Những sự thật
cần phải biết (phần 24) - Tội bán nước và tham nhũng có tên Lê Khả Phiêu
Đặng Chí Hùng
(Danlambao) - Lê Khả Phiêu là một cán bộ cộng sản gộc có nhiều
tội lỗi với nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên nổi bật là hai trọng tội: Bán
nước và tham nhũng. Trước đi vào tìm hiểu hai sự việc đó
chúng ta điểm qua thân thế của Lê Khả Phiêu trên báo đảng:
I. Về thân thế Lê Khả Phiêu:
“Đồng chí Lê Khả Phiêu sinh ngày 27/12/1931
tại xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 19/6/1949, đồng chí gia
nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở và tham gia
quân đội, đồng chí Lê Khả Phiêu trực tiếp tham gia các cuộc kháng chiến và chỉ
huy chiến đấu trên các chiến trường Bắc - Trung - Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Từ năm 1964 đến năm 1992, đồng chí Lê Khả
Phiêu lần lượt giữ các chức vụ trong quân đội: Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng;
Phó Chủ nhiệm Chính trị quân khu Trị Thiên; Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn II;
Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị quân khu IX; Phó Bí thư khu ủy Khu IX;
Thiếu tướng Chủ nhiệm Chính trị Phó Tư lệnh Chính trị mặt trận 719; Trung tướng
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Thượng tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 6-1991 tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng, đồng chí được bầu là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Tháng 6-1992 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 13 của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị.
Ngày 26/12/1997 tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu
giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí là đại biểu
Quốc hội khóa X.”.
Đây là tiểu sử được trích nguyên văn từ website của
đảng cộng sản VN (1).
Tháng 6-1991, Lê Khả Phiêu mới được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương, năm 1992, vì giữ chức chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phiêu
được cơ cấu vào Ban Bí thư và tháng 1-1994, tại đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ,
Phiêu được đưa vào Bộ Chính trị. Vậy mà tháng 12-1997, tức là chỉ trong vòng 6
năm sau khi vào BCHTW, Lê Khả Phiêu đã trở thành tổng bí thư, một hành trình
tiến thân khá nhanh cho thấy Phiêu chính là một kẻ cơ hội và biết luồn cúi để
mau nắm quyền trong trận đồ của cộng sản.
1. Một kẻ sợ hãi Internet:
Lê Khả Phiêu là một kẻ sợ hãi Internet vì thông
qua nó thì những bí mật cộng sản sẽ bị lộ tẩy vàChu Hảo là một
trong những người ủng hộ sự kiểm duyệt Internet của cộng sản (Vậy mà giờ đây
ông Chu Hảo đang kêu gọi đấu tranh cho “Dân chủ” thì thật là bất ngờ). Theo Chu
Hảo:“Đến ngày hẹn, ông Đỗ
Mười đang ở miền Nam, đề nghị chúng tôi báo cáo trực tiếp ông Lê Khả
Phiêu, thời gian ấy là ủy viên Thường vụ Thường trực Bộ Chính trị”.
Gặp Lê Khả Phiêu, Mai Liêm Trực trình
bày về pháp lý, Chu Hảo nói về kỹ thuật, Nguyễn Khánh
Toàn báo cáo về đảm bảo an ninh. Đây là giai đoạn mà Lê Khả Phiêu sắp
trở thành tổng bí thư. Giáo sư Chu Hảo nói: “Chúng tôi chia sẻ những lo sợ của ông Phiêu
cũng như của các vị trong Ban Bí thư về an ninh, về bí mật quốc gia, sợ văn hóa
đồi trụy và phản động tràn vào Việt Nam. Chúng tôi nói về những tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong ngành bảo mật thông tin nhưng không dám khẳng định là kiểm
soát được tất cả. Chúng tôi cho rằng tường lửa cũng như cái khóa, khóa tốt thế
nào cũng có người mở được, nên vấn đề quan trọng vẫn là con người. Ông Phiêu
rất thích lập luận ‘vấn đề quan trọng là con người’, ông đồng ý”.
Tháng 12-1996, Trung ương Đảng khóa VIII họp Hội
nghị lần thứ hai bàn về khoa học công nghệ. Đỗ Trung Tá đã
nói: “Tôi mở một phòng máy
và dùng sơ đồ đơn giản nhất để ‘giới thiệu Internet và các biện pháp đề phòng’.
Các ủy viên dự họp Trung ương được Tổng Bí thư Đỗ Mười cho phép tới tìm hiểu về
Internet và tường lửa. Bằng vài thuê bao Internet nối với server của VDC, tôi
cho tải các websites có nội dung tốt xuống cho các ủy viên Trung ương xem; rồi
cho tải những web-sex, các ủy viên Trung ương giữ ý quay mặt đi, tôi cho anh em
biểu diễn kỹ thuật ngăn các web-sex này lại. Các ủy viên Trung ương nói: Nếu
làm được như thế thì cho mở được. Hội nghị Trung ương 2 thừa nhận Internet tải
được trí tuệ của nhân loại về và tin rằng có thể ngăn các nội dung xấu”.
2. Dân chủ chỉ là trò hề:
Lê Khả Phiêu được đưa lên giữ chức tổng bí thư
trong một hội nghị Trung ương, thay vì được bầu trong đại hội (12-1997) (Điều
lệ Đảng quy định tổng bí thư chỉ do Ban chấp hành Trung ương bầu. Tuy nhiên,
những người được đưa lên từ các đại hội thường có tính chính danh cao vì trước
khi đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương, những người được cơ cấu vào các chức
danh chủ chốt như tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội đều
được Ban chấp hành khóa bắt đầu mãn nhiệm chuẩn bị và trình ra đại hội).
Ngày 18-1-1998, khi đến thăm Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu tuyên bố:“Dân chủ 100% là hình
thức”.
Quyền lực thực sự của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
bắt đầu được thể hiện sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần hai, họp từ 25-1
đến 2-2-1999 tại Hà Nội ra nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng”. Tuy trong Nghị quyết này, Lê Khả Phiêu
đặt ra tham vọng “nghiên cứu lý luận trong nước và thế giới, làm rõ hơn
mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” nhưng trên
thực tế chỉ có “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” và “luân
chuyển, điều động cán bộ” mới thực sự giúp Phiêu tạo ra những bước đi
quyền lực.
Ngay sau khi nhậm chức, Lê Khả Phiêu đã đưa Bộ
trưởng Lao động và Thương binh Xã hộiTrần Đình Hoan về làm chánh
Văn phòng Trung ương. Quyết định này được coi là nhằm tạo chỗ trống để có thể
đưa một ủy viên Trung ương cùng quê Thanh Hóa, Nguyễn Thị Hằng, lên
bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội. Cuối năm 1999, một ủy viên Trung ương
người Thanh Hóa khác, Tô Huy Rứa phó giám đốc Học viện Chính
trị Quốc gia được luân chuyển về làm bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 2-2000,
Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển bị “luân chuyển” về làm
bí thư Tỉnh ủy Nghệ An.
Trong tiệc tiễn do Văn phòng Chính phủ tổ chức,
Trương Đình Tuyển đã đọc một bài thơ của ông nói rằng, việc ra đi của ông đơn
giản vì (Tổng Bí thư) cần “chỗ trống”. Chỗ trống để đưa Thứ trưởng kỳ cựu Vũ
Khoan rời Bộ Ngoại giao, tạo “chỗ trống” cho Nguyễn Dy Niên, cùng quê Thanh Hóa
với Tổng Bí thư, lên bộ trưởng.
3. Tài năng kém cỏi:
Về đối nội, Lê Khả Phiêu bị cáo buộc làm trái
nguyên tắc khi ký Quyết định 234, cho lập ra một cơ quan theo dõi nội bộ, chủ
yếu là cán bộ cao cấp. Theo Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm
tra Trung ương Đảng: “Việc
xem xét những sai lầm của Quyết định 234 bắt đầu sau khi ông Lê Đức Anh chính
thức đặt ra”. Một ban chuyên án
được Bộ Chính trị cho thành lập với thành phần gồm: Chủ tịch nước Trần Đức
Lương, Chủ nghiệm Ủy ban Kiểm tra Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trưởng Ban Bảo vệ Đảng
Nguyễn Đình Hương (Chuyên án A10).
Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của Lê Khả Phiêu, cho
biết: “Đầu năm 2001, Bộ
Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị Nguyễn Thị Xuân Mỹ đi họp
về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt nhiều chuyện: vấn đề
Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định 234, ngành tình báo
lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang Trạch Dân,
đi không hỏi, về không trình. Từ đó, Ủy ban Kiểm tra phải vào cuộc, họp cả ngày
cả đêm. Trong khi Bộ Chính trị vẫn cứ họp. Ông Phạm Thế Duyệt, ủy viên thường
trực Thường vụ Bộ Chính trị, thường xuyên gọi tôi sang, dặn: phải có trách
nhiệm với Đảng, phải khách quan, không chịu áp lực của mấy ông cố vấn”.
Theo Vũ Quốc Hùng: “Quyết định 234 được ký theo tham mưu của ông
Vũ Chính. Lẽ ra anh Phiêu phải thận trọng. Khi Vũ Chính tham mưu thì nói là làm
sao để ngăn chặn diễn biến hòa bình, ngăn chặn những xu hướng không tốt trong
nội bộ Đảng. Tham mưu bằng mồm và có tham mưu cả bằng giấy. Ông Phiêu thấy cần
phải có một văn bản, một tổ chức nên ký”.
Và chính Vũ Quốc Hùng đã có báo cáo tố cáo những
sai phạm của Lê Khả Phiêu như sau:”
“BẢN BÁO CÁO TỐI MẬT CỦA ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG
ƯƠNG VỀ LÊ ĐỨC ANH
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
ỦY BAN KIỂM TRA
*
Số: 751-/BCKTTW
TỐI MẬT
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2001
BÁO CÁO
Về việc giải quyết thư phản ánh đối với đồng
chí Lê Đức Anh, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Vừa qua, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã nhận
được nhiều đơn thư của cán bộ, đảng viên phản ánh có liên quan đến đồng chí cố
vấn Lê Đức Anh, với nội dung tóm tắt như sau:
1 - Thường xuyên dự sinh hoạt với Bộ Chính trị
và dự kiểm điểm của Bộ Chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
vì sao đồng chí không đưa vấn đề Quyết định 234 và thành lập bộ phận A10 ra phê
bình, góp ý kiến với đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính
trị, mà để đến nay, vào thời điểm sát Đại hội IX mới đưa ra, phải chăng là sự
vận động chia rẽ bè phái trong Đảng.
2 - Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11 đã cho
Trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của mình, phát biểu trước Hội nghị Trung ương
phê phán đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính trị.
- Đồng chí đã gửi văn bản cho Tổng cục trưởng
Tổng cục Tình báo và Cục trưởng Cục An ninh quân đội về ý kiến của Bộ Chính trị
đối với quyết định 234 và chỉ thị phải thực hiện một số việc theo ý kiến riêng
của mình.
- Trong dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ (2001), khi
vào miền Nam tiếp xúc các tướng lĩnh quân đội, đồng chí đã nói về Hội nghị của
Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương lần 11 kiểm điểm đồng chí Lê Khả Phiêu,
đồng chí Phạm Thanh Ngân vi phạm nguyên tắc Đảng; đồng chí Lê Khả Phiêu không
xứng đáng làm Tổng Bí thư.
3 - Đã thiếu tôn trọng vai trò, vị trí của Bộ
Chính trị và Ban chấp hành Trung ương; thiếu tôn trọng tập thể, thiếu bình
đẳng, thường áp đặt ý kiến riêng không khách quan, không công bằng; thậm chí sử
dụng lực lượng tình báo theo ý kiến cá nhân.
4 - Báo cáo thiếu trung thực một số vấn đề về
lịch sử bản thân như: thành phần bản thân, ngày vào Đảng, về gia đình vợ cũ, về
thực hiện một số nhiệm vụ được giao trước đây.
Chấp hành ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị
trong phiên họp ngày 05-3-2001 (Công văn số 583-CV/TW, ngày 09-3-2001) Ủy ban
Kiểm tra Trung ương đã nghiên cứu, xem xét các nội dung phản ánh nói trên. Xin
báo cáo Bộ Chính trị như sau:
1 - Về việc thư phản ánh nêu đồng chí Lê Đức
Anh biết quyết định 234 sớm, nhưng để đến sát Đại hội IX mới phê phán đồng chí
Lê Khả Phiêu: Theo báo cáo của đồng chí Vũ Chính, nguyên Tổng cục trưởng Tổng
cục tình báo, khoảng tháng 6 năm 2000 đồng chí có báo cáo với đồng chí Cố vấn
Lê Đức Anh về quyết định 234 và Kế hoạch A10 do đồng chí Lê Khả Phiêu ký là
sai. Đến Hội nghị Bộ Chính trị bàn chuẩn bị nhân sự Đại hội IX (5-1-2001) việc
này mới đưa ra Bộ Chính trị xem xét. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều
kiện để xem xét, kết luận về ý kiến phản ánh.
2 - Về việc sau Hội nghị Trung ương 11 đồng
chí Lê Đức Anh cử trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của đồng chí: Sau Hội nghị
Trung ương lần thứ 11, đồng chí Lê Đức Anh đã cử đồng chí trợ lý Nguyễn Bắc Son
đi gặp trực tiếp một số đồng chí lão thành cách mạng, nguyên Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên Trung ương và tướng lĩnh quân đội. Đồng chí
Nguyễn Bắc Son đã đến gặp 19 đồng chí: Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Tố Hữu,
Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Thanh Bình, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Minh Thảo, Phùng Thế
Tài, Trần Văn Quang, Đặng Quân Thụy, Hoàng Anh, Nguyễn Chơn, Trần Lê, Nguyễn
Hữu Khiếu, Nguyễn Quốc Thước, Nguyễn Trọng Xuyên, Lê Hai, Phạm Văn Long, Nguyễn
Thị Bình. Nội dung cuộc gặp là truyền đạt ý kiến của Cố vấn Lê Đức Anh thông
báo một số vấn đề có liên quan đến Bộ Chính trị bàn về nhân sự Đại hội IX; đọc
nguyên văn quyết định số 234, Kế hoạch A10 và bài phát biểu của đồng chí Lê Đức
Anh tại Hội nghị Trung ương 11. Việc làm trên là vi phạm nguyên tắc.
- Tại Hội nghị ngày 5 - 1 - 2001, Bộ Chính trị
thảo luận phân tích việc đồng chí Lê Khả Phiêu ký quyết định số 234 là vi phạm
nguyên tắc lãnh đạo tập thể và đã chỉ thị phải hủy bỏ ngay Quyết định 234 và
giải tán ngay bộ phận A10; nhưng không kết luận việc lập bộ phận A10 với động
cơ mục đích theo dõi nội bộ cán bộ cấp cao và cũng chưa có cơ sở để kết luận bộ
phận A10 đã tổ chức theo dõi nội bộ cấp cao. Nhưng ngày 9 - 1 - 2001, đồng chí
Lê Đức Anh đã có văn bản gửi Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội, yêu
cầu: “phải chấm dứt ngay mọi hoạt động như việc điều tra Ủy viên Bộ Chính trị;
việc lấy danh nghĩa và uy tín quân đội để vận động cho người này, nói xấu người
kia, nói xấu các đồng chí Cố vấn, phát biểu mập mờ để gây nghi ngờ một số đồng
chí Bộ Chính trị”.
Việc đồng chí Lê Đức Anh ra văn bản ngày
9-1-2001 chỉ thị cho Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội phải chấm dứt
ngay mọi hoạt động điều tra Bộ Chính trị … là không đúng về nội dung kết luận
của Bộ Chính trị trong phiên họp ngày 5-1-2001 và vượt quá thẩm quyền đồng chí
Cố vấn.
3 - Về ý kiến phản ánh đồng chí thiếu tôn
trọng Trung ương, không khách quan, không công bằng... Đối với nội dung này Ủy
ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều kiện xem xét đầy đủ. Nhưng có một số việc
như: Việc máy bay Lý Tống rải truyền đơn phản động ở thành phố Hồ Chí Minh và
Tây Ninh, ngày 17-11-2000 và bắn nhầm máy bay dân dụng, ngày 18-11-2000, có
liên quan trách nhiệm và khuyết điểm của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm
Văn Trà và một số đồng chí khác; Bộ Chính trị đang chỉ đạo kiểm điểm xử lý những
tập thể và cá nhân liên quan. Nhưng tại Hội nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương,
ngày 12-11-2001, đồng chí Lê Đức Anh phát biểu là trong tình hình hiện nay mà
đặt vấn đề kỷ luật các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng sẽ gây hoang mang trong
quân đội, là thiếu trách nhiệm với Tổ quốc. Ngược lại, đối với đồng chí Lê Khả
Phiêu là Tổng Bí thư của Đảng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, thì đồng chí
đã quy kết nặng nề và đặt vấn đề phải thông báo cho các cấp ủy trong toàn Đảng
và các cấp lãnh đạo, chỉ huy trong toàn quân. Đồng chí còn biết rõ vụ Xiêm
Riệp, xảy ra từ năm 1983 và đã được xử lý xong. Đồng chí Lê Khả Phiêu không ở
trong số các đồng chí có trách nhiệm phải xem xét, nhưng đến nay, đồng chí lại
đưa vấn đề này ra Bộ Chính trị để xem xét.
Qua các sự việc đã xem xét cho thấy, khuyết
điểm của đồng chí Lê Đức Anh đã gây phân tâm và mất lòng tin của cán bộ đảng
viên và nhân dân đối với Đảng, tạo sơ hở để các phần tử thù địch và cơ hội lợi
dụng gây chia rẽ, bè phái trong Đảng.
Còn nội dung thứ 4 và một số vấn đề khác chưa
đủ thời gian và điều kiện xem xét, kết luận. Vậy, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
xin báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định./.
Nơi nhận:
- Thường vụ Bộ Chính trị
(để báo cáo)
- Lưu hồ sơ
T/M ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG
PHÓ CHỦ NHIỆM
Đã ký
Vũ Quốc Hùng”.
Lê Khả Phiêu khi về thăm Ninh Bình
II. Tội bán nước:
Lê Khả Phiêu là một trong những tên trùm sò bán
nước của cộng sản Việt Nam. Xét sự việc bán nước của Phiêu xin phép trình bày
lại sự kiện Phiêu cùng đồng bọn bán nước lấy 2 tỷ USD và được Trung cộng ém
nhẹm vụ Phiêu chơi giá Tàu có con trong “Những sự thật
cần phải biết - Phần 23”.
Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến
Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt
11.362 km2 trên vịnh Bắc bộ cho Trung cộng, là hành động cắt biển
bán cho Trung cộng để lấy 2.000.000.000 Usd, để về chia chác cho Võ Văn
Kiệt, Phan Văn Khải... để đổi lấy những cái gật của Khải,
Kiệt v.v...
Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng
Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký
tên trong vụ bán nước này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và bí
mật đã được bật mí và sau đây là những diễn biến về cuộc
bán nước như sau:
1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy
cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm
Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai
tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1
năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc
Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.
2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung
Quốc cầm đầu do Tang Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang Việt Nam, họ gặp kín
Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất,
3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn
Duy Niên sang Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã
đồng ý việc hiến thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi
Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Mỹ Nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn
nhậu cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.
4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang Jiaxuan gửi thư kín
nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng cộng sản VN tại Thailand khi Tang Jiaxuan viếng
thăm nước này. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay
từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại
giao TC tại khách sạn Shangri-La Hotel Bangkok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc
gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản Việt Nam
hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc
Việt, đòi Việt Nam cắt 24, 000 sq Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính
trị nhóm chóp bu họp kín.
5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính
trị cộng sản VN cử Phan Văn Khải qua gặp mặtLý Bằng.
Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000
qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân
Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang
Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi.
Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải
được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung
cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói
với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Sau đó Lý Bằng bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ
Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó
Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung
Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh,... nếu không nghe lời TQ
Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và run sợ,
sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời
thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc
Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình
bướng bỉnh không nghe lời đàn anh...”.
6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ
Ngoại Giao cộng sản Lê Công Phụngđược Trần Đức Lương âm
thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức tình báo của Trung cộng là Hoàng
Di - cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung cộng. Di nói tiếng
Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh
Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị cộng sản VN, Lê Công
Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di vẫn khăng khăng đòi chia 50/50 với Việt Nam về
vùng biển Vịnh Bắc Việt “Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch
Long Vĩ sau đó Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6%
của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam. Kết
quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16, 000 Km2 vùng
vịnh cho Trung cộng.
7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức
Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và
được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của
tình báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức
quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và
nhiều người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính
Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả cho số tiền là 2 tỉ USD được chuyển
cho các quan chức cộng sản chi nhau.
8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa,
Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng
cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16, 000 km2 vùng vịnh Beibu của
Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung cộng về số tiền này... Sau cuộc
gặp này thì Khải, Kiệt v.v.. đã đồng ý với quyết định bán đất cho Trung cộng vì
có phần chia chác trong số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung cộng đã bán
vũ khí và hổ trợ cho cộng sản VN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên
Trung cộng dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam
Quan, Bản Dốc, Cao Bằng... Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về
Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại
số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.
9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh
Cầm bay sang Trung Quốc để gặp Qian Qichentại đảo Hải Nam.
Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu
Bay) với giá 2 tỉ USD.
Hồ Cẩm Đào tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Lê Khả Phiêu.
Thời gian 26-2-1999. Địa điểm Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài,
Bắc Kinh.
Để nêu rõ hơn hành động bán nước của Lê Khả
Phiêu chúng ta có những bằng chứng cụ thể được trình bày sau đây.
Thứ nhất, ngày 26-2-1999 Tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh,
Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước Hồ
Cẩm Đào tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Theo ghi
chép “Trung Quốc-Việt Nam (sách ảnh)”- Văn phòng Báo chí
Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biên soạn. China Intercontinental
Press, 2003, tr. 36 ghi chú: “Trong cuộc gặp gỡ này, phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã đạt được
một số ghi nhớ đáng khích lệ trong việc nỗ lực hoàn thành tuyên bố chung về
biên giới trên biển và đất liên với phía Việt Nam. Đồng chí tổng bí thư đảng
cộng sản Việt Nam, Lê Khả Phiêu hoan nghênh nỗ lực của hai phía trong việc giữ
hòa bình và ổn định trong các vấn đề biên giới. Mọi mâu thuẫn quá khư được hai
bên thống nhất gác lại và mở ra chương mới đó là hợp tác chiến lược toàn diện
trên cơ sơ núi liền núi, sông liền sông mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao
Trạch Đông đã dày công vun đắp...”.
Qua đoạn trích nêu trên chúng ta thấy gì? Đó là
Phiêu chủ trương bán nước bằng việc ký các hiệp định cắt đất, biển để đổi lấy
tiền và sự yên ổn và để tiếp nối sự nghiệp bán nước “núi liền núi và sông liền
sông” mà Hồ Chí Minh đã thực hiện.
Thứ hai, theo hồi ký Trần Quang Cơ - bản thảo 2003 đã viết: “Ông Lê Khả Phiêu còn phải nhận lãnh trách
nhiệm lịch sử trong một giai đoạn mà quan hệ đối ngoại, đặc biệt là với Trung
Quốc, có rất nhiều thử thách. Nguyên tắc “hai nước xã hội chủ nghĩa phải cùng
chống âm mưu của đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội” xác lập trước Hội nghị Thành
Đô (9-1990) đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và những đồng chí của ông đặt
trên cả truyền thống cảnh giác nghìn năm trong quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc...”
Kể từ năm 1991, quan hệ giữa Hà Nội và Trung
cộng bắt đầu được thúc đẩy bằng các “chuyến thăm hữu nghị”. Các nhà lãnh đạo
Trung Quốc tăng dần nhịp độ đến Hà Nội: tháng 11-1992, Thủ tướng Lý
Bằng; tháng 11-1994, Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch; tháng
6-1996, Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân; tháng
11-1996, Thủ tướng Chu Dung Cơ. Nhưng, có thể nói, phải đến chuyến
thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh vào
tháng 2-1999, công cụ “ý thức hệ” mới được Bắc Kinh khai thác ở “tầm cao” để
đến gần hơn với Hà Nội.
Trong cuộc gặp thượng đỉnh này, Giang
Trạch Dân đưa ra “hai phương châm” làm nền tảng cho quan hệ hai nước
thể hiện trong “16 chữ vàng” và “4 tốt”. “16 chữ vàng” của Giang Trạch Dân là: “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Và “4 tốt” gồm: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
“Hai phương châm” cùng với Bản Tuyên bố chung
giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu đưa ra trong chuyến đi được hai Đảng đánh
giá: “Đã xác định tư tưởng
chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh
dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới”.
Nhưng, như Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố “Trung
Quốc làm gì cũng có tính toán” - Đây là thời điểm Trung Quốc cần những quyết
định của phía Hà Nội để kết thúc tiến trình đàm phán Hiệp định Biên giới. Và
Phiêu đã làm những điều bán nước mà chúng ta thấy trên thực tế trong những năm
qua.
Kẻ bán nước - Lê Khả Phiêu
Thứ ba, ngày 7-11-1991, trong chuyến đi Bắc Kinh của Đỗ Mười và Võ
Văn Kiệt, “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc
trên vùng biên giới hai nước”, Việt Nam - Trung cộng, đã được ký kết.
Đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung cộng dài 1.406 km, có truyền
thống lâu đời bắt đầu được phân định lại.
Đường biên giới truyền thống đó là cơ sở để
người Pháp, sau khi chiếm Bắc Kỳ, đàm phán với triều đình Mãn Thanh, ký Công
ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895. Đây là hai văn bản pháp lý quốc tế
đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, đường biên
giới dài 1.406 km, từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung, chỉ có 341 cột mốc.
Năm 1955, ngay trong giai đoạn mà tình hữu nghị
Việt - Trung đang được mô tả là như “môi với răng”, chính quyền Trung cộng đã
có ý “đẩy lùi biên giới” sâu vào phía lãnh thổ Việt Nam:“Tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam
khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi
dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt
Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi
điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua… Cũng tại khu vực
này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m
trên đường quốc lộ để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét
số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc
giới giữa hai nước ở khu vực này” (2)
“Tại khu vực Phia Un, mốc 94-95, thuộc huyện
Trà Lĩnh, Cao Bằng, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn rồi tự ý mở rộng
mặt đường để ô tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây
điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào ‘thực tế’ đó, từ
năm 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh Phia Un mà
đòi biên giới chạy xa về phía Nam con đường sâu vào đất Việt Nam trên 500m. Lý
lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô
tô, đặt đường điện thoại được. Nguyên nhân chủ yếu việc họ lần chiếm là vì khu
vực Phia Un có mỏ Mangan. Ở khu vực Trình Tường, Quảng Ninh, từ năm 1956, Trung
Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung
cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào
công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang, Quảng Tây.
Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một
vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6km, sâu hơn 1, 3 km thành sở hữu tập thể của một
công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó họ đuổi người Việt Nam đã
nhiều đời làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại,
tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang
đồi Khâu Thúc của Việt Nam.
Trình Tường không phải là một trường hợp riêng
lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương
tự như xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn; Khâm Khau (mốc
17, 19 ở Cao Bằng; Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên; khu vực
xã Nặm Chay (mốc 2, 3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4km, chiều sâu hơn
1km, diện tích hơn 300 ha”. (3)
Chuyện Trung cộng tự ý di chuyển, lén lút đập
phá, thủ tiêu các cột mốc, lấy tên bản của Trung Quốc đặt cho xóm của Việt
Nam... có thể tìm thấy ở bất cứ địa phương nào trên vùng biên giới. Họ cũng
không ngần ngại áp dụng những phương thức như vậy để lấn chiếm những vùng lãnh
thổ nổi tiếng lâu đời của Việt Nam như Đồng Đăng, thác Bản Giốc.: “Ngày 20-2-1970 phía Trung Quốc đã huy động
trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc
bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân
cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên
giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong,
và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. Khi quan hệ hai bên còn hữu
nghị, Trung Quốc đã xây dựng đường sắt vượt qua đường biên giới lịch sử 300m
rồi coi điểm nối ray đó là biên giới. Họ trắng trợn ngụy biện rằng khu vực hơn
300m đường sắt đó là đất Trung Quốc vì không thể có đường sắt của nước này đặt
trên lãnh thổ nước khác”. (4)
Theo Phan Văn Khải kể lại: “Thác Bản Giốc mình không thể nào lấy hết...
Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và
Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới
được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu
tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có
một phân định sau này còn có cơ sở để đấu tranh”. Qua đây cho thấy chính Khải và Phiêu đã xác
nhận hành động bán nước của mình. Tại sao lãnh thổ của Việt Nam lại phải nhân
nhượng? Và việc để mất thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm mà Khải kể chính là hành
động bán nước không thể chối cãi.
Thứ tư, ngày 16-5-1984, sau mười tám ngày dùng một lực lượng lớn tấn
công, Trung cộng đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt
Nam, trong đó có điểm cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt Nam đã hy sinh trong
các đợt phản công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên bị Trung
cộng chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, có 1680 ngôi mộ.
Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh Biên giới,
đa số hy sinh trong giai đoạn 1984-1985, có người hy sinh năm 1988 khi tái
chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984-1985, theo ông Nguyễn Thanh Loan,
người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về từng túi tử sỹ xếp
chồng lên nhau”. Theo Đại tá Phó chỉ
huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất: “Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc
cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây
được đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên
tắc mà hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà
Trung Quốc xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía
Trung Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được
giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng
ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0, 77 hecta
nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng
chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.
Tuy không bình luận trực tiếp trường hợp điểm cao
1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giaoNguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Tôi nghĩ, các anh ấy cũng biết (ý ám chỉ Đỗ Mười, Khải và Phiêu), nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một
nước lớn như Trung Quốc thì tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên
giới hòa bình. Trước đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Qua đây cho thấy rõ ràng Cầm thừa nhận Khải,
Phiêu... đã nhượng (bán) đất cho Trung cộng.
Thượng tướng cộng sản Ngô Xuân Lịch chúc và Lê
Khả Phiêu tròn 80 tuổi
Thứ năm, việc bán nước của Phiêu còn được thể hiện thông qua một số chứng
nhân là quan chức cộng sản hé lộ. Nguyễn Văn An nguyên chủ
tịch QH cộng sản cũng thừa nhận: “Nếu để ông Phiêu tiếp tục giữ chức thì sẽ dẫn
đến tiền lệ tổng bí thư vi phạm nguyên tắc cả đối nội và đối ngoại”. Về đối ngoại, ông An nói: “Ông Lê Khả Phiêu gặp Giang
Trạch Dân không theo con đường chính thống bằng quan hệ Đảng, Nhà nước
mà theo con đường tình báo”. Theo Nguyễn
Đình Hương, thành viên Ban Chuyên án A10: “Tháp tùng chuyến đi ấy của Lê Khả
Phiêu gồm Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục IINguyễn Chí Vịnh. Vịnh bố trí một cuộc gặp
giữa ông Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân. Khi gặp, cả ông Nguyễn Mạnh Cầm và
ông Trần Đình Hoan cùng đi nhưng phía Trung Quốc ngăn ông Cầm và ông Hoan, chỉ
cho Vịnh vào. Theo báo cáo của Vịnh thì hội đàm cũng không có thỏa thuận
riêng gì nhưng có nhiều người đặt vấn đề trong đó có Trần Đình Hoan”.
Theo Lê Khả Phiêu thì đây là một cuộc gặp theo
đề xuất của Giang Trạch Dân, Tuy nhiên, theo Nguyễn Mạnh Cầm, trong khi ông ta
bị chặn lại thì phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền vẫn vào
ngồi cùng Giang Trạch Dân. Lê Khả Phiêu giải thích: “Tôi gặp Giang Trạch Dân hai lần, lần thứ hai,
hai bên thống nhất là nên có gặp riêng để bàn về biên giới và Biển Đông. Trước
cuộc gặp tôi có xin ý kiến Bộ Chính trị nhưng nhiều anh quên. Tôi và Giang
Trạch Dân chỉ thỏa thuận, trong vấn đề Biển Đông, cái gì chỉ liên quan đến hai
nước thì đàm phán song phương, cái gì còn liên quan đến quốc gia khác thì đàm
phán đa phương. Cho đến bây giờ thỏa thuận này vẫn còn được thực hiện”.
III. Tội tham nhũng:
Thứ nhất, theo thông tin được đoàn đồng hương Thanh Hóa thăm nhà Phiêu
được mô tả như sau:
“Đoàn mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ trước ngôi nhà mới kín cổng cao tường của TBT Lê Khả Phiêu. Những bức hình đầu tiên cho thấy mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ xịch trước một ngôi nhà mới kính cổng cao tường ở số 7/36 C1 Lý Nam Đế, Hà Nội. Rồi từ trong xe bước ra bảy, tám người mặc veston thẳng nếp– và cả quân phục, khệ nệ khiêng những thùng quà hiếm quý biếu Tết để tặng cựu lãnh tụ đảng CSVN từng cho rằng mình là lãnh đạo liêm khiết, đi đầu trong việc chống tham nhũng.
“Đoàn mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ trước ngôi nhà mới kín cổng cao tường của TBT Lê Khả Phiêu. Những bức hình đầu tiên cho thấy mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ xịch trước một ngôi nhà mới kính cổng cao tường ở số 7/36 C1 Lý Nam Đế, Hà Nội. Rồi từ trong xe bước ra bảy, tám người mặc veston thẳng nếp– và cả quân phục, khệ nệ khiêng những thùng quà hiếm quý biếu Tết để tặng cựu lãnh tụ đảng CSVN từng cho rằng mình là lãnh đạo liêm khiết, đi đầu trong việc chống tham nhũng.
Sau khi cánh cổng gỗ - hẳn là loại gỗ quý - mở
ra, đoàn biếu Tết, được biết là Ban Liên Lạc Đồng Hương Thanh Hóa ở Hà Nội gồm
các quan chức và lãnh đạo của những công ty quan trọng, lần lượt đi qua cái
cổng màu nâu to lớn uy nghi này, báo hiệu một biệt thự sang trọng bên trong
được điểm tô nổi bật bằng những loại cây cảnh đắt tiền ở tiền sảnh.
Hình ảnh tiếp theo cho thấy ông Lê Khả Phiêu,
trong bộ veston mầu sậm, đã tươi cười chờ sẵn ở phòng khánh hoành tráng với
những bộ bàn ghế gỗ quý đánh mầu nâu bóng loáng, lót nệm hoa đỏ kê liên tiếp
nhau, cùng những chậu lục bình trưng bày hoa màu vàng, xanh, hồng, đỏ...
Sau màn bắt tay, cười nói, hỏi thăm nhau vồn
vã, hình ảnh cho thấy dường như là màn trao hay khui lễ vật gì đó - có kèm theo
những phong bì không rõ nội dung - trong sự cung kính khúm núm của những khách
đồng hương.
Rồi những vị khách của người từng cầm đầu đảng
chứng kiến báu vật Trống Đồng Đông Sơn – mà luật pháp hiện hành cấm cá nhân sở
hữu - được gia chủ trưng bày nổi bật...”
Ban liên lạc Đồng hương Thanh Hóa tại Hà Nội đã
có buổi đến thăm và giao lưu với bác Phiêu tại nhà riêng tại ngõ 34A Trần Phú
(ngôi nhà bác mới chuyển về từ đường Hoàng Diệu).
Đại diện của Ban liên lạc gồm có:
Ông Lê Xuân Thảo - Trưởng Ban Đồng hương Doanh
nghiệp TH,
Ông Lê Thế Chữ - Trưởng Ban liên lạc Đồng hương
Tỉnh,
Ông Hoàng Văn Đoàn - Phó Trưởng ban Doanh
nghiệp,
Ông Lữ Thành Long - TGĐ Công ty Misa,
Ông Nguyễn Hồng Chung - Chủ tịch Công ty Luật
Đại Việt,
Ông Bùi Việt Hà - Giám đốc Công ty HINCO,
Ông Nguyễn Hữu Hùng - Công ty Truyền thông Dầu
khí Việt Nam,
Lê Xuân Tiến Trung - Công ty Việt FT và một số
thành viên khác.
Sau đây là một số hình ảnh buổi gặp mặt Lê Khả
Phiêu:
Qua loạt ảnh trên chúng ta thấy điều gì? Đó là
trong khi đại bộ phận dân sống xa hoa thì Phiêu có cuộc sống quá sức xa hoa.
Ngoài căn nhà đồ sộ thì Phiêu còn trưng nào là Ngà voi, Trống đồng, Tranh quý,
bàn gỗ quý v.v... Vậy nếu liêm khiết thì tiền đâu ra? Điều đó nói lên tất cả
bản chất thật của Lê Khả Phiêu.
Thứ hai, ngay sau khi Lê Khả Phiêu bị hạ bệ thì ban
kiểm tra trung ương cộng sản đã có kết luận về Phiêu ngày 26/10/2002 như sau: “Đồng chí Lê Khả Phiêu có dấu hiệu bao che cho
một số hành động tham nhũng của một số cá nhân dưới quyền. Đặc biệt, đồng chí
Lê Khả Phiêu có những quan hệ trên mức tình cảm đồng chí về mặt tài chính với
một số đối tượng đang được bộ công an truy xét...” (5)
Vụ này sau đó đã chìm xuồng nhưng có thể nói với
những gì quan sát cuộc sống và căn nhà Phiêu thì đúng là Phiêu hoàn toàn không
thể vô can trong việc tham nhũng.
Phiêu đang thể hiện “mênh mông tình dân”
IV. Kết luận:
Lê Khả Phiêu là một trong những tên tội đồ của
dân tộc. Hắn đã bán nước cho Tầu mà theo như tổ tiên đã dạy thì phải đáng “tru
di cửu tộc”. Ngoài ra hắn còn là một tên tham nhũng cỡ bự trên xương máu của
nhân dân Việt Nam. Chúng ta cần phải tiếp tục lên án tội ác của Phiêu cũng như
bè lẽ cộng sản để một ngày nào đó dân tộc Việt nam chúng ta lôi chúng ra trước
ánh sáng của công lý. Và có thể kết luận rằng cộng sản Việt Nam tất cả những
tên lãnh đạo cho đến những tên đàn em đều vô liêm sỉ như nhau mà thôi.
5/10/2013
danlambaovn.blogspot.com
________________________________
________________________________
Chú thích:
(2) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sài
Gòn Giải Phóng (SGGP) 19-3-1979.)
(3) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP
19-3-1979).
(4) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP
19-3-1979).
(5) BKTTW – số 12/BC – ngày 26/10/2002).
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết