Nhân dịp 30 tháng 4, giới thiệu sách
CHIẾN
TRANH VIỆT NAM TOÀN TẬP
của
Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương
do
nhà xuất bản Làng Văn ấn hành
(nếu không thấy hình, xin bấm vào attachment
bên dưới để xem)
Chiến Tranh
Việt Nam Toàn Tập là một tác phẩm lớn, đúc kết toàn diện, nghiêm chỉnh và chính
xác về chiến-tranh Việt-Nam trên bình-diện quân-sự. Tác giả đã tập trung tài liệu
về các trận đánh tiêu biểu từ năm 1963, thời điểm Cộng Sản bắt đầu đưa chiến
tranh sang giai-đoạn mới, cho đến khi Miền Nam hoàn toàn lọt vào tay Cộng-Sản
Bắc Việt năm 1975. Cho đến nay, đây là quyển sách duy nhất liệt kê theo thứ tự
và đi sâu vào chi tiết các trận đánh trong khoảng thời gian vừa kể, nhất là các
trận đánh mà thành phần tham dự chủ lực là các đơn vị thuộc Quân lực VNCH. Căn-cứ
vào cường-độ chiến-tranh và mức độ tham chiến của hai phía Quốc Cộng, khoảng
thời-gian nầy có thể chia ra làm ba giai-đoạn; quyển sách do đó gồm có 4 chương.
Chương 1
tóm tắt bối cảnh lịch-sử để độc giả có một ý niệm tổng quát về những biến
chuyển liên quan đến cuộc chiến tranh Việt-Nam trong khoảng thời gian từ năm
1963 đến năm 1975.
Chương 2 ghi lại các trận đánh trong hai năm 1963-64 khi Cộng-Sản Bắc-Việt bắt
đầu phát-động chiến-tranh xâm-lược tại Miền Nam.
Chương 3 mô tả giai-đoạn VNCH và đồng-minh chống Cộng-Sản xâm-lược. Giai-đoạn
nầy bắt đầu năm 1965, kéo dài đến mùa hè năm 1972 khi VNCH nhận được sự giúp đỡ
trực tiếp của các quốc-gia đồng-minh.
Chương 4, bắt đầu với sự rút lui của quân-đội đồng-minh theo hiệp-định Ba-Lê
năm 1973. QL/VNCH tiếp tục cuộc chiến chống xâm-lược một cách đơn độc, cho đến
khi CSBV cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam vào năm 1975.
Về tài-liệu
tham-khảo, tác-giả đã cố gắng sưu tập từ cả hai phía Tự do và Cộng-Sản để đưa
đến cái nhìn tổng thể.
Về nội-dung,
tác-giả trình bày một cách trung thực những sự kiện đã xảy ra. Quá khứ đã trôi
qua mấy mươi năm, cùng với sự sụp đổ của chủ-nghĩa Cộng-Sản đã đủ để chứng-minh
tất cả. Ðể đạt tới mức chính-xác trên phương-diện sử liệu, tác-giả đã liên-lạc
những chứng nhân lịch-sử, ghi nhận hoặc kiểm chứng những điểm liên hệ.
Về hình thức, các tài-liệu tham-khảo và bản đồ liên hệ được đặt ở phần cuối của
từng trận đánh để độc-giả có thể tra cứu một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Tóm tắt nội dung:
53 trận đánh lớn với sơ đồ mặt trận, diễn tiến, kết quả.
-
1963-1964, QL/VNCH chiến đấu đơn độc (chưa
có quân Đồng Minh): Ấp Bắc, Đầm Giơi, Hiệp Hòa, Suối Đá, An Lão, Bình Giã.
-
1965-1972 (có Đồng minh): Vũng Rô, Ba Gia,
Phụng Dư, Đồng Xoài, Đức Cơ, Bố Đức, Vạn Tường, Pleime, Ia Drang, Bàu Bàng,
Hành quân Masher/White Wing, A-Shau, Hành quân Attleboro, Long Tân, Hành quân
Cedar Falls, Hanh quân Junction City, Cồn Tiên, Rạch Ba Rài, Dakto, Khe Sanh,
Tổng công kích Mậu Thân, Làng Vây, Đại Độ, Khâm Đức, Lam Sơn 719, Căn cứ Hỏa
lực Mary Ann, Mùa hè 1972.
-
1972-1975, QL/VNCH chiến đấu đơn độc (sau
khi Đồng minh tháo chạy): Hồng Ngự, Cửa Việt, Sa Huỳnh, Quảng Đức, Hoàng Sa,
Hành quân Trí Pháp, Hành quân Svay Riêng, Tống Lê Chân, Thượng Đức, Phước Long,
Chiến dịch 275, Lui binh trên tỉnh lộ 7B, Lui binh tại Quân đoàn 1, Phan Rang,
Xuân Lộc, “Chiến dịch Hồ Chí Minh” của CS Bắc Việt.
-
Phụ-bản
A sơ-lược sự hình thành và phát-triển của QLVNCH.
-
Phụ-bản
B giải-thích cơ-cấu tổ-chức của các đơn-vị quân-đội Mỹ tham chiến tại
Việt-Nam.
-
Phụ-bản
C viết về quân-đội CSBV và Việt-Cộng.
-
Phụ-bản
D liệt kê một số quân-cụ tiêu biểu.
-
Phụ
bản E và G là hai văn kiện lịch sử: Hiệp-định Genève năm 1954 dẫn tới việc
thành lập nước Việt-Nam Cộng-Hòa và Hiệp-định Ba-Lê năm 1973 đưa đến sự cáo
chung của chính thể tự do đó.
Các tướng lãnh VNCH đóng góp tài liệu:
Nguyễn Xuân Thịnh, Vĩnh Lộc, Bùi Đình Đạm, Nguyễn Duy Hinh, Lê Minh Đảo, Lý
Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Quang Lưỡng, Mạch Văn Trường, Phạm Duy Tất, Hồ Văn
Kỳ Thoại.
Tác giả Nguyễn Đức Phương, sinh năm 1950
tại Sài Gòn, tốt nghiệp khóa 27 Sĩ quan hiện dịch, Hải quân thiếu úy, tốt
nghiệp Tiến sĩ Cơ khí tại Anh quốc năm 1983, phục vụ trong Bộ Quốc phòng nước
Anh.
Sách Chiến Tranh
Việt Nam Toàn Tập khổ lớn, bìa cứng, dày 960 trang, nguyên giá 45 mỹ kim.
Làng Văn “sales” trong
30 ngày với giá 30 mỹ kim bao luôn cước phí nội địa Mỹ (độc giả ở các nước khác
xin liên lạc để biết cước phí).
Có thể mua ngay
từ bây giờ, trả qua Paypal cho địa chỉ langvan@langvan.net
hoặc gửi chi
phiếu về:
Làng Văn
250 North Service
Road
Grimsby, Ontario
L3M-4E8
Canada
Hạn chót: 30
tháng 4, 2016
Tết Mậu Thân 68 CS chiếm Huế 26 ngày . Nhóm SV tranh đấu nằm
vùng theo CS cho treo các tấm Banner :
" Tinh thần Cách Mạng 1-11- 63 BẤT DIỆT " , hung
hăng tàn sát dân lành vô tội.
Huế tang thương trong máu lửa ngập trời ...với hơn bảy ngàn nhân viên chính phủ , cảnh sát và thường dân bị chôn sống.
Sau Tết Mậu Thân , dân Huế kinh nghiệm đau thương, đã sáng mắt ra và tự đó gọi Thượng Tọa Thích Trí Quang là " Sư Hổ Mang "
On
Tuesday, March 8, 2016 8:03 PM, " hungthe wrote:
Kính chuyển quývị,
baì viết rất giá trị đọc cuả T/g thẩm phán PhanThiết Nguyễn Kim Khánh, ht
----- Forwarded Message -----
From: Phaolo Thai wrote
Sent: Tuesday, March 8, 2016 2:37 PM
Subject: Đệ nhất Cộng Hoà ....???
From: Phaolo Thai wrote
Sent: Tuesday, March 8, 2016 2:37 PM
Subject: Đệ nhất Cộng Hoà ....???
Đệ nhất Cộng Hòa có kỳ thị Phật giáo không ?
Phật giáo Thống nhất
đã đòi: Một trong năm nguyện vọng của Phật giáo đồ" là yêu cầu chế
độ Ngô Đình Diệm để cho tăng ni được tự do truyền đạo và hành đạo".
Nhưng họ lại không đưa
ra được bằng chứng nào cụ thể chứng minh chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những
khó khăn hoặc ngăn cản việc truyền đạo hay hành đạo.
Ngược lại người ta có
rất nhiều bằng chứng, chứng minh đạo Phật đã phục hưng rất mạnh trong chín năm
cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước nhất, là số chùa được xây cất.
- Trong cuốn "Our
Vietnam Nightmare" bà Maguerite Higgins cho biết:
" 1275 ngôi
chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình
Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi
Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi
chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi
chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền,
đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung
tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung
tiểu học trong cả nước. Đa số trường này được xây cất trước ngày
1.11.1963.
Đọc những thành quả
trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông
đã "kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình
diện chính sách quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm
quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào
chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ
thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
Khi tôi đưa ra một vài
vấn đề để viết bảng so sánh dưới đây, tôi không đề cao Công giáo hay miệt thị
Phật giáo. Tạm thời tôi chỉ nói về:
Yếu tính đạo giáo
- Đạo Phật không hẳn
là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần Linh .
Đức Phật không phải là
Thần Linh. Ngài chỉ là bậc Đại giác, bậc Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ
Phạn là A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề (Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử
theo ngài đều là tỳ kheo như nhau, không đẳng cấp. Đã không không hẳn là tôn
giáo, thì cũng không hẳn phải có giáo hội mà chỉ có những tu hội quy tụ những
người đồng một chí hướng trong một tu viện hay một ngôi chùa.
- Đạo Công giáo rõ
ràng là một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao là Thiên Chúa, và có hàng giáo
phẩm thống thuộc từ cao xuống thấp tỏa rộng sinh hoạt trong cộng đồng tín đồ.
Chúa Jêsu đã thiết lập giáo hội, đặt ông Phê-rô làm đầu chăn "các chiên mẹ
và chiên con". Chúa như cây nho, tín đồ là cành nho. Thánh Phao-lô gọi
giáo hội là là "thân thể mầu nhiệm" của Chúa. Giáo hội trở thành keo
sơn liên kết người sống và kẻ chết: Giáo hội đang chiến đấu là giáo hội hữu
hình, gồm toàn dân Thiên Chúa ở trần gian, giáo hội khải hoàn là toàn thể dân
Chúa trên Thiên đàng, giáo hội đau khổ là toàn thể dân Chúa đang chịu thanh
luyện sau khi chết, để nhập vào giáo hội khải hoàn.
- Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là mượn của Đạo Thiên Chúa: Là
Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh (Mat.16,19), nhưng chỉ mượn được
"sắc tướng" thôi, chứ bản chất thì không thể mượn được . Vì thế, tín
đồ Công giáo đoàn kết keo sơn thành một cộng đồng rõ nét, và tuân lệnh chủ
chiên của mình là hàng giáo phẩm trong vấn đề đức tin. Đời sống giáo hội thông
hiệp với tín đồ bằng lời Chúa do giáo sĩ giảng dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín
đồ bằng các phép Bí tích. Bí tích Thánh thể trung tâm của đời sống Công giáo.
Điều này, đạo Phật không thể có được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong
Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng ai cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã
dạy:
"Ta là Phật đã
thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" và "Chúng sanh hãy tự đốt đuốc
tìm đường mà đi".
Tuy gọi là "quy y
Tam Bảo", nhưng tín đồ đạo Phật hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã
không lệ thuộc ai, thì sự giao tế trong một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội
hàng ngang. Kết quả sự tôn kính dành cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo
sĩ truyền giáo) giảm. Những cái giảm kia xẩy ra ngay trong cộng đồng đạo Phật
tỏa rộng ra toàn xã hội, đưa đến Ngộ Nhận là "kỳ thị Phật giáo".
Về những người làm
việc tôn giáo
- Đạo Phật: Các tu sĩ đồng hạng đều là tỳ kheo, tức là những người sống
theo lối tu hành của Đức Phật. Muốn làm tỳ kheo chỉ cần tâm nguyện xuất gia là
đủ. Xuất gia rồi, thì giữ giới luật là thành tỳ kheo. Không bắt buộc trình độ
văn hóa hoặc là phải tu học bao lâu. Không có các trường chuyên nghiệp bắt buộc
đào tạo tỳ kheo theo một học trình mở rộng cả đạo lẫn đời. Thường thì các vị sư
cụ (đại lão Hòa thượng, Thượng tọa) thu nhận một số đệ tử rồi tự các ngài huấn
luyện lấy, xong cho thụ giới thành tỳ kheo. Bởi đó, trình độ văn hóa tổng quát
của các vị tỳ kheo thường yếu kém, nhiều vị ngay sự hiểu biết về Phật pháp cũng
rất lờ mờ, pha trộn tín ngưỡng dân gian, ngoại đạo. Ấy là chưa nói tới một số
kẻ lợi dụng như: họ nguyên chỉ là thầy cúng của "đạo" dân gian, bỗng
chốc mặc áo tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của đạo Phật.
- Đạo Công giáo: Người giáo sĩ Thiên Chúa dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ
triều (thuộc mỗi địa phận) được đào tạo trong các trường chuyên nghiệp, theo
học một học trình Quốc Tế là bảy năm, sau khi tốt nghiệp bậc trung học hay
"phổ thông". Ở Đại Chủng Viện, họ được học đủ các môn học về đạo và
đời, học về phương pháp truyền giáo, và học cả về các tôc giáo khác… Đại Chúng
Viện trang bị cho họ đủ khả năng trở thành những "cán bộ" tôn giáo
xuất sắc. Nhiều người trong số họ uyên bác và nói chung đều có học thức.
- Hệ quả: Xã hội Việt Nam trọng kẻ sĩ, những kẻ có học thức thường được
kính trọng. Các nhà sư nhiều người xuất thân từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của
các sư cụ khả năng yếu kém, thì sẽ không đủ uy tín lãnh đạo và không tạo được
sự kính trọng của người khác. Điều này, đem so sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ
tạo ra sự ngộ nhận là "kỳ thị Phật giáo".
Trước năm 1955, đạo
Phật ở Việt Nam chỉ là những "tập đoàn" rời rạc, quy tụ chung quanh
một ngôi chùa hay một tu viện, lấy việc tu niệm làm chính. Các "giáo
hội" Tăng già, Thiền tịnh đạo tràng, Tăng sĩ Theravada, Tăng già
nguyên thủy… giữ nguyên bản sắc của mình giống như dòng tu riêng biệt, không lệ
thuộc một "giáo hội" trung tâm như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành
thuần túy không màng tới chuyện đời, không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu
hoằng dương đạo pháp, không lệ thuộc một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các
ngôi chùa làng. Chùa làng là công sức và của cải của dân làng chung lưng mà
dựng nên, không thuộc tập đoàn Phật giáo nào. Khi đã có chùa rồi, thì hội đồng
kỳ mục tự tìm kiếm lấy sư để mời về trụ trì, và dân làng cũng có quyền trục
xuất vị sư ra khỏi chùa, nếu ông ta phạm giới.
Từ năm 1955, do cố
gắng vượt bực về tài chánh, do chính quyền giúp đỡ, Tổng giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã có các hoạt động xã hội và từ thiện: hệ thống trung tiểu học Bồ Đề
ra đời, mà trước đó không có.
Đồng hóa đạo Phật với
dân tộc:
Chắc chắn dân tộc Việt
Nam đã có một đạo giáo khác hẳn với đạo Phật. Đạo ấy, là việc thờ cúng tổ tiên
và trọng thánh thần. Việc thờ cúng tổ tiên minh thị chấp nhận như chân lý của
dân tộc là linh hồn bất diệt. Vì linh hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng
người chết, xem người chết như còn hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt
của người sống.
Trong khi đó, thì giáo
lý căn bản làm nên Phật pháp của đạo Phật là thuyết luân hồi, phủ nhận linh hồn
hằng sống. Đức Phật không dạy rõ, nếu linh hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm
cho các pháp (con người cũng là một pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước
khi chấm dứt sinh tử thoát khỏi luân hồi mà vào Niết Bàn?
Các nhà Phật học đã
sáng chế ra duy thức học. Cái thức cuối cùng là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch
là Tâm thức, tức là cái thức "máy móc" tạo thành cái nghiệp theo luân
hồi. Dù sao thì thuyết luân hồi cũng trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là
lòng tin vào linh hồn bất diệt qua việc thờ cúng người chết.
Chính vì thế, nên cho
dù đạo Phật đã vào nước Việt sớm hơn đạo Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời
với niềm tin của Đạo Việt tin vào linh hồn hằng sống; đến khi thấy con số tín
hữu Công giáo tăng lên vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thì các tăng lữ đạo Phật vì
không biết làm gì hơn, nên đã lên án chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm là
"kỳ thị Phật giáo", là bất công và gian trá.
Nhưng đánh thẳng vào
Công giáo không được, vì phạm tới tín ngưỡng của người khác, được xem là tội
mọi rợ, bị cả thế giới lên án, vì đó là nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất
của con người. Ngay cả cộng sản bài trừ tôn giáo triệt để, nhưng cũng không dám
công khai xúc phạm thẳng tới tôn giáo, họ phải nhờ cái cầu "giai
cấp". Ở Việt Nam những người thù nghịch Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo
bằng cách chụp cho Công giáo một cái mặt nạ, một cái mũ. Mặt nạ ấy, là Cần Lao,
nhà Ngô và chủ nghĩa Thực dân Pháp. Đọc những lời lên án Công giáo đầy rẫy ta
thấy rõ "Thực dân, Cần Lao, nhà Ngô chỉ là cái diện để những người thù
nghịch đánh vào Công giáo, không những Công giáo Việt Nam mà cả Công giáo hoàn
cầu, là Tòa Thánh La Mã.
Nghiên cứu về mưu kế,
sách lược này được sách "Tam thập lục kế" gọi là "Thanh Đông
kích Tây hay dương Đông kích Tây". Ở đây không phải là nhà Ngô hay thực
dân, mà chính là Đạo Thiên Chúa vậy.
Trở lại cuộc đấu tranh
của đạo Phật vào năm 1963. Đa số các tông phái
của đạo Phật chỉ lo tu thân, học Phật, nhiều tông phái không muốn lao thân vào
cuộc đấu tranh lật đổ "nhà Ngô". Nhiều vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận
Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có công giúp cho các đạo giáo phục hưng và
phát triển ở miền Nam, trong đó có đạo Phật. Nếu cứ để tình trạng ấy thì các
nhà sư chính khách không thể thực hiện được mưu đồ của mình, mà việc trước mắt
là đoàn kết các tông phái rời rạc trong cùng một đạo thu về một mối. Họ đã phát
động cuộc đấu tranh: Tổng thống Ngô Đình Diệm trở thành thứ "oan
dương" cho họ đổ lên đầu những tội lỗi tưởng tượng.
Kẻ làm chính trị được
phép sử dụng những thủ đoạn, được quyền dùng những giả diện để chiếm mục tiêu,
nhưng phải thành thật với chính mình, nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo
về quân lương. Tào Tháo làm mặt bảnh nói quanh, nhưng trong bụng thì lo lắm vì
quân hết lương rồi. Sau phải thưa thiệt để Hứa Du hiến kế.
Những kẻ nhận phần
trăm dân số đạo Phật ở Việt Nam đã vẽ ra một tương lai tươi sáng cho "đạo
pháp và dân tộc" bằng không tưởng, rồi quyết tâm hạ bệ "nhà
Ngô". Đến khi "nhà Ngô" đổ rồi, thì đạo pháp trở thành mạt pháp,
còn dân tộc thì điêu linh khốn cùng tới tận đất đen. Các tay chính khách đạo
Phật từng ngụy trang thành tăng sĩ chính khách, đã đồng hóa đạo Phật với dân
tộc, để nhận cái số đông quần chúng làm quần chúng của mình theo cái cách thức
của những kẻ làm chính trị. Công thức "đạo pháp và dân tộc" không
những trái với lịch sử mà còn tỏ ra là gian dối. Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham
vọng, dù thực chất của họ chẳng có gì. Những ai có lòng với đất nước Việt Nam
không nên ngại ngùng gì mà phải đưa vấn đề ra trước ánh sáng, để quốc dân biết
mà tránh sau này.
Phan Thiết Nguyễn Kim
Khánh
__._,_.___
__._,_.___