Trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975 khúc quanh lịch sử
Trọng Đạt
Sau ngày ký Hiệp định Paris, miền Nam Việt Nam
mạnh hơn miền Bắc. Tháng 11 năm 1972 TT Nixon vội cho chuyên chở tới VNCH gần
600 máy bay các loại gồm: 208 máy bay phản lực gồm chiến đấu và oanh
tạc cơ loại nhẹ và khoảng 360 trực thăng các loại, 23 phi cơ thám
thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48
(Nixon No More Vietnams trang 170-171).
Trong khi ấy BV bị thiệt
hại nặng và thảm bại trong trận muà hè đỏ lửa, tính tới tháng 9/1972 có vào
khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh CS bị giết, khoảng 700 chiến xa bị phá
hủy (Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587),
ngoài ra trận oanh tạc dữ dội Giáng sinh 1972 bằng B-52 đã gây thiệt hại rất
nặng cho hạ tầng cơ sở BV như kho hàng, đường xe lửa, nhà máy điện, phi
trường….
Mặc dù mạnh hơn
miền Bắc rất nhiều nhưng miền Nam không được phép đánh ra Bắc mà chỉ được ở yên
trong thế tự vệ chờ địch tới, điều này ai cũng biết cả. Khoảng gần một năm sau tình
hình bắt đầu thay đổi, cán cân quân sự nghiêng về phía BV. Ngay sau
khi ký Hiệp định Paris, CSBV vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định, chiến tranh vẫn
tiếp diễn, trong khi miền Nam VN bị cắt quân viện dần dần , miền Bắc
vẫn được CS quốc tế tiếp viện dồi dào, về chi tiết tôi sẽ nói sau. Cuộc chiến
tranh giữa hai miền là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên
đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện bên
ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng.
Tình hình chung
hai bên
Năm 1973 có thể
chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ Hiệp Định Ba Lê 28/1 cho tới tháng 10/1973
và giai đoạn bạo lực cách mạng sau tháng 10/1973.
Từ sau ngày ký Hiệp Định
Ba Lê đến tháng 10/1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6/1973 Quốc hội Mỹ biểu
quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương Việt,
Miên, Lào. Ngày 1/7/1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8/1973
cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10/1973 Quốc Hội ra đạo
luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act), Tổng Thống phải
tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Thấy thời cơ thuận lợi
đã tới, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo
lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh
quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ
Đông Trường Sơn
Theo Henry Kissinger (Years
of Renewal trang 478) sau khi ký Hiệp định Paris, BV bắt đầu cho xây
hệ thống đường xâm nhập tiếp liệu chằng chịt dài tổng cộng 20 ngàn km từ Bắc
xuống Nam, từ Đông sang Tây, rộng 8m, hàng ngàn km ông dẫn dầu cung cấp cho
hàng chục ngàn xe vận tải.
Sau Hiệp định
khoảng gần một năm, Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy VNCH mỗi năm 50%,
từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn
700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên
giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang
471). Dưới thời TT Nixon, chính phủ đã đề nghị Quốc hội cấp 1 tỷ 4 viện trợ
quân sự cho miền nam VN năm 1975, Ủy ban quốc phòng Thượng viện do Nghị sĩ John
Stennis làm chủ tịch cắt bớt còn 1 tỷ, nay dưới thời TT Ford Ủy ban chuẩn chi
Thượng viện do Nghị sĩ John McClellan làm chủ tịch cắt 300 triệu còn 700 triệu
(Years of Renewal trang 472).
Quốc hội Mỹ cắt
giảm quân viện khiến cho VNCH suy yếu rõ rệt: 35% xe tăng, 50% thiết giáp,
máy bay thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ, vì bị cúp nhiên liệu, khả năng lưu
động vận chuyển của quân đội không còn (Nixon, No More Vietnams tr. 187). Từ
giữa năm 1974 hỏa lực giảm từ 60 tới 70% , tháng 3 -1975 đạn dược
chỉ còn đủ xử dụng trong một tháng, giữa tháng 4-1975 chỉ còn đủ cho xài khoảng
10 ngày (Cao Văn Viên Những ngày cuối của VNCH trang 91, 92). Hơn hai ngàn máy
bay đủ loại nay phần vì thiếu cơ phận thay thế, và vì không có săng để cất cánh
nên đã nằm ụ nhiều, sự sụp đổ của VNCH đã gần kề.
Theo bản tin của
BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt
Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và 15/4/2006. Trong số các bài
đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân
sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc
và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến. Giai đoạn
1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ
thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí. Như vậy số
lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.
Theo
Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ
của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà
Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga
Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ
hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4
lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn
Đánh hơi thấy Mỹ
quẳng miếng xương Đông Dương, CS quốc tế và CSVN nhanh tay ra vồ ngay lấy. Cuối
tháng 10/1974 Bộ Chính Trị Hà Nội quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975, tranh
thủ bất ngờ, tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành
Tổng công kích. Trong giai đoạn 1969-1972 sự vận chuyển súng đạn của CS vào Nam
gặp nhiều khó khăn vì bị không quân Việt-Mỹ ném bom, bắn phá nhưng
kể từ sau ngày ký Hiệp Định Paris 1/1973, BV đã dùng 16 ngàn xe vận tải chở
súng đạn qua xa lộ Đông trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh một cách tự do
thoải mái nên giai đoạn 1973-1975 Hà Nội đã đem
được nhiều vũ khí đạn dược vào Nam gấp mấy lần giai đoạn trước ( 1969-1972)
Trong khi ấy Tổng
Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng về lực lượng cũng như kế hoạch
sắp tới của CS. Ngày 9/12/1974 , khoảng một tuần trước khi BV tấn công Phước
Long, tại dinh Độc Lập trong một phiên họp cao cấp quân sự gồm Hội đồng Tướng lãnh
và các vị Tư lệnh Quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 BV có thể đánh
với qui mô lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, địch chưa có đủ
khả năng đánh vào các thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! BV chỉ đánh các
thị xã nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa. Về điểm này Frank Snepp, trong
Decent Interval, Tướng BV Văn Tiến Dũng và ông Cao Văn Viên đã ghi nhận gần
giống nhau như vậy, ông Thiệu lạc quan cho rằng BV chưa phục hồi sau trận mùa
hè đỏ lửa 1973.
Từ tháng 10 năm
1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị
và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn Tiến
Dũng đã ghi nhận trong hồi ký.
“Tháng 10 năm
1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi nhớ đến
mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nghe Bộ Tổng
tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược. . . . …
. . . . . . . . .
Hội nghị nhất trí thông
qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên làm hướng chiến
trường chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975”
(Đại thắng mùa xuân
trang 24)
BV cho
rằng TT Thiệu đã bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu, tại Quân khu 1 và 3 thì bố
trí nhiều đơn vị chủ lực, nhiều chiến xa, đại bác và máy bay chiến
đấu, còn tại Quân khu II ta chỉ để 2 Sư đoàn 22 BB và 23 BB. Quân khu II rộng
nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh, VNCH phải trải quân giữ đất nhiều nên khả năng
phòng thủ yếu. Bộ chính trị CSBV đã đồng ý kế hoạch nêu trên và chọn Tây nguyên
để làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công năm 1975. Hà
Nội đã chọn chiến trường Tây Nguyên (Quân khu II) làm chủ yếu vì tại đây lực lượng
VNCH yếu hơn ba quân khu I, II, IV.
Đại tá Phạm Bá Hoa
nói hồi ông học tại trường Đại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài liệu
nói “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung thì người
đó sẽ nắm phần chiến thắng”, Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây Nguyên thì làm
chủ chiến trường. Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu II trước phần vì VNCH
phòng thủ yếu tại đây vả nó là vị trí yết hầu. Một phần vì ông Thiệu không chủ
trương giữ Quân khu II, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong thâm tâm đã có ý
tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ Quân khu III và
IV, trên thực tế lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trừ bị để
tăng cường
Sau khi lựa
chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, tại buổi họp
của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9/11/1974 Lê Đức Thọ tay trùm
CSBV tham dự để nâng cao quyết tâm chiếm cho được Ban Mê Thuột, Thọ nói
“Phải đăt vấn đề dứt khoát là
giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được
Buôn Ma Thuột là thế nào?”
(Sách đã dẫn Trang 31)
Bắc Việt đã
chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi ta chưa
có tin tức tình báo rõ rệt. Chiến dịch Tây nguyên được mang mật danh 275.
Ngày 13/12/1974
Bắc Việt đưa gần ba Sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7/1 tỉnh này hoàn
toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4,500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn 850 người sống
sót. Tỉnh trưởng Phươc Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích, 3,000 trong số 30
ngàn dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị CS hành quyết,
thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một Tiểu đoàn bộ binh và 5 Tiểu đoàn
địa phương quân không thể chống lại 3 Sư đoàn CS.
Chính phủ VNCH
không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu viện
bằng trực thăng vận từ Biên Hoà. Nói về mặt kinh tế chính trị Phước Long kém
quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Hà Nội cho đánh Phước Long để thăm dò Mỹ,
khi thấy Mỹ chỉ phản đối xuông thì họ làm tới.
Sau trận
Phước Long TT Thiệu biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu năm 1975
nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì địch nghi binh tối đa. Phía VNCH không đoán
được ý định của họ, theo Tướng Hoàng Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp
đã dặn dò Dũng phải nghi binh tối đa để đánh lạc hướng Nguỵ.
Tình hình chính
trị quân sự VNCH năm 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20
tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970,
1971 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm vì Mỹ đang rút quân. Khi nửa triệu quân đồng
minh đã rút đi, VNCH phải một mình gánh vác tất cả chiến trường với tiền viện
trợ bị cắt giảm từ cuối 1973 mỗi năm 50%.
Việc cắt giảm đưa
tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, trong
cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH (NNCCVNCH) trang 86, 87. Hậu quả
là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên
liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực
thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang
thuyền các loại nằm ụ .
Đạn dược chỉ
còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một
tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn
một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng
cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần
(Sách đã dẫn trang 92)
Theo sử gia Bill
Laurie, cấp số đạn súng lớn như đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly.. năm 1975 đã bị
cắt giảm trên 90% . Theo Tướng Cao Văn Viên vì thiếu cơ phận thay thế, xe tăng,
giang thuyền, máy bay …nằm ụ chờ rỉ sét. Thiếu thuốc men, số tử vong
tăng cao, tinh thần xuống thấp.
Không quân VNCH
năm 1975 có 2075 máy bay các loại, đứng thứ tư trên thế
giới về số lượng. Binh chủng Thiết giáp có 2,200 chiến xa và thiết xa các loại.
Pháo binh có khoảng 1,500 khẩu đại bác . Hải quân có 1,600 tầu chiến và giang
thuyền các loại. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế nhiều máy bay, xe
tăng.. hư hỏng thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Lục quân VNCH có
hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực quân vào khoảng 400 ngàn người gồm những
lực lượng tác chiến và yểm trợ, 50% là ĐPQ , Không quân, Hải quân,
Cảnh sát. Quân đội VNCH được tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có
năm người yểm trợ như hành chánh tài chánh, quân y, quân trang, quân dụng. Trên
thực tế lực lượng chiến đấu chỉ vào khoảng từ 170 cho tới 180 ngàn người. Lính
nhà nghề chỉ có 13 Sư đoàn chủ lực và 17 Liên đoàn Biệt động quân tương đương
khoảng hơn 2 Sư đoàn (trên thực tế một Liên đoàn có hơn 1000 người). Tổng cộng
ta có vào khoảng 15 Sư đoàn chính qui (nếu kể cả BĐQ). Lực lượng được bố trí
toàn quốc như sau.
Quân khu Một: 5 Sư
đoàn (1, 2, 3, Nhẩy Dù, TQLC), 4 Liên đoàn BĐQ.
Quân khu Hai: 2 Sư
đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Ba: 3 Sư
đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Bốn: 3 Sư
đoàn (7, 9, 21)
Địa phương
quân VNCH năm 1975 có khoảng 325 ngàn người,
Tổng cộng VNCH có
15 Sư đoàn chủ lực (nếu kể cả BĐQ) tức 45 trung đoàn, đem chia cho 44 tỉnh toàn
quốc thì trung bình mỗi tỉnh chỉ có một Trung đoàn chính qui bảo vệ trong khi
BV có khả năng tập trung hằng chục Trung đoàn để tấn công một địa điểm vì họ
không phải trải quân giữ đất như Miền Nam. Theo ông Cao Văn Viên trên thực tế
quân số VNCH thiếu hụt do nạn đào ngũ, mỗi năm mất khoảng một phần tư (1/4)
quân số, ngoài ra ta cũng phải kể nạn lính ma lính kiểng. (NNCVNCH trang 79)
Lực lương
chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 Quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một Quân
đoàn). Mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn và các lữ đoàn phòng không, pháo binh, thiết
giáp, công binh.. Tổng cộng họ có 15 sư đoàn bộ binh, khoảng 6 trung đoàn đặc công
và hơn 10 trung đoàn độc lập. Toàn bộ lực lượng tương đương với 20
Sư đoàn bộ binh chưa kể các đơn vụi cơ giới, yểm trợ
So về lực
lượng chính qui, nhân lực thì quân đội BV đã nhiều hơn quân đội VNCH , họ không
phải phòng thủ, mỗi khi tấn công họ dồn lại tạo một mũi dùi mạnh. Trong khi đó
Quân đội chủ lực VNCH đã ít hơn lại phải trải rộng từ Cà Mâu ra Bến Hải để giữ đất,
như đã nói trên ta có 13 sư đoàn, kể cả 15 liên đoàn Biệt động quân thì có
tương đương 15 sư đoàn hay 45 trung đoàn, miền nam có 44 tỉnh, trung bình một
tỉnh chỉ có một trung đoàn bảo vệ. Theo hồi ký Văn tiến Dũng tại Cao nguyên về
bộ binh BV đông hơn VNCH 5 lần, pháo binh gấp 2 VNCH (sách đã dẫn trang 49) vì
họ tập trung
Khoảng 80%
chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn 1
(gồm 3 Sư đoàn) tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Sau khi Quân khu II và
I của VNCH sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 Sư đoàn trừ bị vào Nam. Trong giai
đoạn 1973-1975 Hà Nội cho chuyên chở vũ khí vào Nam thoải mái vì không bị oanh
kích nên số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của họ tại miền Nam nhiều gấp hai
hoặc gấp ba lần năm 1972.
Pháo binh và
Thiết giáp BV đưa vào Nam được ước lượng không chính xác khoảng hơn 500 khẩu
trọng pháo và hơn 500 xe tăng.
So
sánh với tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm Quân
khu II gồm 12 tỉnh, diện tích rộng lớn nhất, bằng nửa Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ
có 2 Sư đoàn bộ binh (22 và 23) và 7 Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ, toàn bộ
lực lượng chưa tới ba Sư đoàn là nơi yếu thế nhất đã được BV chiếu cố tấn công.
Quân khu II dân số trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê
Thuột, Lâm Đồng, Quảng Đức, Phú Bổn, Tuyên Đức, phía Đông là các tỉnh duyên hải
gồm Bình định, Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui
Nhơn, Tuy Hòa, dân số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác. Sư đoàn 23 BB
bảo vệ Cao nguyên, sư đoàn 22BB chịu trách nhiệm các tỉnh duyên hải
Diễn tiến trận
đánh
Tư Lệnh Quân đoàn
II Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Quân đoàn Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư
Lệnh phó Quân khu Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tham mưu trưởng Đại tá Lê Khắc Lý. Tại
Ban Mê Thuột chủ lực quân của VNCH gồm 2 Tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn 53
đóng tại phi trường Phụng Dực (có nhân chứng nói chỉ có một tiểu
đoàn) và ba Tiểu đoàn Địa phương quân. Theo Bút ký của Nguyễn Định, Ban Mê
Thuột như một thành phố bỏ hoang, các đơn vị chủ lực đã được đưa tăng cường cho
Pleiku và các nơi khác. Cũng theo ông này lực lượng của ta tại đây kể cả Nghĩa
quân, Cán bộ xây dựng nông thôn, Nhân dân tự vệ cũng không quá 2,000 người. Con
số Nguyễn Định đưa ra có lẽ quá thấp vì quân số tại các tỉnh nhỏ như Phước
Long, Bình Long đã vào khoảng trên dưới 3,000 người, lực lượng VNCH tại Ban Mê
Thuột chắc hẳn không dưới 3,000 hoặc 4,000 người vì đó là một tỉnh
lớn.
Lực
Lượng CS tại Quân khu II theo tài liệu Bắc Việt như sau:
“Lực
lượng ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung
đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), trung đoàn đặc công (14, 27), trung đoàn xe
tăng- thiết giáp 273, 2 trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn phòng
không (232, 234, 593), 2 trung đoàn công binh (7, 575), trung đoàn thông tin
29, 6 tiểu đoàn vận tải, nhiều đơn vị bảo đảm của Bộ và lực lượng vũ
trang địa phương các tỉnh diễn ra chiến dịch. Riêng lực lượng Mặt trận Tây
Nguyên tham gia chiến dịch gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc công, 13
tiểu đoàn pháo mặt đất, 18 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết
giáp với tổng số quân 44.900 người.
Về
vũ khí trang bị: có 88 pháo lớn, 1.561 súng chống tăng và hàng vạn súng bộ
binh, 6 cơ cấu bắn B-72, 343 súng phòng không, 32 xe tăng, 25 xe bọc thép, 679
xe ô tô các loại. Ngoài ra còn có 21.800 cán bộ chiến sĩ làm lực lượng dự bị ở
phía sau và hoạt động ở các hướng khác.
Bộ
tư lệnh chiến dịch gồm: Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh), Đặng Vũ Hiệp (Chính uỷ).
(Trich
trong: Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy
Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)
Như thế lực
lượng CS tại Cao nguyên gồm 5 Sư đoàn BB và 4 Trung đoàn độc lập tương đương
với 6 Sư đoàn, gấp hơn hai lần chủ lực quân VNCH, tổng số nhân lực kể cả lực
lượng dự bị là 66,700 người. Bắc Việt đã được Nga, Tầu viện trợ cho nhiều vũ
khí tối tân, ngoài ra họ còn được trang bị nhiều hoả tiễn tầm nhiệt hiện đại. Theo
nhận định của phía CS, họ tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên
tại đây bộ binh BV đông hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo
binh gấp 2. (Hồi ký ĐTMX Văn tiến Dũng trang 49)
Ngày
5/2/1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Đồng
Hới rồi vào Quảng Trị, tới sông Bến Hải, y đi xuồng máy tới Bộ chỉ
huy chiến dịch tại phía Tây Gio Linh để chỉ đạo toàn bộ chiến dịch.
Ban Mê Thuột
là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250,000 người gồm Kinh, thượng, Tầu và các chủ
đồn điền Pháp và Ý, (cũng có tài liệu nói dân số 150,000 người), thị xã gồm
60,000 người. Tỉnh có nhiều đồn điền cà phê, cao su, nhiều thắng cảnh đẹp,
nhiều gỗ quí, dân chúng đa số sống bằng nghề trồng trọt, làm đồn điền. Ban Mê Thuột
có vị trí chiến lược quan trọng, phía bắc nối liền Pleiku, Kontum, Phú Bổn..
phía Nam đi Quảng Đức, Phước Long, phía Đông nối liền Nha Trang.
Trước khi mặt trận
diễn ra, theo Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, BV đưa những tin tức
giả qua điện thoại để nghi binh, kế đó tấn công bất ngờ, đông đảo,
nghi binh tối đa, họ vờ đánh Pleiku để nhử quân đội VNCH lên giải toả rồi cắt các
đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công. Các
Trung đoàn, Sư đoàn BV cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút
quân đội VNCH về phía Bắc (tức Pleiku) sau đó ồ ạt tấn công thị xã Ban Mê
Thuột.
Theo hồi ký Văn
tiến Dũng BV không đóng quân sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa
vận động đến, chuyển quân bằng xe molotova, đây là lần đầu tiên BV đánh trận
bằng xe hơi. BV bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng
đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, họ không đánh theo
lối bóc vỏ. (Sách đã dẫn trang 69)
Ngày
1/3/1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường
Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3/3 Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 CS ngăn chận quốc lộ 19
tại An Khê. Ngày 5/3 Trung đoàn 25 CS cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh
Dương, cắt đường Nha Trang-Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường Trung đoàn 45
tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn BĐQ và thiết giáp giải toả quốc lộ 19. Ngày 7/3
Sư đoàn 320 CS chiếm Thuần Mẫn, ngày 9/3 Sư đoàn 10 CSBV tấn công Đức Lập,
Quảng Đức, căn cứ núi lửa bị tràn ngập.
BV cô lập
Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại
nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư
lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 21 từ Kontum
đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Sự sai lầm của Tướng Phú đã
được CS khai thác triệt để, họ nghi binh tối đa để đánh lừa ông và gọi đây là
cuộc chiến tranh cân não.
Ngày 9/3
Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột đã triệu phiên họp khẩn cấp tại toà hành chánh và báo
động đỏ, cắm trại 100%. Hai giờ sáng ngày 10/3 đặc công Việt cộng trong thị xã
đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 Sư đoàn CS 316, 10, 320 với ba mũi
tấn công thị xã phối hợp với đặc công đã nằm bên trong. CS pháo kích ầm ầm như
phong ba bão táp vào các vị trí của quân trú phòng rồi đưa xe tăng, xe kéo pháo,
phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên BV đánh trận
bằng xe hơi.
Trận bão lửa
đã được Nguyễn Định ghi nhận .
“…Tiếng rít
của hoả tiễn và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta
thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ cứ liên tục như
những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả
thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên màn bạc. . . . . .
. .
. . . .
Thành phố đã như con tầu chao nghiêng trong bão tố.”
(Ban
Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.)
Theo hồi ký Văn
Tiến Dũng (trang 69), trong một đêm BV đã đưa được một lực lượng đông đảo 12
Trung đoàn gồm bộ binh và các đơn vị xe tăng, pháo binh, phòng không.. khoảng ba
Sư đoàn vào trận địa đúng thời gian. Họ bỏ qua các đồn bót dọc đường, tiến về
thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Serepok, các mũi tiến công đã tiến vào
đúng thời gian. Địch chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại Mai Hắc
Đế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 53)
tại đây 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 tên địch bị hạ, cánh thứ ba đánh phi trường
L19 để tiến vào thị xã tấn công tiểu khu, khi vào thị xã 10 xe tăng đã bị ĐPQ
bắn cháy.
Vào buổi
chiều Cộng quân chiếm được một nửa thành phố, ĐPQ, nghĩa quân, cảnh sát vẫn
chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 BĐQ
xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng
Liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn Tướng Lê Trung
Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB. Nhiều tài liệu và nhân chứng cho thấy ông điều
động Liên đoàn 21 đưa gia đình, vợ con ông về Trung tâm huấn luyện cách Ban Mê
Thuột vài cây số để ông đưa trực thăng xuống bốc đi.
Cảnh hoang tàn ghê
rợn của thành phố đã được Nguyễn Định mô tả như sau.
“Mười sáu
giờ ngày thứ hai 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình tại
thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh còn được
trấn giữ.
Trong thành phố
tiếng súng nổ đã im, nhưng cảnh hoang tàn của thị xã thật không cách nào tả cho
xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao
phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lỗ loang những dấu đạn
cầy. . . . . .
. . . Rải rác
trên các khu phố những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai
săn sóc. Thị xã không hẳn là bãi tha ma, mà là hỗn độn của một thế giới nửa
sống nửa chết.”
(Ban
Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.)
Và
dưới đây lúc sáu giờ chiều.
“Trong nội vi thị
xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được coi như kết
thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn
của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn gợi cho người ta cái cảm xúc
của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người”.
(
Nguyễn Định, BMTNĐCC.)
Sáng 11/3
không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột cắt
đứt liên lạc với Quân đoàn II. Bắc Việt cho tăng cường Sư đoàn 320 tiếp tục tấn
công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17/3 thì chấm dứt,
Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu quả cảm tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài
liệu nói một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng. Nguyễn Định nói các
lực lượng trú phòng như ĐPQ, nghĩa quân, Cảnh sát đã chiến đấu hết sức mình
nhưng phải chịu thua trước số đông áp đảo của địch.
Ngày 11/3 Bộ
Tư Lệnh Sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột.
-Trung đoàn
45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng Đông
thị xã.
– Liên đoàn
7 BĐQ được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, Trung đoàn này sẽ được
trực thăng vận tới Phước An.
Ngày 13/3
Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã,
Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh rút ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng
vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không
quân gặp nhiều khó khăn vì BV xử dụng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7. Ngày 15/3 Tổng
thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 44 thất vọng nói “ không có một tia hy vọng nào giải cứu Ban
Mê Thuột”. Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không đủ lực
lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị cắt hết.
Nguyên nhân,
hậu quả
BV lấy được nhiều
chiến lợi phẩm củaVNCH, Cục trưởng hậu cần BV khoe là họ đã lấy được nhiều
lương thực, xe cộ, nhiều đạn trong kho Mai Hắc Đế, Ban Mê Thuột. Tác giả Nguyễn
Đức Phương đã nhận xét về diễn tiến trận đánh chiếm Ban Mê Thuột của
Cộng quân như sau.
“Do
những thất lợi về phương tiện vận chuyển và yếu tố quân số của QLVNCH, kế hoạch
tấn công Ban Mê Thuột của Tướng Văn Tiến Dũng khá đơn giản, bao gồm hai yếu tố bí
mật bất ngờ và tập trung đông quân số để áp đảo địch quân. Đầu tiên đánh vào một
số diện tại quân khu 2 để lôi cuốn các đơn vị QLVNCH có nhiệm vụ giải toả. Sau
đó cắt đứt các trục lộ giao thông chính dẫn đến mục tiêu đồng thời chiếm các
phi trường để ngăn chận tiếp viện bằng đường hàng không để sau cùng cường tập
tiêu diệt điểm với chiến thuật ba mũi giáp công”
(Chiến
Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 716.)
Hậu quả của
trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được. Một ngày sau khi BV
tấn công Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Độc Lập ngày 11/3
gồm Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Quang,
Phụ tá an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu I và II về
giữ Quân khu III và IV và chỉ giữ một phần duyên hải Vùng II vì lãnh thổ quá rộng
không đủ lực lượng bảo vệ. Ngày 14/3 trong một phiên họp tại Cam ranh với Hội
Đồng Tướng Lãnh ông Thiệu quyết định di tản toàn bộ chủ lực thuộc Quân đoàn II
về duyên hải qua tỉnh lộ 7.
Trận Ban Mê thuột
mở đầu cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. BV có yếu tố bất ngờ,
bảo mật, Ban Mê Thuột không thuận lợi cho việc phòng thủ. Từ tháng 2/1975, Bộ
Tư lệnh Quân đoàn II đã báo cáo tin tức cho thấy BV chuẩn bị đánh Ban Mê thuột
do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Các cuộc hành quân
Phượng Hoàng của Cảnh sát, nghĩa quân, những người khai thác lâm sản… đã báo
cáo cho chính quyền Ban Mê Thuột biết tin tức về địch xuất hiện gần thị xã.
Khi Tồng thống
Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã trình
lên Tổng thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều Sư đoàn 23 trở lại Ban Mê Thuột
nhưng Tướng Phú tin Cộng quân sẽ đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh
tại Ban Mê Thuột. Tướng Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất
ngờ khi CS tấn công Ban mê Thuột, ông Cao Văn Viên đã được thông báo cho biết
kế hoạch đánh Ban Mê Thuột, theo ông Kỳ Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú
về kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình
hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của CS, không ai cản
được ông ấy. Bộ TTM của QĐVNCH đã cảnh báo Tướng Phú coi chừng BV đánh Ban Mê
Thuột nhưng ông vẫn khăng khăng địch sẽ đánh Pleiku.
Theo Đại tá Nguyễn Trọng
Luật, CS biết phía VNCH hay nghe lén truyền tin của họ và họ đã đưa những tin
giả để đánh lừa ta. Tướng Phú đã mắc lừa kế nghi binh của CS, theo Tướng
Hoàng Lạc trước ngày Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam, Võ Nguyên Giáp
đã dặn Dũng phải nghi binh tối đa để đánh hoả mù. Yếu tố bất ngờ của Ban Mê
Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của
nó. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II không thể ngờ được Bắc Việt đã đưa vào Quân Khu II
đến 6 Sư đoàn vì thiếu tin tình báo, không đánh giá đúng mức lực lượng địch
Yếu tố địa hình
Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự tiến
quân của CSBV, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều. Ban Mê Thuột trên thực
tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau, địch có
thể lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công binh CS
chuẩn bị sẵn.
Tại Ban Mê Thuột
tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn nhưng
BV đã cho công binh dọn đường trước, họ cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây không
bị đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì, CS ngụy
trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1946-1954 cũng vậy. Khi mặt
trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng. Hai giờ sáng
Cộng quân pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động cơ xe chạy,
đến 7 giờ xe tăng địch đã vào trong thành phố.
Tướng Phú mới lên
nhậm chức Tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình cho lắm,
không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Ông nhậm chức Tư lệnh quân khu ngày
5/11/1974 do Phó Tổng thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn Văn
Toàn bị kết án tham nhũng, không do Tổng Tham mưu trưởng đề nghị nên trước khi
ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng Tham mưu đã không được Tướng Cao Văn Viên
tiếp đón. Theo Phạm Huấn, Quân đoàn II lủng củng nội bộ, nhiều sĩ
quan cao cấp tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với Tướng Phú, ông
mới nhậm chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi
sẩy ra trận Ban Mê Thuột, theo Nguyễn Đức Phương quân số Quân đoàn II không tới
70%, thiếu tiểu đội trưởng. Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai
Tướng phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một
cuộc hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch.
Nhiều người qui
trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông không
đủ khả năng nắm giữ một Quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay Việt Cộng
sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở Tướng Phú coi
chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm vững tình
hình, vẫn một mực tin rằng địch sẽ đánh Pleiku, không ai cản được ông vì đã bị
mắc lừa kế nghi binh của CS.
Dư luận chung của
giới chức cao cấp quân sự và các ký giả, sử gia.. đều cho rằng Tướng Phú là
người không đủ khả năng để chỉ huy một đại đơn vị nên đã để mất Ban Mê Thuột.
Ông Cao Văn Viên cho rằng việc thay đổi chức vụ Tư Lệnh Quân khu II là một
trong những nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột, ý ông nói cựu Tư lệnh Quân
khu II Nguyễn Văn Toàn có nhiều kinh nghiệm và khả năng hơn Tướng Phú
Ngoài ra tại Quân
khu II lực lượng BV rất mạnh, họ đã đưa vào chiến dịch Tây nguyên tới gần 6 Sư
đoàn trong khi ta chỉ để 2 Sư đoàn chủ lực và 7 Liên đoàn Biệt động quân lại
phải trải ra phòng thủ nhiều nơi trong Quân khu. Theo Nguyễn Đức Phương dù biết
trước Ban Mê Thuột bị tấn công để tăng cường yểm trợ cũng khó mà giữ được, VNCH
chỉ có thể đưa tới mặt trận một, hai Trung đoàn hoặc một
vài Liên đoàn biệt động quân vì không còn quân trừ bị, cái khó nó bó
cái khôn. Nguyễn Đức Phương cho rằng qua kinh nghiệm Mùa hè đỏ
lửa 1972, mặc dù đã tập trung Sư đoàn 23 BB tại Kontum nhưng việc phòng thủ khó
có thể thành công nếu không có yểm trợ của máy bay chiến lược B-52, mặt trận
Ban Mê Thuột chỉ có sự yểm trợ của không quân chiến lược B-52 mới có thể cứu
vãn tình thế, nhưng từ nay yểm trợ của B-52 không bao giờ có được.
Như đã nói ở
trên lực lượng hai bên đã rất chênh lệch CS lại đánh lén, thì họ phải thắng.
Theo Nguyễn Đức Phương nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây
tổn thất nặng nề cho BV thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác
hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ.
Chúng ta có thể
kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì.
-Lực lượng và hỏa
lực hai bên quá chênh lệch, BV đã đưa vào trận địa khoảng 3 Sư đoàn, gấp mười
lần quân trú phòng trong khi VNCH chỉ có hai tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn
BB 53, còn lại là phụ lực quân, cảnh sát. Trận giội bão lửa được Văn tiến Dũng
kể lại trong hồi ký (trang 68) và Nguyễn Định trong bút ký cho thấy hỏa lực
địch áp đảo của địch
– Sự sai lầm của
Tướng Phú khi cho rằng CSBV tấn công Pleiku trước, ông đã mắc lừa kế nghi binh
của đối phương.
-Lãnh thổ
rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn.
-Chủ lực
quân VNCH tại quân khu II thiếu hụt không đủ để chống lại áp lực mạnh của BV
-Thiếu tin tức
tình báo.
Nhưng phải nói
rằng yếu tố chính là VNCH đã bị cắt giảm hỏa lực tới xương tủy. Trước đó vài
tháng, tại Phước Long quân đội VNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ đạn
dược. Mấy tuần sau khi Phước Long mất, ngày 24 và 25/1/1975 TT Thiệu
gửi hai bức thư cho TT Ford phản đối CSBV tấn công chiếm Phước Long vi phạm
trắng trợn Hiệp định Paris. Kissinger trong Years of Renewal trang
490 nói TT Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng
hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên
đạn pháo để tiết kiệm hầu còn đạn xử dụng
Trận Ban Mê Thuột
đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn II và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó là
một khúc quành bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế Kỷ.
Trọng Đạt
Tài Liệu tham khảo.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn
Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong
Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng
Hoà, Vietnambibliography, 2003
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất
Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975,
Cali 1987.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975,
Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối
Cùng , Nam Việt 2006.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy
Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon &
Schuster 1999
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House,
New York 1985
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet
Nam, 1986, Sphinx Publishing.
Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, doanket.orgfree.com
Nguyễn Trọng Luật: Nhìn Lại Trận Đánh Ban Mê
Thuột, doanket.orgfree.com
Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn
Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004
Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt
Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006
__.
---------------------
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Những Sự Thật Cần Phải Biết