Nhìn vào nền Đệ Nhất
Cộng Hòa ở VN
Nguyễn Tiến HưngCựu Tổng
trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Mỹ.
- 31
tháng 10 2014
Bầu không khí trong phòng họp thật nặng nề. Các thành viên đến
họp đều đã biết rõ sẽ có những tranh luận hết sức gay go.
“Ông Diệm không phải là
một giải pháp tốt. Pháp và Mỹ đã cố gắng chứng minh ngược lại, nhưng chúng ta
đã thất bại.
"Lợi dụng lúc (Đại
sứ Mỹ) Collins đi vắng, ông ta đã cho nổ súng và đã thắng thế nhưng cũng chẳng
đóng góp gì được cho một giải pháp lâu dài. Quan điểm chống Pháp của ông ta là
cực đoan, Diệm không những bất tài mà còn là một người điên (Fou).”
Đây là lời phát biểu của
Bộ Trưởng Các Quốc Gia Liên Kết, ông Henri Laforet. Chỉ trích việc Mỹ luôn luôn
thay đổi lập trường đối với ông Diệm, Laforet tiếp tục: “Hai bên Mỹ-Pháp chúng
ta đã đồng ý với nhau là chỉ ủng hộ ông Diệm một thời gian cho tới tháng giêng
vừa qua (tháng 1, 1955), lúc đó nếu ông Diệm vẫn cứ thất bại thì ta phải kín
đáo tìm người thay thế. Nhưng điều này đã không xảy ra,” Mỹ đã không tìm người
thay thế ông Diệm.
“Vấn đề là trước tình
thế hiện nay ta phải làm gì,” Ngoại trưởng Foster Dulles trả lời, “và tình hình
hiện nay là đang có một phong trào cách mạng dấy lên ở Việt Nam.”
"Cách mạng gì đâu,
Laforet cãi lại, “Chính cái gọi là ‘Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia’ lại
đang bị Việt Minh chi phối vì Phó Chủ tịch Hồ Hán Sơn là một sĩ quan cũ của
Việt Minh.”
Dulles phản biện: “Nếu
ông cho rằng một người trước đây đã cộng tác với Cộng sản thì bây giờ vẫn là
Cộng sản thì chưa đủ lý do để kết luận…vì nếu lý luận theo kiểu ấy thì chính
ông Bảo Đại cũng có thể là Cộng sản.”
Nếu ông cho rằng một
người trước đây đã cộng tác với Cộng sản thì bây giờ vẫn là Cộng sản thì chưa
đủ lý do để kết luận…vì nếu lý luận theo kiểu ấy thì chính ông Bảo Đại cũng có
thể là Cộng sản.
Ngoại trưởng Mỹ nói với
người tương nhiệm phía Pháp hồi năm 1955
Thấy hai bên căng thăng
quá, Ngoại trưởng Anh Harold MacMillan xen vào và đề nghị ‘Thôi ta hãy hoãn
cuộc họp lại để nghỉ ngơi đã rồi sẽ bàn tiếp.” Đó là đối thoại trong một cuộc
họp tay ba Pháp-Mỹ-Anh ở Paris bắt đầu từ ngày 7 tháng 5, 1955 sau khi Ủy Ban
Cách Mạng họp tại Dinh Độc Lập ngày 29 tháng 4 ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Tới lúc này, sau khi ông
Diệm ổn định được tình hình ở Sàigòn thì Mỹ mới dứt khoát ủng hộ.
Trước đó, ngay từ khi
ông Diệm vừa về nước, Pháp đã thuyết phục được Mỹ cũng đồng ý để loại trừ ông
đi.
Chỉ một tuần lễ trước
cuộc họp này, Đại sứ Mỹ ở Sàigòn còn làm áp lực để Ngoại trưởng Dulles ký mật
điện dẹp ông Diệm (như đề cập dưới đây). Pháp muốn bám víu vào Miền Nam nhưng
lại gặp phải một ông thủ tướng có tinh thần siêu quốc gia nên chắc chắn là phải
tìm mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lãnh đạo thân Pháp.
Hoàn cảnh ở Miền Nam thì
lại thuận lợi: Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn ở Cannes, quân đội Việt Nam còn nằm
trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội, Tướng Nguyễn Văn Hinh
(con trai của cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm) là một sĩ quan cũ trong Không quân
Pháp. Cảnh sát thì do Bình Xuyên nắm giữ; ngay cả lực lượng an ninh ‘Sureté’
cho văn phòng phủ Thủ Tướng Diệm cũng do Cảnh sát gửi đến. Như vậy là ông Diệm
đang ở trong hang cọp rồi.
Pháp, Mỹ và Ngô Đình Diệm
Trong một tài liệu mật
ghi số 1691/5 (ngày 15 tháng 4, 1955), Bộ Quốc Phòng Mỹ thẩm định là có hai yếu
tố làm căn bản cho tất cả những tính toán của Pháp ở Việt Nam, đó là Pháp nhất
quyết:
Giữ vai trò lịch sử lâu
dài của mình tại Việt Nam; vàBảo vệ những đầu tư quá lớn của Pháp về kinh tế,
tài chính tại nơi đây.
Bởi vậy, Bộ nhận xét
rằng: vấn đề quyền lợi của Pháp là yếu tố quyết định cho tất cả những diễn tiến
chính trị tại nơi này. Pháp toan tính hành động ra sao?
Bằng hai biện pháp:
Tìm cách loại trừ ông Diệm hoặc bằng một cuộc đảo
chính, hoặc bằng cách thuyết phục ông Bảo Đại truất chức ông Diệm; và bất hợp
tác với Mỹ trong việc huấn luyện quân đội Quốc Gia Việt Nam
Pháp ‘lobby’ Đại sứ Mỹ
tại Paris và Sàigòn
Muốn dẹp ông Diệm thì
cũng không khó vì lực lượng của Pháp rút từ Miền Bắc vào Nam còn rất hùng hậu.
Chỉ có một trở ngại, đó là chính sách của Mỹ đối với ông này.
Tuy nhiên, vào lúc ấy
thì sự ủng hộ của Mỹ đối với ông Diệm cũng chưa có gì là rõ ràng. Bởi vậy, Pháp
tin rằng mình có thể tìm cách hạ uy tín ông Diệm. Dễ nhất là ‘lobby’ với Đại sứ
Mỹ ngay tại Paris và Sàigòn.
Tại Paris
Ông Diệm chấp chính
tháng 7 thì tháng 8, Đại sứ Mỹ ở Paris là Douglas Dillon đã đánh điện về
Washington báo cáo về cuộc họp với ông Guy La Chambre, Bộ trưởng Các Quốc Gia
Liên Kết. La Chambre nêu ra ba đặc điểm sau đây để phê phán ông Diệm. Đại sứ
Dillon báo cáo:
Paris, Ngày 4 tháng 8,
1954
Kính gửi: Ngoại Trưởng
“Cuối tuần qua tôi có
nói chuyện với ông La Chambre một cách hết sức thẳng thắn. Ông ta cho rằng
tương lai của chính phủ Việt Nam sẽ tùy thuộc vào ba yếu tố sau đây:
Chính phủ ấy phải thực
sự đại diện nhân dân; Phải tổ chức cải cách điền địa cho sớm; và Phải sửa soạn
truất phế ông Bảo Đại để thành lập một nước Cộng Hòa trong mấy tháng tới.
“Ông La Chambre nghĩ
rằng chính phủ Diệm không (“tôi xin nhắc lại là không”) đủ khả năng để thi hành
bất cứ điểm nào trong ba điểm này...”
Dillon
Dillon báo cáo thêm: (i) về điểm thứ nhất: ông
La Chambre lưu ý Hoa Kỳ là theo thông tin nhận được thì ông Diệm sẽ không thể
có khả năng đại diện nhân dân vì ông ấy không có được sự cộng tác và ủng hộ của
các phe phái Miền Nam; (ii) về điểm thứ hai và thứ ba: “vì quá trình của ông
Diệm là quan lại, nên ông ta sẽ phản đối cả việc cải cách điền địa cả việc
truất phế ông Bảo Đại.”
Bởi vậy, La Chambre đề
nghị “Để Miền Nam có được một cơ may thắng thế trong kỳ tổng tuyển cử toàn quốc
thì cần phải có ngay một chính phủ mới.” Đề nghị này là ‘gãi đúng chỗ ngứa’ của
Mỹ vì Mỹ đang lo ngại về cuộc tổng tuyển cử Bắc-Nam (1956) theo như Hiệp Dịnh
Geneva 1954. Ông La Chambre đề nghị ông Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Tướng.
Tại Sàigòn
Ngày 26 tháng 8, Đại sứ
Mỹ Donald Heath được mời dùng bữa tiệc tại nhà một người triệu phú Pháp tên là
Jacques Raphael-Leygues. Tới nơi ông ta mới biết rằng thực ra đây chỉ là một
cuộc hội họp chính trị.
Tham dự, ngoài Tướng
Nguyễn Văn Hinh, có lãnh đạo của các lực lượng giáo phái và một số quan chức
Pháp. Trong bữa tiệc, mọi người tố cáo ông Diệm là người bất tài lại không chịu
điều đình với các giáo phái.
Một người đã hỏi thẳng
ông Đại sứ Heath: “Nếu chúng tôi xúc tiến để thay thế chính phủ Diệm thì ông có
đồng ý hay không?” Ngay ngày hôm sau, ông Heath đánh điện về Washington: “Chúng
ta phải để ý theo dõi tìm một lãnh đạo khác.”
Tổng Tham Mưu Trưởng
công khai chống Thủ Tướng
Tháng 8 thì như vậy, tới
tháng 9 thì ‘hầu như ngày nào cũng có tin đồn về đảo chính.’
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ
CIA báo cáo liên tục là có dư luận tại Việt Nam là Pháp đang đứng đằng sau một
âm mưu lật đổ ông Diệm.
Tướng Hinh công khai
chống lại Thủ Tướng Diệm, và còn khoe “Tôi chỉ cần nhấc cái ống điện thoại lên
là có thể dẹp được Diệm rồi.”
Nghe vậy, ngày 11 tháng
9 ông Diệm đi tới một quyết định táo bạo: chỉ thị cho Tướng Hinh ‘đi nghỉ để
nghiên cứu’ trong sáu tuần và phải xuất ngoại nội trong hai mươi tư giờ.
Mặc dù đã có lệnh, Tướng
Hinh bất chấp, ‘ông mặc áo sơ-mi đi chiếc xe môtô thật bự ngang nhiên chạy vòng
quanh đường phố Sàigòn.’
Một tuần sau, ông cho
phổ biến lời tuyên bố về việc ông bất tuân lệnh ông Diệm và một điện tín ông đã
gửi thẳng cho Quốc trưởng Bảo Đại yêu cầu can thiệp.
Cùng ngày, ông Diệm
tuyên bố là ông Hinh đã nổi loạn. Ông Hinh cho xe thiết giáp bảo vệ tư dinh của
mình, đồng thời phái một lực lượng tới bao vây Dinh Độc Lập. Trong thời gian
sáu tuần tiếp theo, tình hình đi tới chỗ bế tắc.
Ngày 20 tháng 9, có tới
15 ông Bộ Trưởng trong nội các ông Diệm đồng loạt từ chức. Quân đội của ông
Hinh cũng đã sẵn sàng chờ lệnh để tấn công.
Trước sự cương quyết của
ông Diệm, Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ gửi một công điện chỉ thị cho Đại sứ Heath và
Tướng O’Daniel là phải “nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ
không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu
còn một chút nghi ngờ gì về sự trung thành của vị Tổng Tham Mưu Trưởng và các
sĩ quan cao cấp.”
Tướng Hinh ra đi ngày 13
tháng 11, 1954.
Đại sứ Mỹ: “Chỉ ủng hộ
ông Diệm vài tuần nữa thôi”
Nhưng chưa xong. Tướng
Hinh ra đi tháng 11 thì tháng 12, Tổng Thống Eisenhower cử ông Joseph Lawton
Collins (một danh tướng trong Đệ Nhị Thế Chiến) làm Đặc sứ tại Việt Nam.
Vừa tới Sàigòn, ông
Collins đã được Tư lệnh Pháp là Tướng Paul Ély thuyết phục chống ông Diệm.
Collins là chiến hữu của Ély trong thế chiến.
Bây giờ hai ông tướng lại gặp nhau trên chiến
trường Miền Nam. Ngày 6 tháng 12, 1954, Collins gửi công điện ‘Sàigòn 2103’ về
Washington nói về sự “nản lòng của tôi đối với tình hình đen tối tại nơi đây.”
Ông cho rằng “khả năng của ông Diệm yếu kém” và đề nghị “Mỹ chỉ nên ủng hộ ông
ta thêm vài tuần nữa thôi, sau đó nếu tình hình không tiến bộ, Mỹ nên có những
biện pháp khác.”
Đề nghị năm bước để loại
bỏ ông Diệm.
Ngày 9 háng 4, 1955 ông
Collins gửi Ngoại Trưởng Dulles một điện văn dài, đề nghị giải quyết toàn bộ
cuộc khủng hoảng tại Sàigòn.
Đề nghị này: thứ nhất,
sắp xếp việc ông Diệm ‘từ chức;’ thứ hai, thẩm định hậu quả của việc từ chức,
được tóm tắt như sau:
Mật Điện số 4448
Ngày 9 tháng 4, 1955
…..
Thứ nhất, việc sắp xếp
cho ông Diệm từ chức gồm 5 bước đi:
Giải quyết vấn đề rút
Cảnh sát và Công an ra khỏi tay Bình Xuyên, hoặc bằng một nghị định do ông Diệm
ký rồi ông Bảo Đại, Pháp, Mỹ ủng hộ; hoặc cho ông Bảy Viễn một cơ hội để chính
ông ta tự nguyện đề nghị như vậy;
2. Thuyết phục ông Diệm
từ chức, và nếu ông này không chịu thì yêu cầu ông Bảo Đại truất chức; Tìm người
thay thế ông Diệm làm Thủ tướng, rồi ông Bảo Đại gọi người này sang Paris để
tham khảo.
Khi trở về Sài Gòn,
người này sẽ tham khảo với mọi phía để thành lập tân chính phủ;
Đi tới một thỏa thuận về
một giải pháp đối với các giáo phái; và sau cùng,Vận động để các giáo phái chấp
nhận giải pháp trên.
(Vì giới hạn của bài
này, chúng tôi không viết về phần thứ hai, “thẩm định hậu quả của việc ông Diệm
từ chức”).
Đề nghị xong, ông
Collins lên đường về Washington để thuyết phục TT Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles
dẹp ông Diệm.
Ai thay ông Diệm
Ngày 22 tháng 4, 1955
ông Collins dùng bữa ăn trưa với Tổng thống. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles
cùng với các đại diện Bộ Quốc Phòng và Trung Ương Tình Báo để thuyết phục.
Ông nhắc lại quan điểm của ông một cách mãnh
liệt và cứng rắn hơn trước là Mỹ phải thay thế ông Diệm và phải có kế họach
hành động ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát lên thay thế ông
Diệm. Trước áp lực mạnh mẽ của Collins, vừa là đặc ủy của Tổng Thống, vừa là
đại sứ, lại là chứng nhân có mặt tại chỗ để nhận xét, nên sau cùng ông ta đã
thắng thế.
Mật điện thay thế Thủ
Tướng Diệm
Không phải đợi tới ngày
24 tháng 8, 1963 mới có mật điện ủng hộ các tướng lãnh đảo chính mà ngay từ tám
năm trước đó cũng đã có mật điện sắp xếp việc dẹp ông Diệm:
Bộ Ngoại Giao
Ngày 27 tháng 4, 1955
“Tướng Collins và Ely
phải thông báo cho ông Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một
chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ
Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những
đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và
chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chính phủ mới nào được chỉ định…
“ Chúng tôi tạm đề nghị
một tân chính phủ như sau:
1) Về Nội Các: quyền
hành pháp đầy đủ sẽ được trao cho ông [Trần Văn] Đỗ hoặc ông [Phan Huy] Quát
làm thủ tướng và phó thủ tướng;
2)Thành lập một Hội Đồng
Tư Vấn từ 25 tới 35 người đại diện cho các phe nhóm gồm cả các Giáo Phái…và
3)Thành lập một Quốc Hội
Lâm Thời, một cơ chế gần như một Quốc Hội Lập Pháp….”
Dulles
Nhưng với sự may mắn lớn
lao, mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết đuợc nên trong khoảnh khắc
đã cho lệnh tấn công Bình Xuyên (lúc ông Collins còn đang trên đường về Sài gòn),
và đã lật ngược được thế cờ.
Tháng 5, 1955: cuộc họp
nảy lửa tại Paris
Giải quyết được vấn đề
Bình Xuyên cũng chưa xong.
Tình hình tiếp tục căng
thẳng. Ba cường quốc quyết định họp lại ở Paris để bàn tính như trích dẫn ở
phần đầu.
Tranh luận thật là gay
go, kéo dài tới 5 ngày ( từ 7 tới 12, tháng 5, 1955). Để kết thúc, đến lượt Thủ
tướng Pháp Edgar Faure hỏi thẳng Ngoại trưởng Dulles: “Ngài nghĩ thế nào nếu
Pháp rút hết và triệt thoái Quân đội viễn Chinh ra khỏi Đông Dương sớm nhất có
thể?”
Để xoa dịu, ông Dulles
bình luận rằng “Việt Nam không đáng để Hoa kỳ cãi nhau với Pháp, cho nên nếu
như rút lui và cắt bỏ viện trợ cho Việt Nam mà giải quyết được vấn đề thì Hoa
kỳ sẵn lòng.”
Mỗi ngày họp xong, ông
Dulles đánh điện tín về Washington để thông báo kết quả. Ông viết cả việc Thủ
tướng Faure gọi ông Diệm là người điên, và mở ngoặc chữ “Fou”.
Về việc ông Faure hăm dọa sẽ rút hết quân đội
Pháp khỏi Việt Nam, trong lúc nghỉ giải lao ông Dulles gọi điện thoại về
Washington để tham khảo ý kiến.
Ông cho rằng “Ông Faure
đã đưa ra một tối hậu thư, và như vậy, bây giờ Mỹ phải lựa chọn giữa việc tiếp
tục ủng hộ ông Diệm và việc Pháp rút quân sớm.”
Lúc ấy quân đội Quốc Gia
Việt Nam còn non yếu, vậy nếu Pháp rút hết và Bắc Việt tấn công thì làm sao
đây? Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ trả lời: “Chính phủ Diệm có khả năng lớn nhất để có
thể thiết lập được ổn định nội bộ, một điều cần thiết cho an ninh Việt Nam. Bởi
vậy, việc Pháp rút lui tuy tuy rằng sẽ làm cho Miền Nam bớt ổn định, nhưng rồi
các biện pháp của Mỹ trong khuôn khổ SEATO sẽ giúp cho Miền Nam được an toàn
cũng không kém gì sự có mặt tiếp tục của quân đội Pháp.”
Ủy Ban Kế Hoạch của Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia bình luận thêm “Việc Pháp rút lui lại giúp cho Hoa Kỳ hết
bị dính vào dấu vết của thực dân (‘taint of colonialism’) và chấm dứt khả năng
nguy hiểm là Pháp sẽ làm một sự đổi chác với Việt Minh.”
Khai sinh nền Cộng Hòa
Như vậy, nếu như tháng
Tư năm 1975 đã thật đen tối thì tháng Tư năm 1955 cũng hết sức gay go (cách
nhau đúng 20 năm).
Về thời điểm này, tác
giả nổi tiếng Joseph Buttinger là người có mặt tại chỗ đã viết lại: “Kể cả
trong những tuần lễ trước cuộc đảo chánh và ám sát ông vào năm 1963, TT Diệm
cũng đã không bị gian lao, cay đắng bằng trong tháng 4, 1955.”
Ngoài khủng hoảng Bình
Xuyên và sự việc là cả hai tư lệnh Pháp - Mỹ đã cấu kết để dàn dựng loại bỏ
ông, Thủ tướng Diệm còn trăn trở hơn nữa về một vấn đề lương tâm.
Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho ông sang
Pháp để tường trình thì ông đã sửa soạn ra đi nhưng mọi người ủng hộ ông đã
nhất quyết can ngăn.
Theo một báo cáo của Đại
tá Edward Landsdale (sau này lên Tướng), người cố vấn và rất gần gũi Thủ tướng
Diệm thì có ba lần chính Landsdale đã chứng kiến cảnh đau đớn dằn vặt của ông
Diệm (“he cried over my shoulder”).
Một trong ba lần đó là
khi ông Diệm phải miễn cưỡng chấp nhận việc truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Theo
như Tướng Trần Văn Đôn (người trong cuộc) thì ông “Bảo Đại dự định khi Ngô Đình
Diệm ra khỏi nước thì cách chức liền, đưa Lê Văn Viễn, tư Lệnh Bình Xuyên lên
làm Thủ tướng” (Việt Nam Nhân Chứng, trang 124).
Chúng tôi đã chứng kiến
sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc
lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng.
Sau cuộc họp quan trọng
tại Paris, quân đội Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Sự chiếm đóng của quân lực
Pháp từ Hiệp ước Patenôtre năm 1884 tới đây đã hoàn toàn chấm dứt.
Sang Thu 1955 Thủ tướng
Diệm ở vào cái thế mạnh. Đối nội, ông đã chấm dứt được sự đe dọa của Cảnh sát,
và Quân đội Quốc Gia đã tuân lệnh ông quét sạch lực lượng Bình Xuyên. Sau đó
ông được Đại Hội các đoàn thể chính đảng bầu ra nhất mực ủng hộ.
Thêm nữa, ông có hậu
thuẫn mạnh mẽ của gần một triệu người di cư. Đối ngoại thì ông Diệm đã cương
quyết chống trả và khuất phục được kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ély-Collins, bây
giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ.
Ngày 26 tháng 10, Thủ
tướng Diệm tuyên bố thành lập một chế độ ‘Cộng Hòa,’ và trở thành Tổng Thống
đầu tiên.
Tên chính thức của nước
Việt Nam đổi từ ‘Quốc Gia Việt Nam’ sang ‘Việt Nam Cộng Hòa,’ nhưng bài quốc ca
và quốc kỳ không thay đổi. Sau này, chính TT Eisenhower còn nhắc lại về những
gian lao trước lúc khai sinh Nền Cộng Hòa Việt Nam:
Thưa Tổng Thống,
"Chúng tôi đã chứng
kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt
tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là
vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường
chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ
quá là nhanh chóng...” (Thư TT Eisenhower gửi TT Diệm ngày 22 tháng 10, 1960).