Subject: [GoiDan] Mậu Thân Huế: Câu
Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa
LGT: Website Chính Khí Việt
xin giới thiệu đến quý bạn đọc nhân chứng sống Nguyễn Thị Thái Hoà kể lại
trường hợp của gia đình chị trong bài viết gốc có tên: "Thư Gửi Thiếu Tá
Liên Thành" trích trong "Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968"!
Vừa là nạn
nhân, vừa là chứng nhân trong cái chết đau thương của những người
thân yêu nhất trong gia đình mình, chị Thái Hoà đã kể lại chi tiết câu chuyện
thương tâm này phần nào nói lên được nỗi đau chung của người
dân Huế trong biến cố thảm sát Tết Mậu Thân 1968 cách riêng và trên toàn thể
lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà nói chung!!! Xin nhớ rằng tội ác của tập đoàn
VGCS với sự hỗ trợ đắc lực của cái gọi là "Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất" 48 năm trước, chỉ tính riêng tại Cố Đô Huế đã cướp đi 5327
sinh linh đồng bào vô tội và dẫn đi mất tích 1200 người, mà cho đến tận
bây giờ vẫn không ai (trừ kẻ sát nhân và tập đoàn VGCS) biết được thi thể của
họ được vùi lấp nơi nào?
Đăng lại
bài viết này và những bài kế tiếp trong những ngày Tết cổ truyền của Dân Tộc,
Chính Khí Việt Net xin dâng lên hương linh đồng bào đã bị VGCS thảm sát dã man
một nén hương lòng!!!
Thi thể người đàn bà được tìm
thấy chết trong tư thế giẫy dụa trong hố chôn tập thể gần trường tiểu học Gia
Hội.
Mậu
Thân Huế – Nguyễn Thị Thái Hòa: Nhân Chứng Sống
Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa
Tôi xin tường thuật lại chi
tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người
bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân, như là tiếng
kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia
tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung. Thay cho tất cả những
ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để
nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng CSVN, và bè lũ khát máu
giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan
Trinh… Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng
Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi
được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở
các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế. Có những trại bệnh sinh viên thực tập
theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương…
thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm… Ca sáng từ 7giờ đến 2
giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ
sáng hôm sau. Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ. Hai tuần
trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai,
tôi và hai anh bạn vào ca đêm. Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về
kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm
nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết
ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh hai lấy xe Honda của anh đưa
tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng cấp
cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng
cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt
bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới
nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì bắt đầu
nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi
thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu
căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không
biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là
thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3-4 giờ sáng, bất thần
không biết tứ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ
xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết
ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng
thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng,
dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh
mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất
gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba… rớt ngay con đường phía trước
cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn
chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm
đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tứ bề, cứ
nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho
tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung,
tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét
mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại
đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện
của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà Sơ dòng áo
trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận
ra trong số đó có Sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung
học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội
và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi,
nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà Sơ,
và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi
chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được
với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là
“quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC
nào nữa, hay họ đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan
như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra
sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được,
súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy Sơ đi đã, khi mô có lính
mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói
không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi
người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà
một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi
nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với
mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì
cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm… cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình.Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng
phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa
lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần.
Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp
té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây
đó, máu me đóng vũng, Không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục
chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh
Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh
kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An.
Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói
không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn
thân run rẫy, tôi khuỵu xuống.Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn
hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV.
Hai đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp
bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà
thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam) nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt
một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không
biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ
tôi không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân
nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy
người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết
trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới
được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè
nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao
giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy
trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh
cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP.
Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi
chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải
thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên
vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda
nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không
biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số
bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.
Vừa vô tới giảng đường thì
anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau
anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ
chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường
đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát
chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân
đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa tìm anh tôi,
hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói
với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi
mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng,
miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước
theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là
khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết
bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường
trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm
bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run
rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ
em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà
rồi em trở lại đi… tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn
nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải
về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề
biết mặt HPNP mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi
còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là
những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh
viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.
HPNP to nhỏ gì với những
người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà.
Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thìVăn thấy một chiếc xích lô của
ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng
tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người
trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô.
Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn
mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
HPNP vừa đánh anh Văn bằng
báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run
rẫy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc
xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà
tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về đến
nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi
không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên
Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người
bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn
cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người
đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó
hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe
Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên
Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc
trực thăng xuất hiện trên trời nhã đạn xuống,Văn nói như reo bên tai tôi, Ti
ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu
của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng
mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá
nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại nồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh
đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ
được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy
Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một
đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu
cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ
con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người
trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ
của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán
họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những
con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm
thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa
ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều
người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu,
mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao không
thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn
thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó
có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi,
mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bộ đội
ngoài Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng,
cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24
đường Hàm Nghi thì HPNP và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi, không được
đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây
là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở
trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này
tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi
HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng
không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là
đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi
đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào
nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông
nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe
tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm
tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được,
tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về
được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi
đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát
được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo
tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống
thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy
xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra
nông nổi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà,
đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn
trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần
nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho
anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng
cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi,
đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên
đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân
người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn
biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông
ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc,
thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không
biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng
được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà
con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà
chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp
nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông
nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo
tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không
xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc
dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy
bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó
như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau
biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti. Phan xô tôi té
xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba… Lập
tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống,
để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ cái
ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách
tuột xuống,thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa
chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nỗ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt
ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất
thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn
tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn
tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván. Anh Văn ngồi bệt
xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê
cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng,
anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó
say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo
nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc
không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông
nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lạy, tôi gọi, tôi gào,
không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu
con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra
từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh
lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu,
toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên.
Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu,
khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của ông nội
đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa
trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi
nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi
như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn
toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào.
Ngày cũng như đêm ngồi rủ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không
còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi
ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà
nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác
Hậu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở
lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó
không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt
đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối bộ đội Bắc Việt
đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin họ đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba
người anh tôi. Họ bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ
huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn
nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Họ không
cho. Họ phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp
lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà
khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại
với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng
từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức
nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi
không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của
tôi. Nằm trong buồng ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuốc xẻng đang đào
đất. Tâm rí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi
gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ
xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ
chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi
giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy
bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ
đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành
phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu,bức tai,
giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là
trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui
lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi
lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào
trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để
mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm
liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ
bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ Cam đã tìm
đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nĩ tôi rán ăn uống thêm một chút
để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con
răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình
bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy
xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác
theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi
theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi
lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ
gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói
với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọnVC chui vô nhà dân để
trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy
bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội
nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân
ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến
được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát
điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về
sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội
như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau khi Huế được giải thoát,
ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ
được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh
Văn đồng ý cho anh Văn đươc nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với
ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng
giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết
định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai
bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần đường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó
tôi không rõ.
Thưa Quý Vị,
Đó là những cái chết oan
khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với
muôn ngàn đau dớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều
người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế.
Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh
viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người
bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp
nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75,
gia đình tôi lại là những nạn nhân của CSVN ác độc, vô luân. Ba tôi và những
đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đã 40 năm qua, những vết
thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái
chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như
sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người
thân yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố
cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em
tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân
chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền
thông khi cần thiết.
Xin trình ông tên tuổi ông
nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh:
Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942. Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên
luật, sinh năm 1946 Nguyễn Thanh Hải, sinh viên
Văn Khoa, sinh năm 1949 Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn
Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Nguyễn
Thị Thái Hòa
Tài Liệu Đọc Thêm:
__._,_.___
Posted by: HungViet Bui <