Date: Thu, 3 Oct 2013 05:31:40 -0700
From: sangthai42
Subject: ĐẠI CÁCH MẠNG VĂN HÓA
From: sangthai42
Subject: ĐẠI CÁCH MẠNG VĂN HÓA
ĐẠI CÁCH MẠNG VĂN HÓA
Đây không phải là Đại Cách mạng
Văn hóa Mao xếnh xáng , bước tiến nhảy vọt chệt 1967. Đây là nói về cuộc Cách mạng
sáng chói của nước Nga 1989 làm sụp đổ cả Đế quốc Nga xô viết và khối cọng sản
Đông Âu.
Trước nay, bàn về nguyên do
sụp đổ của Liên xô, người ta thường viện dẫn lý do suy thoái kinh tế, về chi
phí chiến tranh Afghanistan và về sau học giả Brzezinski còn lưu ý về yếu tố
thanh niên Nga không biết sợ cọng sản như thế hệ cha anh nên đứng lên lật đổ chế
độ Xô viết Nga.
Mới đây, bạn gởi cho bài viết
cũ của Leon Aron, Foreign Policy ( Bản dịch Hồ
Ngọc Cư ) đưa ra một quan điểm khác hẳn về nguyên do thực tế của cuộc cách mạng
Nga 1989.
Về nguyên do kinh tế, tác
giả luận giải: “Không có một thước
đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù
lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có
chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một
năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn
kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời
Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể
đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh
chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một
con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được
(manageable).”
Về chiến phí Afghanistan,
tác giả nhận xét: “ Thật vậy, mặc
dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở thành một
vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân những chi
phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính
vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong tổng
sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.”
Câu hỏi đặt ra là, trong
tình hình kinh tế, tài chánh tương đối ổn định như vậy, tại sao Liên xô bỗng
nhiên sụp đổ mà cả giới học giả Nga lẫn các nhà nghiên cứu quốc tế đều bị bất
ngờ, không tiên liệu được?
Theo tác giả có một lý do có
thể nhận thấy là: “ Việc các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự sụp
đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical revisionism) — tạm gọi
là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng (anti-anti-communism) — một khuynh hướng
phóng đại sự ổn định và tính chính danh của chế độ Xô viết.”
Vậy thì nguyên do đích thật
của cuộc cách mạng Nga 1989 là gì?
Ngày nay, sau khi nghiên cứu
lại các dữ kiện lịch sử, tác giả nhận thấy nhiều phát biểu của các nhân vật có
tham dự vào tiến trình ấy, từ Gorbachev, Aleksandr Jakovlev, ngoại trưởng
Eduard Shevardnadze...đều chú trọng vào tình cảnh phi đạo lý, dối trá và khủng
bố của thời kỳ chế độ Xít ta lin nít đưa tới tình trạng xã hội tồi tệ không còn
chịu đưng được như lời phát biểu của ngoại trưởng Shevardnadze: “ Bộ trưởng
Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không kém vì tình trạng thiếu luật
lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông
1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi thôi”.
Và chính Gorbachev đã kết luận:
“ Mô hình Xô-viết không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội;
nó bị đánh bại ngay trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng
ta, những người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình
ấy trên bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người
về mặt tinh thần lẫn chính trị.”
Về phía giới trí thức Nga,
tác giả viết: “ Những người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý
thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng
tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ.
“
Cuối cùng, từ các tác động kể
trên, tâm thức người dân Nga chuyển biến như tác giả Aron nhận xét: “ Đối với
họ, việc phục sinh đạo lý là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà
soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược
các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện
cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga.
Và như vậy, cuộc cách mạng
Nga 1989 lừng lẩy khởi phát, giống y như những cuộc cách mạng Mùa Xuân Ả Rập
sau nầy.
TRÔNG NGƯỜI LẠI NGẨM ĐẾN TA
Trích dẫn đôi hồi về cuộc
cách mạng Nga từ hai mươi mấy năm về trước để chiếu rọi vào tình cảnh nước nhà
hiện nay.
Nhớ hồi năm 1994, khi Mỹ bãi
bỏ cấm vận, thiết lập bang giao với csvn, chừng đôi ba chục đồng bào tị nạn cọng
sản ở thành phố San Jose, dưới sự điều động của Ban Đại diện cộng đồng đầu tiên
dược bầu lên, tụ tập trước trụ sở Liên Bang trên Đường 1 biểu tình phản dối bãi
bỏ cấm vận, lập bang giao với vc.
Vì mục tiêu biểu tình thuộc
về chánh sách của chánh phủ Liên bang nên đồng bào TNCS ít chú ý nên cuộc biểu
tình mới có ít người tham dự như vậy!
Trước tình cảnh ấy, các người
làm chánh trị cơ hội mới toan tính bắt tay với vc thỏa hiêp chia chác quyền lực,
nói thác là chống cọng bằng cách khác để né đòn.
Chẳng ngờ rằng bị công luận
phát hiện, lật tẩy, chống đối mạnh mẻ: Các cuộc mưu toan đối thoại , thỏa hiệp
với vc đều bị đồng bào biểu tình phản đối dữ dội.
Vì vậy mà những người Hòa hợp,
hòa giải, đối thoại với vc mới hô hoán là “ chống cọng cực đoan, quá khích “,
thậm chí “ độc quyền chống cọng. “
Người chống cọng mới phản
bác rằng: Đối thoại, thỏa hiệp với vc chẳng những không phải là chống cọng mà
còn là Chống - chống cọng ( Anti – anti – communism ) như thuật ngữ kể trên: “ Việc
các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là
do sử quan xét lại (historical revisionism) — tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa
chống cộng (anti-anti-communism) — một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và
tính chính danh của chế độ Xô viết.”
Ngày nay sự thể vẫn còn y
như vậy:
Các quý ông làm chánh trị cù
cưa vẫn cứ kiến nghị, thỉnh nguyện xin “ đảng “ cho cải sửa, tức Xin - Cho! Rấn
lên mức nữa là: “ Phản biện trong phạm vi cơ chế .” Gần đây là Khai dân trí –
Chấn dân khí – Hậu dân sinh và xây dựng xã hội dân sự và vân vân...Họ hành xử
như vậy vì họ nghĩ rằng chế độ toàn trị cọng sản vững vàng không thể lay chuyển
được nên chỉ còn con đường cải lương, hợp tác với cs sửa đổi lần hồi, viện cớ
là tránh làm cách mạng “ gây đổ máu, tàn phá!”
Nói về đổ máu thì như vầy:
Theo blogger Hùynh Ngọc Chênh, hàng năm có 35,000 người chết vì tai nạn giao
thông. Con số thương tật thì gấp đôi gấp ba. Dưới nền y tế xã nghĩa ta, khi bệnh
nhân 4 gười nằm một giường, có khi nằm tràn ra cả hành lang thì bị thương tật,
sống không bằng chết. Cho nên cứ tính đổ đồng hàng năm có 100 ngàn thương vong
vì tai nạn giao thông.
Cuộc chiến chống độc tài
Assad, Syria hơn hai năm nay có 100,000 người mất mạng. So với con số ấy thì
người Việt Nam chết vì tai nạn giao thông dưới sự cai trị “ chết sống mặc bây,
tiền thầy bỏ túi “ của bọn cs An nam nhiều hơn số người Syria chết vì chiến đấu
chống độc tài Assad gấp hai lần!
Cựu vc nằm vùng Lê Hiếu Đằng
nói rằng: Xin đảng cho nó ra Dân chủ – xã hội đối lập công khai thì “đảng” vẫn
cứ “ khống chế “ nền chánh trường VN 30 năm nữa. Như vậy thì con số người chết
vì giao thông đến lúc ấy lên tới 3 triệu là già nửa tổng số người chết trong
Chiếnh Thế giới lần I là 5 triệu!
Bây giờ nói về tàn phá: Chắc
chắn trong khi nổi dậy sẽ có việc đập phá cơ ngơi làm ăn của bọn tư bản đỏ, tức
là đảng viên cs hoặc họ hàng cs. Đó là của ăn cướp trên mồ hôi nước mắt của người
dân. Cho nên của đó đáng lẽ sau cách mạng sẽ phán xét trả về cho người dân thì
nếu có tổn hại ít nhiều thì cũng do người dân chung chịu chớ chẳng phải của
ông, của cha gì của cọng sản và đồng bọn.
Không ai dư nước mắt khóc
thương của ăn cướp bị hư hại.
Huống chi ngày nay, tình thế
Việt Nam còn tồi tệ hơn xã hội Liên xô ngày trước hàng trăm lần. Trí thức dù chấp
nhận cách mạng hay không, người dân lâm vào cảnh đường cùng sẽ tự thân hành động:
Tiếng súng hoa cải Nhà họ
Đoàn, Tiên Lãng nả thương 6 ưng Khuyển côn an, bộ đội chống cưởng chế cào nhà,
cướp đầm vườn.
Hào kiệt Đặng Ngọc Viết,
Thái Bình vì dân trừ bạo, vì nghĩa vong thân!
Tiếng bom chai Molotov,
plastic cảnh cáo cường quyền tiếp tục nỗ vang.
Đó là chỉ dấu tiền cách mạng
Dân tộc: Khi người dân thức tỉnh, nhận thức truyền thống nhân nghĩa của tổ tiên
bị sói lang cọng sản mà hũy hoại, sẽ vùng lên đòi lại đạo lý và nhân phẩm cũng
giống như dân tộc Nga và Ả Rập thực hiện: Đại Cách mạng VĂN HÓA – DÂN TỘC.
Sấm trạng
”Hùm gầm
khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỉ ma tơi bời
Mèo kêu rợn tiếng quỉ ma tơi bời
Rồng bay
năm vẻ sáng ngời
Rắn qua
sửa soạn hết đời sa-tăng
Ngựa lồng quỉ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi ”
Ngựa lồng quỉ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi ”
Giáp ngọ là năm 2014
Hẹn nhau Saigon 2015
Nguyễn Nhơn
Một biến cố
lạ lùng đáng kinh ngạc.
MỌI ĐIỀU BẠN TƯỞNG BIẾT VỀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ LÀ SAI LẦM.
Và vì sao việc
này trở nên quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay?
Leon Aron, Foreign Policy
TrầnNgọcCư dịch
Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất. Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.
Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất. Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.
Vậy, do đâu mà
có sự thiển cận đều khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương Tây không
tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical
revisionism) — tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng
(anti-anti-communism) — một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và tính chính
danh của chế độ Xô viết. Tuy nhiên, một số nhân vật khác vốn không được coi là
mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của
chế độ này. Một trong những người thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh
Lạnh, ông George Kennan, viết rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự
vụ quốc tế trong thời hiện đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến
cố nào lạ lùng, đáng kinh ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn
sự tan biến đột ngột và toàn bộ…của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc
Nga rồi đến Liên Xô”. Richard Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và
cũng là một cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần
đây của Nga là “bất ngờ”. Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo
chung của Liên Xô trong một số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ
National Interest (Lợi ích Quốc gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ
nghĩa Cộng sản Xô viết”.
Nếu có thể hiểu
được dễ dàng hơn, thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có thể đã được
an toàn xếp vào một hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm của khoa học
xã hội rồi bị lãng quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng cách 20 năm,
giả thuyết cho rằng Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình trạng lúc đó
hay bất quá cuối cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá lâu, có vẻ là
một kết luận không kém phần hợp lý.
Thật vậy, vào
năm 1985 Liên Xô gần như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự của 10 năm
về trước. Chắc chắn là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu khá xa, nói
chi đến phương Tây. Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương thực, những
hàng người dài trước các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt diễn ra đều khắp
xã hội. Nhưng Liên Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn hơn thế và đã có thể
đối phó mà không hề mất một mảy may quyền kiểm soát của nhà nước đối với xã hội
và nền kinh tế, lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.
Không có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).
Không có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).
Giá dầu lửa rơi
cực nhanh, từ 66 đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng năm 1986
(trong số 2000 giá cả) chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính Xô-viết.
Tuy vậy, nếu điều chỉnh theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu lửa trên thị
trường thế giới vẫn cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập niên 1970 một
phần ba mà thôi. Nhưng đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô viết gia tăng
hơn 2% vào năm 1985, và sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương của họ còn tiếp
tục gia tăng trong 5 năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ trung bình trên 7%
mỗi năm.
Vâng, tình trạng
đình đốn kinh tế của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng như giáo sư Đại
học Wesleyan, ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những chứng bệnh kinh
niên của Liên Xô không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước này”. Ngay cả nhà
nghiên cứu hàng đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách mạng này, ông Anders
Aslund, cũng ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “là không mảy
may sôi động”.
Từ quan điểm của
chính quyền, tình hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo ngại hơn trước.
Sau 20 năm liên tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả những nhà bất đồng
chính kiến nổi tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp Andrei Sakharov từ năm
1980), buộc phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong các trại cải tạo và nhà
giam.
Cũng gần như không
có bất cứ một dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng tiền cách mạng (pre-revolutionary
crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống thường được coi là có thể dẫn đến sự
suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ bên ngoài. Trái lại, thập niên trước
đó được các học giả đánh giá đúng đắn là thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện được tất
cả những tham vọng quân sự và ngoại giao quan trọng”, như nhà sử học và ngoại
giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết. Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan
ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một quân lực gồm 5 triệu
binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại tại đó là không đáng kể. Thật vậy, mặc dù
gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở thành một vấn
đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân những chi phí
cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính vào
khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong tổng sản
lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.
Hoa Kỳ cũng
không phải là một lực tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan” bao gồm
nỗ lực chống lại và, nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô trong Thế
giới Thứ ba quả có tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những nơi như
Afghanistan, Angola, Nicaragua, và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn của Liên
Xô ở đó cũng chẳng có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế độ.
Trong một màn
giáo đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn kém cho đối
phương, Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do Reagan đưa ra
thực sự có ý nghĩa nghiêm trọng – nhưng đề xuất này không hề báo hiệu
một sự thất bại quân sự cho Liên Xô, vì Điện Cẩm Linh biết chắc rằng việc triển
khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ không gian của Mỹ cũng mất vài thập kỷ nữa mới
thực hiện được. Tương tự như thế, mặc dù cuộc nổi dậy chống cộng sản bất bạo động
của công nhân Ba Lan là một tình hình rất bức xúc cho giới lãnh đạo Xô viết, làm
nổi bật sự mong manh của đế quốc của họ tại châu Âu, nhưng vào năm 1985 Phong
trào Đoàn kết (Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên Xô hình như thích nghi được
với việc tung ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12 năm một lần – Hungary năm
1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980 — bất chấp dư luận thế giới.
Nói thế khác,
đây là một Liên Xô đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn cầu của
mình, theo quan điểm của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại. Sau này,
sử gia Adam Ulam đã nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985, không một
chính phủ của một quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững chắc và có đường
lối chính sách rõ ràng như chính quyền Liên bang Sô viết”.
Hẵn nhiên, có
nhiều lý do thuộc về cơ chế — kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết tại sao
Liên Xô phải sụp đổ như nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không thể giải
thích đầy đủ biến cố này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa là, làm
sao trong một thời gian từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp phải những
tình trạng tồi tệ gay gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn đề cơ chế
khác, mà nhà nước và hệ thống kinh tế Xô viết bỗng dưng bị một quần chúng đủ
đông đảo coi là ô nhục, thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải sụp đổ?
Gần như hầu hết
mọi cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được khởi động bằng
một tiến trình tự do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do căn bản của nó vượt
quá nhu cầu sửa sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế tốt đẹp hơn.
Cái cốt lỏi trong sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng, đó là điều không thể
chối cãi: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn.
Vì mặc dù chiêu
bài đưa ra là cải thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và những người ủng
hộ ông trước hết muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai lầm kinh tế. Hầu
hết những điều họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của chương trình tái
cơ cấu (perestroika), bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách biểu lộ nỗi khổ
tâm của họ về sự suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin.
Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các
vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc
sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội
công chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào? Quan hệ của một
nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như thế nào?
“Một không khí
đạo lý mới mẻ đang thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như thế trước
Ủy ban Trung ương Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông tuyên bố rằng glasnost
(chủ trương cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho perestroika (chủ trương
tái cơ cấu) xã hội Xô-viết của ông. “Việc thẩm định lại các giá trị
và xét lại chúng một cách sáng tạo đang được tiến thành”. Sau này, khi nhắc lại
cảm tưởng của ông rằng “chúng ta không thể tiếp tục như thế thêm nữa, và chúng
ta phải triệt để thay đổi lối sống, dứt khoát với những sai trái trong quá khứ”,
ông gọi đó là “lập trường đạo lý” của ông.
Trong một bài
phỏng vấn vào năm 1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr
Yakovlev, nhớ lại rằng, vào lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm đại sứ tại
Canada, ông cảm thấy đã đến lúc người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta
không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo
một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ
và tương lai của chúng ta…Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta
không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây — một cách nhục nhã,
ngoài mức chịu đựng”.
Theo ý kiến của
vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý
[nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
[Chúng ta] ăn cắp
từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo
cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét,
rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống
dưới và từ dưới lên trên.
Một thành viên
khác trong nhóm thân cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm những nhân vật
chủ trương tự do, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không
kém vì tình trạng thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với
Gorbachev vào mùa đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi
thôi”.
Trở lại thập
niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã lần đầu
thấy rõ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên trên sự
khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết cảm thấy
tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra
tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ dàng về
mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân
chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”. Nhiều
năm về sau, ông đã trả lời phỏng vấn như sau:
Mô hình Xô-viết
không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị đánh bại ngay
trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học
vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên bình diện văn
hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn
chính trị.
Sự thể những cải
tổ đã đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên
nhân “lý tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì thế, ông
cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của
các biến chuyển bắt đầu vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng
đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một hành động phản
lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đã
nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi
ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung,
việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.
Vai trò của tư
duy và lý tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ nét hơn khi
chúng ta nhìn vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một ký giả Xô-viết
hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ trương
glasnost, ông Aleksandr Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng của
perestroika đã “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham
nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn
đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực
chất đang bàng bạc trong không gian”, một chứng nhân khác nhớ lại,
và những người mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét (appreciable
constituency) đang đòi hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng đã
đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và ngày càng gia
tăng đến độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên,
chính các tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách
mạng đang diễn ra.
Theo cách nói của
Yakovlev, cái uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính
trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang rã rệu nhanh
chóng. Nhận thức mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo
ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các
sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn. Trong một trường hợp
điển hình của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học] Robert K. Merton xây
dựng thành lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế là có thực, thì tình
thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền
kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi vì có một chuyển
biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ.
Viết cho một tạp
chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh
ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc
giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu
tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận
quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu
tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh
tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn
thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn
bất hợp pháp. Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng
nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh
hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một
cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi
nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số
người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.
Những người đã
gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ
đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó
là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét,
những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một
công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra những đòi hỏi
hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo
dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.
Tại Nga Xô cũng
vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp
hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán
sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày càng đông các
báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình
luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel
Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia
Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko;
các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and
Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và
chí ít trên hai chục nhà văn nữa.
Đối với họ, việc
phục sinh đạo lý là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại
các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm
xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một
sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong
một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với
chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát
khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình,
thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất
của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ
hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải
bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi
khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này? Trên hết,
đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước
các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp
chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng
chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng
phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu
chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.
Lối lý luận
vòng vo này — để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người
ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ
bên trong” — gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy
về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương
perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan
kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan
trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô
lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu
thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được
đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những
láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả
chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”
Nhìn kỹ vào những
nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các
chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước
đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “có thể ít
khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.
Thông thường,
Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người
cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của
Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này
đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực tìm
kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ
chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại. Cũng
như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh
diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của
cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên
ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại
Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường
phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các
vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà
những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
Mohamed
Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi
cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không
phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa
phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố
cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế.
Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô
vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!”. Tại Ai Cập, các đám đông
đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc
không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tướt
đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông
Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở
hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm
1991.
“Nhâm phẩm có
ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di
đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước
cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao,Libya cũng đang phát triển kinh tế
khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp này nhắc nhở chúng
ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho
niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều
này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế
giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì chầy trước một biến
động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc
cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý thức mãnh liệt về
nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các
quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các
chế độ độc tài "ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước Kyrgyzstan,
ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người
dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác
nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đã bưa lắm
rồi’ (enough is enough)”.
Hẳn nhiên, động
lực đạo lý tuyệt vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng
không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế
độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa
chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những
cuộc cách mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững
một nền dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ
tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho
việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo
lý ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản
sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của
não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa
tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền
to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước
ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ
nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được
thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người
rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.
Đó là lý do nước
Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika
khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa
tăng cao hiện nay đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch
sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị
ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận
đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu
không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.
Người ta chỉ cần
đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa,
liếc qua các trang nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn
đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức
đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980
– “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín
điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự do đang tái khẳng định
chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức
và những nhà hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại
(the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự
do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đã xuất bản một tài liệu có vẻ
như là một chương trình vận động tranh cử tổng thống Nga năm 2012:
Trong quá khứ
nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống
còn…Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị,
hun đúc một ý thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với
tư duy cũ…Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do
và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.
Chính cuộc tìm
kiếm có tính cách trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự
trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với quá khứ và
hiện tại của đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà nước Sô-viết
đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu
rụi (burned-out shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991. Câu chuyện về hành
trình đạo lý và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm
về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.
Trần Ngọc Cư dịch
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết