàn Trưởng LÐ.468/TQLC ngày 24/4/ 75, tham gia mặt
trận ở Long Bình Biên Hòa rồi rút về CCST, rồi vào tù và chết trong tù, chúng
ta hãy nghe chị Tống nói:
- . ..Rạng ngày 30/4/75, TQLC rút về đầy đủ ở Biên Hòa,
sau đó toàn bộ di chuyển về CCST.Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, anh đi họp
với Ðaị tá Trí tại BCH/CCST. Anh trở về bảo tôi đợi cho anh em ra về an toàn hết
chúng tôi sẽ đi sau cùng. Chính vì thế trưa ngày 30/4, vào giờ chót cha tôi vào
trại Cửu Long đón vợ chồng tôi mà không gặp nên ông đã rời Việt Nam một mình.Mẹ
tôi và các thân nhân trú tại căn nhà của chúng tôi đã xuống tàu từ 29/4.
– Suốt tuổi thanh xuân anh đã đi hết mọi nẻo đườngđất nước,
trên mọi chiến trường: Bình Giả, Tam Quan, Huế Mậu Thân, Kampuchia, Hạ Lào, Quảng
Trị, Cửa Việt v.v.. Ðến lúc nằm xuống là cái giá phải trả bằng xương máu của
chính mình, chỗ khúc ruột nối do trận Bồng Sơn bục ra giữa lao tù CS, dưới cái
giá lạnh khắc nghiệt của mùa Ðông nơi núi rừng Yên Bái. Anh chết đi trong đau đớn
và cô đơn. Chết đi mà chỉ biết mặt đứa con trai duy nhất qua những tấm ảnh vợ gởi
vào trong tù.. ..
Vào mùa hè 1980, tại trại tù Vĩnh-Quang A tôi bị đau ruột
một cách khủng khiếp, đau đến nỗi cong người lên, anh đội phó Phan-Trừng và
Phan Hữu Hạnh phải trói chân tay tôi lại để khỏi vật vã cho tới khi ngất đi,
không có thuốc men hay đi bệnh xá gì hết, hai ngày sau tôi gượng dậy được là
cai tù bắt tôi đi lao động, theo đội lên đồi cuốc hố sắn, cái đau cái mệt bắt
buộc tôi phải liều nằm trên đồi dưới cái nắng gay gắt để mong một trong hai trường
hợp sẽ xẩy ra, chết vì nắng hay nó bắn cho một viên thì đỡ khổ hơn, vì thế trường
hợp của anh Tống tử nạn không làm tôi ngạc nhiên.
Giây phút cuối trước khi bị bắt buộc phải từ bỏ binh nghiệp,
lần đầu tiên và cũng là lần sau cùng tôi được họp cùng đại tá TLP tại BCH/CCST,
có gặp anh Nguyễn Đằng Tống trong buổi họp này. Theo lời chị Tống kể thì gia
đình đã có đầy đủ phương tiện để ra đi, nhưng anh Tống cương quyết ở lại cùng
anh em binh sĩ, nên chị Tống cũng bỏ hết để đến bên anh trong giờ phút hấp hối
của chế độ.
Việc anh Tống từ chối ra đi mà quyết ở lại sống chết với
binh sĩ dưới quyền thì không có chi lạ, đó chỉ là thái độ đúng đắn của cấp chỉ
huy, dù là cấp tiểu đội hay cấp quân đoàn, trong phạm vi nhỏ của TQLC cũng đã
có quá nhiều trường hợp tương tự, các anh từ chối chạy trốn cùng gia đình mà ở
lại cùng đồng đội chiến đấu.
Ðã bao lần thập tử nhất sinh đều có đồng đội bên cạnh,
anh là cấp chỉ huy, anh thức trắng đêm để điều động đơn vị thì người thuộc cấp
cũng thức trắng đêm để sẵn sàng thi hành lệnh dù biết cái lệnh đó sẽ đưa họ vào
cõi tử nhiều hơn sinh. Bây giờ trước mặt là địch, dù nặng hay nhẹ cũng như những
lần xưa kia mà thôi.
Người không có phận sự chỉ huy, không có quân trong tay
mà ra đi một cách kín đáo để khỏi làm hoang mang người cầm súng thì cũng chẳng
chết ai (!), nhưng nếu họ ở lại cùng anh em là đáng quý, người vợ lính bỏ thanh
bình ở lại sau lưng để ra tiền tuyến cùng chồng trong lúc bom đạn mù trời thật
là đáng phục, thật là hiếm hoi. Người phụ nữ vì tình yêu mà hy sinh như vậy thật
hợp tình nhưng không hợp lý, nếu là cấp chỉ huy thì tôi không khuyến khích những
trường hợp hy sinh như thế.
5/ Trung tá Huỳnh Văn Lượm
Anh là LÐP/LÐ.258/TQLC, vì đại tá LÐT bị thương nằm bệnh
viện nên anh nắm quyền chỉ huy lữ đoàn trong giai đoạn cuối dưới quyền điều động
của đại tá Tư lệnh Phó Nguyễn Thành Trí. Tôi thường xuyên ở cùng trại tù với
anh, cùng nhau chia xẻ bi thuốc lào, miếng sắn lát nên có nhận xét anh là một
trong những người tù tỉnh bơ nhất. Không bao giờ anh vui (dĩ nhiên) và cũng
không buồn, bất cứ lúc nào anh cũng đủng đỉnh từ từ, quản giáo trại giam có hối
thúc anh cũng mặc, có la lối mạt sát anh cũng coi như không nghe, không biết,
không trả lời, không chống đối, anh vẫn thong thả làm việc chậm chạp, hình như
anh là người đi sau mọi người trong tất cả mọi việc. Các quản giáo và bộ đội rất
bực vì thái độ ne..pas của anh nhưng chưa có lý do để cùm.
Một lần tên trung úy Bộ, cán bộ an ninh khu A, trại tù Z.30D
Xuân Lộc đi kiểm soát buổi tối, thấy anh còn ngồi ôm cây đàn ghi-ta gẩy từng tứng
tưng bài gì đó trong khi mọi tù khác vội vàng chuẩn bị vào chuồng, Bộ thấy gai
mắt nên kết tội anh chơi nhạc vàng, thay vì nhốt anh thì nó chạy lại cầm cây
đàn của anh vứt đi, anh từ từ đứng dậy vẫn im lặng và đi vào buồng, cây đàn vẫn
trơ gan nằm bên hàng rào kẽm gai cho tới khi một tên bộ đội đến lấy đi.
Cần nói thêm rằng sau năm 1982, số đông tù được chuyển từ
Bắc về Nam, về trại Z.30D Xuân-Lộc, ngày nghỉ hay các buổi tối anh em thường ca
hát thoải mái, bộ đội còn đến nghe ké và xin điếu thuốc có cán! Việc anh Lượm bị
kết tội hát nhạc vàng chỉ là cái cớ, anh có hát đâu, chỉ dạo vài ngón classic
chớ vàng với bạc cái gì.
Sau cái ngày bị mất cây đàn, anh bị thuyên chuyển từ đội
trồng rau, đội của mấy người già chậm chạp, xuống đội nhà bếp, là đội cần những
người trẻ nhanh nhẹn để nấu sắn, nấu bắp cho tù, ưu ái hơn nữa là anh được chọn
vào toán quan trọng nhất, toán bổ củi và nấu nước sôi để phát cho toàn khu A.
Tôi thuộc toán lâm sản, đi rừng cưa cây làm củi về giao cho nhà bếp, thấy anh cởi
trần đưa xương sườn ra đánh vật với những khúc cây to hơn anh mà thương cho
anh, cho chính mình!
Chỗ nấu nước sôi là một cái bệ xi-măng cao gần 1m, trên
đó đặt những chảo gang to, đường kính dễ chừng hơn mét, người phụ trách cơm nước
phải di chuyển trên đó, giữa cái không gian chật hẹp, không khí đặc quánh vì
khói và hơi nước, dưới chân là sàn xi măng và những cái miệng chảo nước sôi
trông như những miệng núi lửa.
Việc phải đến đã đến, từ đầu đến ngực của Trung tá
LÐP/LÐ.258/TQLC Huỳnh Văn Lượm nằm gọn trong chảo nước sôi! Anh tắt thở trên đường
đi đến bệnh viện Biên Hòa.Anh được THA về để gia đình lo hậu sự cho anh.Có lẽ
anh chết vì nước nên được ưu đãi hơn các anh Nhiều, Tống, Hợp bị vùi xác nơi xó
rừng. Thực ra thì nhà thương trả xác anh về cho gia đình, trại nó đã phủi tay,
những ai không may chết trong tù thì không bao giờ nó thông báo cho gia đình
đâu.
Ngay lúc anh Lượm bị nạn, không ai có mặt tại chỗ để xác
định đó là một tai nạn? Một vụ tự tử hay một vụ dàn cảnh giết người vì lòng
nhân đạo? Tất cả, nếu có, chỉ là suy đoán, thí dụ như đối với tôi thì cho đó là
một màn kịch hay của tên Trung úy Bọ, an ninh trại giam, không trực tiếp thì
cũng gián tiếp, bởi vì một người yếu đuối và chậm chạp như anh, một người được
xếp vào đội trồng rau, chỉ vì cây đàn tình tang mà bị đẩy xuống một công việc nặng
nhọc nhất, khổ nhất và dễ chết nhất? Có lẽ chỉ có Anh và Hồ chủ tịt biết lý do
chính xác nhất.
6/ Thiếu tá Trần Văn Hợp.
Hợp là Tiểu đoàn trưởng sau cùng của T.Ð Trâu-Ðiên . Tiểu
đoàn 2/TQLC được chỉ huy bởi 4 Tiểu đoàn trưởng kể từ ngày mang danh là
Trâu-Ðiên, hai vị tiểu đoàn trưởng tiền nhiệm là Lê Hằng Minh và Nguyễn Xuân
Phúc đã tử trận, Trung tá Lê Hằng Minh hy sinh trong trận bị VC phục kích trên
QL1 thuộc cây số 17 quận Phong Ðiền và ngày đó tr/úy Nguyễn Xuân Phúc ÐÐT/ÐÐ4 bị
bắn một viên từ ngực xuyên ra sau lưng vẫn không sao, nhưng 9 năm sau thì Tr/tá
Nguyễn Xuân Phúc đã tử trận tại Ðà nẵng vào ngày 29-3-1975, một vị TÐTr khác
thoát cảnh tù tội, còn Trần Văn Hợp là con trâu đầu đàn sau cùng đi tù và chết
trong tù. Có lẽ đây là một nét khá đặc biệt đối với TÐ.2/TQLC mang danh
Trâu-Ðiên.
Ðối với VC thì hình như bất cứ Tiểu đoàn TQLC cũng là tiểu
đoàn Trâu-Ðiên cả, những tháng đầu tiên tại trại tù Long Giao, khi nón cối nói
về những bài Ðế Quốc Mỹ xâm lược, Ngụy Quân, Ngụy Quyền, một tên cán bộ đã cao
giọng:
- Những cái gọi là Cọp ba đầu Rằn, Trâu Ðiên, cần phải trừng
trị đích dáng!
Hai con Trâu Ðiên ngồi bên nhau, nghe vậy muốn xón..mồ
hôi, tôi bóp tay Hợp:
- Tụi nó hù mày đó, liệu cái thần hồn!
Hợp và tôi cùng ở chung một trại gia binh Cửu Long, rủ
nhau đi tù một ngày, nằm bên nhau từ trại Long Giao đến trại Suối Máu, tôi ra Bắc
trước, chúng tôi xa nhau từ đấy, không bao giờ gặp lại nó nữa: Trâu Ðiên Trần
Văn Hợp đã chết trong tù!
Nhớ lại khi vào trại Long Giao, Hợp, Lâm, Duật, Niệm và
tôi ở chung một tổ, khi cán bộ quản giáo đưa cho miếng giấy ghi: Không có gì
quý HƠN độc lập tự do.. bảo Hợp viết khẩu hiệu này lên tường, Hợp hỏi có sơn và
cọ không, tên nón cối nói các anh phải phát huy sáng kiến và khắc phục, Hợp lấy
cục than viết lên tường: Không có gì quý BẰNG độc lập tự do!
Hôm sau nón cối đến kiểm soát, thấy hàng chữ viết bằng than
ngả nghiêng trên vách trông rất là bôi bác, mặt hắn đỏ lên rồi tái đi nhưng lại
nghiến răng xuống giọng:
- Anh nào viết khẩu hiệu đẹp nhưng không đạt mục dích và
yêu cầu. Các anh tự mãn là những người học giỏi mà chỉ có vài chữ thôi cũng viết
sai
- Tôi thấy chữ HƠN không hay bằng chữ BẰNG nên sửa… Nó lý
luận và giải thích rằng phải dùng chữ BẰNG thay cho chữ HƠN mới nêu hết được
cái hay tuyệt đối của Tự Do, nón cối không nghe gì cả, như bị chạm nọc, nó
phùng mang trợn mắt kết án Hợp tội “Nhục mạ lãnh tụ”!!
Một ngày mùa đông mưa phùn gió bấc, từ trại tù số 8 Hoàng
liên Sơn, gần hồ Thác Bà chúng tôi phải khiêng vác những cây bương dài và to, một
loại tre rừng, lên xã Cẩm Nhân nộp cho ban chỉ huy liên trại, khi đi ngang một
đám người rách rưới, ngồi bó gối chồm hổm bên đường như đám tử tù! Nghe ai khẽ
gọi tên tôi, liếc ngang, gặp ngay đôi mắt sáng của Trần Quang Duật môi mấp máy
thều thào:
- Anh Hợp chết rồi!
Giữa cái rét đến thâm tím chân tay mà người tôi toát mồ
hôi, ngập ngừng chậm lại muốn nghe Duật nói thêm một câu gì đó thì mũi súng
AK.47 thúc vào lưng tôi, họng tôi nghẹn cứng, máu hòa nước mắt làm mờ bước chân
tôi đi!
Sau này tôi gặp nhiều người ờ chung trại với Hợp, đều thuật
lại giống nhau, nhưng rất tiếc là không gặp ai cùng đội để có những chi tiết rõ
ràng hơn. Xin trích một đoạn trong tác phẩmMình Phải Tồn Tại của Phan Văn Thìn,
cùng khoá với Hợp:
- Trần Văn Hợp thường nói với tôi như vậy mỗi khi chúng
tôi gặp nhau! Tôi và Hợp bị giam chung ở liên trại Kiên Thành, tỉnh Hoàng Liên
Sơn, nhưng chúng tôi ở khác K, may mắn găïp nhau một vài phút khi di lãnh thực
phẩm, mỗi lần gặp như vậy Hợp thường nhắn Ráng tồn tại nghe mày, tôi gật đầu vẫy
tay từ biệt.
Rừng thiêng nước độc, thiếu ăn không thuốc nên chỉ trong
một thời gian ngắn đã có 8 người ra đi vì kiết lỵ và tiêu chảy. Một hôm trong
toán cưa cây rừng chúng tôi lượm được một loại hột, nếm thử nhân có vị bùi và
béo như hạt điều, thế là đi tìm, nhưng may quá, chỉ tìm dược 3 hột cho 4 người,
sau khi ăn xong chúng tôi thấy khó chịu và buồn nôn, cố móc họng cho ói ra. Chiều
hôm đó về tới trại nghe anh em bàn tán có nhiều người ăn phải hột này nên ngộ dộc.
Trại tôi có anh Ðinh long Thành bị nặng nhất.
Hôm sau hay tin anh Hợp đã ngộ độc khá nặng, vì cùng ăn
những hột như bọn tôi, phải vào trạm xá và đã ra đi! Lúc đó có một bạn tù cùng
tổ, đi lãnh thực phẩm về kể chuyện cho tôi nghe rằng trên đường về có gặp anh Hợp
đã bị ngộ độc, ráng bò ra được con đường nhỏ để về trại, nhưng mệt quá đã gục
bên đường, tên vệ binh thấy anh em muốn lo lắng săn sóc cho Hợp thì nó quát
lên:
- Không sao đâu, anh ấy chỉ say thuốc lào thôi!
Thế là mạnh ai nấy đi, không ai được phép đưa anh Hợp về
bệnh xá trại để kịp thời cấp cứu và cuối cùng anh Hợp đã không đạt nguyện vọng
ao ước Ta phải tồn tại để xem kẻ thù rồi sẽ ra sao?
(hết trích).
Nhà cách mạng Phan bội Châu nói: Khi bụng đói thì người
ta có thể bới đất cuốc cỏ mà nhét cho đầy bụng đói, nhưng cái đầu, bộ óc mà đói
thì..bán nước.
Những người Tù mà là tù của miền Bắc nước CHXHCN thì đói
là dĩ nhiên, ai không cùng hoàn cảnh thì khó tưởng tượng được nó khủng khiếp đến
cỡ nào. Tại trại tù Vĩnh Quang A, chúng tôi bị giam chung với tù hình sự của miền
Bắc, họ đói lắm, vì không được gia đình tiếp tế, thấy họ chui đầu cả vào những
thùng.. ..phân và rác để kiếm một cái gì đó nhét vào miệng! Một đầu gấu hình sự
đến xin ăn, tâm sự:
- Các ông biết không, chúng cháu đói nắm, hôm qua bu (mẹ)
thằng Tâm đến thăm, mang cho ló gói cơm lếp và miếng thịt nợn, nó không dám
mang vào trại mà ăn hết ngay tại chỗ thăm luôi, khi tối vào buồng, ló bội thực,
muốn mửa ra thế nà mấy thằng ông mãnh chung quanh nói thằng Tâm hượm (khoan) đã
để chúng ló kiếm cái chậu hấng lấy miếng thịt nợn mà thằng Tâm sắp mửa ra. ..!
Tôi tin điều nó nói, chúng hứng để mong kiếm được miếng
thịt heo mà thằng Tâm ói ra, những ai không đi tù CS ở miền Bắc nhưng nếu vượt
biên bị lênh đênh trên biển hay lạc vào hoang đảo thì chắc sẽ tin câu chuyện
tôi kể.
Dài dòng một chút để hiểu hoàn cảnh ngộ độc của trại tù
nơi Hợp bị giam, cái không hiểu được là thấy người sắp chết mà không cứu của đồng
tù, còn tụi nón cối ư? Sổ tay của chúng đều ghi: Trần Văn Hợp TÐTr Trâu-Ðiên, cố
tình nhục mạ lãnh tụ!
7/Thiếu tá Bạch.
Theo tài liệu của anh Ðinh xuân Lãm cung cấp thì anh Bạch
nguyên là đại đội trưởng đại đội thám báo của SÐ, anh cũng tử nạn trong tù
nhưng rất ít chi tiết về anh.
8/ Bác Sĩ Vũ đức Giang Y sĩ TÐ7/TQLC ( bổ sung sau khi có
đủ tài liệu) Còn rất nhiều các sĩ quan từ cấp chuẩn úy đến đại úy bị tù ở trong
Nam, đã tử nạn hoặc bị hành hình vì chống đối vì vượt ngục mà chưa được kể lại,
nếu không cùng ở một trai thì khó lòng biết ai còn ai mất, mong rằng sau bài
này, những tin tức về tất cả TQLC chết trong ngục tù được bổ sung đầy đủ hơn.
Ó-Biển Trần Như Hùng từ bên Úc xa xôi đã cho chúng tôi một vài trường hợp điển
hình như sau:
Trung úy Nguyễn Văn MINH, ÐÐT/TÐ.2
Trung úy Nguyễn ngọc BỬU, ÐÐT/TÐ.7
Cuối năm 1978, tại trại giam Suối Máu, Biên Hòa, phong
trào diệt an-ten và phản kháng chế độ CS lên cao dần tới tột đỉnh là đêm Giáng
Sinh 1978, toàn thể 5 phân trại cùng đồng loạt đứng dậy phản đối hành động cấm
anh em tù cử hành thánh lễ nửa đêm, hậu quả những ngày sau đó là đòn thù, lùng
bắt, chia cắt, chuyển trại, những ai nằm trong ủy ban hành động chống đối đều bị
chuyển ra trại tù ác độc khét tiếng là Xuân Phước Tuy Hòa, trong số này có 2
chiến hữu Mx Minh và Bửu.
Taị trại Xuân Phước, nhân một buổi đi lao động ngoài rừng,
Minh và Bửu cùng 3 đồng tù khác đánh gục vệ binh, cướp súng và vượt ngục, nhưng
chỉ 2 ngay sau là các anh bị bắt hết.
Không cần diễn tả thì ai cũng biết chuyện gì sẽ đến với
các anh, trường hợp vượt ngục của nhóm cha Lễ mà đã được ông diễn ta lại trong
hồi ký thì cựu dân biểu Ðặng Văn Tiếp bị đánh chết! Ở đây, anh Bửu không những
đã bị bắn chết mà thân xác anh còn bị lưỡi lê đâm nát! Những người khác, trong
đó có Minh thì không ai biết số phận họ ra sao?
Trung Úy Nguyễn Văn SAN, ÐÐT/TÐ.3
Trong thời gian đầu mới vào tù, mỗi buổi tối trại giam
thường chiếu phim cho tù nhân giải trí (!), với mục đích gì và phim loại gì thì
chẳng cần mất thì giờ giải thích, tại trại giam Ái-Tử, nơi có rất đông cấp
úy/TQLC cũng được giải trí như vậy.
Chúng ta biết sau vụ ngưng bắn da beo, da cọp, dành dân lấn
đất, ai ở đâu thì nằm nguyên đó nên mới có những màn vui chẩy nước mắt trên các
tuyến phòng thủ của SÐ/TQLC ở Quảng Trị. Anh em hai miền Nam-Bắc sống chung hòa
bình trong tư thế cài răng lược, M.16 nằm gác chân lên A.K, M.79 ôm cổ B.40.
Tuy rằng cấp trên không cho phép, nhưng cùng là máu đỏ da
vàng, nói cùng một thứ tiếng nên binh sĩ hai bên zui-zẻ zới nhau, lại là dịp
cho các Mũ Xanh chứng tỏ tính ga-lăng hào phóng, mang thực phẩm miền Nam hòa
cùng thức ăn miền Bắc để cùng uống cùng hút, nói chuyện gia đình, nói chuyện
linh tinh.
Nhưng chính sách trồng người của CS đã không để cho binh
sĩ của họ sống bằng tình người với anh em Mũ Xanh, nó đem ngay phân hóa học bón
vào đám bộ đội này để dụ khị MX rồi lén lút quay phim dùng làm tài liệu tuyên
truyền bịp bợm.
Khi biết chúng dở trò lưu manh, Mũ-Xanh đáp ngay Ði với
ma thì mặc áo giấy đúng theo lời dặn của Tổng Tư Lệnh Quân Ðội: VC dùng dao
găm, ta chơi mã tấu, MX đấu khẩu không nương tay khiến chúng tắt đài. Trong số
những nhà tâm lý chiến trên tuyến đầu phát ngôn hăng hái nhất là trung úy đại đội
trưởng NGUYỄN Văn SAN.
Trong một buổi tối chiếu phim, các anh em TQLC được cho
coi một cuốn phim vô cùng độc đáo mà những tài tử đóng phim lại do chính các
anh thủ vai trên tuyến phòng thủ cài răng lược ở Gia-Ðặng (QT). Khi thấy tài tử
chính đóng hay quá, các anh quên là mình đang ngồi trong trại tù bèn hoan hô vỗ
tay chỉ vào tài tử chính:
- Trung úy SAN kìa! Coi thằng SAN đóng phim kìa!
Vài ngày sau, khi đang lao động ngoài rừng thì San và một
đồng tù bị cán bộ quản giáo gọi ra chỗ vắng làm việc, đây là một kiểu chơi trước
sau như một, giống nhau từ Nam ra Bắc, trong giờ lao động, khi chúng muốn dò
tin tức, dụ tù làm an-ten, hay hù dọa đều dùng cách này nên chẳng ai để ý làm
gì.
Tràng súng AK từ xa vọng về, thằng tù cầm cuốc đứng nghe!
Tên quản giáo rất thong thả từ tốn với giọng nói đầy
khoan hồng nhân đạo:
- Hai anh SAN và XY đã lợi dụng lúc tôi làm việc mà trốn
trại!
Ðừng nghe những gì CS nói, nói láo như vẹm! Anh em bạn tù
cầm cuốc đứng nghe, nhưng hình như trong đầu mỗi người, tùy theo tôn giáo, đã
có lời cầu xin cho vong linh hai bạn SAN và X.Y sớm siêu thoát.
Những người dân đi vào rừng bới đất cuốc cỏ để tìm cho được
một chút gì hầu nhét cho đầy bụng đói thì chỉ còn một chút hơi tàn xầm xì:
- Có hai xác tù dang bị mối xông!
Cái hình ảnh TQLC San bị đem đi bắn một cách dấm dúi chỉ
vì một lý do rất buồn mà cười càng làm cho tôi nghi ngờ về cái chết của Trung
tá Huỳnh Văn Lượm trong chảo nước sôi và của Trâu Ðiên đầu đàn Trần Văn Hợp.
Tôi xin nhắc lại một lần nữa là ngày khai giảng khóa học 8 bài về Ðế quốc Mỹ,
Ngụy-quân, Ngụy-quyền tại trại Long Giao năm 1976, tên cán bộ cấp cao đã tuyên
bố:
- Những thứ như Trâu Ðiên, Cọp đầu rằn cần phải trừng trị
dích đáng!
XIN MỘT LẦN ÐƯỢC VIẾT TÊN ANH
Ðồng đội tôi, cấp chỉ huy của tôi đã ra đi mỗi người một
cung cách khác nhau:
Người thì anh dũng đền xong nợ nước trên chiến trường,
hòm gỗ phủ cờ, cài hoa, bạn bè tiễn đưa, thân nhân lập mộ.
Anh thì dù đã làm xong bổn phận người quân nhân mà đành uất
nghẹn bị bắt buộc đưa tay cho địch trói dẫn đi thủ tiêu dần mòn trong chốn rừng
sâu, không đồng đội thân nhân, không một miếng gỗ đề tên cho thê nhi tìm xác,
không một điếu thuốc, chén cơm trái trứng, ngọn nến, nén nhang để linh hồn anh
bay theo hương khói lên trời cao mà mãi mãi cứ bị dập vùi trong khe suối hốc
đá! Chiều tà khi bóng ngả về tây, không nghe tiếng mõ tụng kinh nơi cửa Phật,
thiếu tiếng kinh chiều nơi giáo đường, linh hồn anh vật vờ trên đồi sắn nương
ngô, ngóng về quê hương miền Nam yêu dấu!
Mọi sự ra đi của các anh đều tô thêm nét hào hùng cho mầu
áo binh chủng, thêm âm cao vang cho bài ca Cờ bay trên Cổ Thành, tạo thêm nét
bi ai cho bài ca truy điệu, cho bài chiến sĩ trận vong, cho bài chiến sĩ vô
danh.
Cần Thơ
TÐ2/TQLC