QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Wednesday, December 11, 2019

Một Thời Chủng Sinh [2 Attachments]



Sau khi đậu bằng Tiểu Học , lại học lớp Hè chuyên về Pháp Văn ở Nội Trú trường Công Giáo Lái Thiêu do Sœur hiệu trưởng Isabelle dạy - Xong lớp Hè năm 1959 , tui 12 tuổi.

TQĐ về Saigon để thi vô trường Latin tức là Chủng Viện Thánh Giuse .

Ngôi trường này tọa lạc ở số 4 đường Cường Để- Q.1 - Đối diên là dinh của Đại tướng Lê Văn Tỵ - ngang hong là phía sau lưng Thành Cộng Hòa .

Muốn thi vô trường này phải có bằng Tiểu Học ,giỏi Pháp văn , phải được Ma Sơ ở trường hay Cha sở tại họ mình ở chứng nhận là gia đình tốt và bản thân phài tốt

Gần 600 thí sinh ở các nơi thuộc Địa Phận Saigon tới dự thi

Trường lấy 100 , TQĐ đậu hạng 19

Vô học , 100 chia làm 2 lớp A và B - TQĐ lớp A

Sau 1 năm loại 60 chủng sinh , còn lại 1 lớp 40 chủng sinh

Hình đính kèm :


- Hàng thứ 2 , đứng cuối là Phao Lồ Nguyễn Quang Chí tức Chí " mén "
- Hàng chót , đứng thứ 5 là Ta Đê Ô Thái Quang Đáng , Chí " mén " sửa tên là Thái Hoang Đàng .

TQĐ và Chí " mén " sanh năm 1947 , bằng tuổi , là cặp bài trùng , vua phá và tếu lâm nhưng lại được Cha Phêrô Cảnh dạy Pháp văn thương và các anh lớp lớn , nhứt là các Huynh Trưởng rất mến

Trường cho ăn 4 bửa :

- Sáng - Trưa - Gouté - Chiều .

Ăn carée với muổng nỉa , rất sang ,có dessert , có nước đá lạnh và sửa lạnh , rất ngon - ở nhà chưa bằng 1 góc vì có người service được cắt theo tour từ các chủng sinh - Các người này ăn sau - Khi ăn có 1 huynh trưởng đọc sách cho nghe - Khi đó TQĐ theo dỏi chuyện của " D'artagnan et les trois Mousquetaires " của nhà văn Alexandre Dumas .

Tất cả phải im lặng ,không được nói chuyện , thứ 5 và CN mới được nói chuyện - Khi ăn không được rời khỏi bàn ăn , muốn gì giơ tay lên , có người tới nói rất nhỏ " Cần gì ? "

Trong trường có 2 sân đá banh ,1 sân voley , 2 sân basket , 1 sân nhảy cao , lớp dạy nhạc .Thư Viện rất lớn và 1 cửa hàng nhỏ bán các nhu yếu cho Chủng sinh

Đặc biệt chỉ có trường Latin mới có sân đá banh bằng cát trắng , đá bằng banh Tennis , không được mang giày , đá bằng chưn không , TQĐ giữ gun trong hội tuyển của lớp để đá với các lớp khác khi có giải thưởng .

Nhảy cao và nhảy sào , TQĐ cũng đứng ba , đứng nhì , có lần đứng nhứt khi thi với các lớp khác

Nghĩ ngày thứ 5 và Chúa nhựt - 2 ngày nghĩ này là Địa Ngục của lớp TQĐ - Vì bắt buôc phải nói tiếng Pháp , ai nói 1 câu tiếng Việt sẻ bị phạt 1 $ , Cọng lại cuối năm Cha Mẹ của mình phải trả .

Chiều ngày thứ 5 và CN được đi dạo , có Huynh Trưởng lớp Đệ Nhứt đi theo - Thường là đi dạo ở bến Bạch Đằng - Vườn Bờ Rô tức Tao Đàn - đường Lê Lợi - Sở Thú - Thị Nghè - Tới nơi , HT nói " Các em chỉ đi trong khu vực đó tự do nhưng sau 3 tiếng đồng hồ tới đây để đi về ."

Khi đi dạo cấm mua bất cứ gì

TQĐ và Chi " mén " luôn có trong túi từ 50$ trở lên

2 thằng luôn lén mua , và ăn vụn - Vui nhứt là 2 thằng lén trốn vô rạp hát Đại Đồng Thị Nghè , ăn trứng vịt lôn , bi HT bắt gặp nhưng chỉ ngó và chỉ chỉ tay , không mét Cha , mét là bị đuổi ngay - 2 thằng mua Kẹo , Bánh - Xí Muội ...v...v...từ các nơi đi dạo , dấu , tối 2 thằng nằm kế giường , kéo cái mùng bên lên , đem ra ăn vụn

Có lần đi dạo ở Thị Nghè , đang canh me coi có ai thấy không nhứt là HT

Đi ngang quán kia , thấy mấy anh HT đang ngồi uống cà phê - HT thấy 2 thằng tui nhưng 2 thằng dòm cười và lẹ lẹ đi chổ khác vừa ....tránh mặt voi .....vừa cho voi biết là tui ....bắt quả tó đó nhen...hììi....

Khi tóc dài thì có các anh biết hớt tóc hớt cho nhưng riêng TQĐ và Chí " mén " thì cha Cảnh rất thương nên kêu lên phòng Cha , Cha hớt cho

Cha Cảnh chạy chiếc Peugeot 203 màu cà phê sửa , thường đi đánh Tenis , lâu lâu Cha cho 2 thằng đi theo để lụm banh cho Cha .

Đó là vinh dự .

Cha Cảnh là Trưởng ca đoàn của trường , cho 2 thằng vô Ca Đoàn , chiều CN khỏi đi dạo mà đi ra nhà thờ Đức Bà ca cho TT Ngô Đình Diệm dự Lể do Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình là Chủ Tế

Khi đó Tr/tướng Nguyễn Chánh Thì còn là Tr/tá , gát cửa với Nhảy Dù giữ an ninh cho TT NĐD dự Lễ

Ca Đoàn được TT cho vô Dinh chơi 1 lần vào ngày Noel 1960 đó là Vinh Dự

Lúc đó TQĐ mới kể cho TT nghe :

- Kính thưa TT ! Hồi con còn nhỏ Ba Má con được Dì Phước là Mẹ Bề Trên ở Cái Mơn , dòng Mến Thánh giá Fatima , là Bà 7 của con giới thiệu với Đức Cha Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long , Đức Cha cho gia đình con vô ở dinh của Đức Cha ở - Khi đó TT chưa làm TT , TT hay giởn với 2 anh em con , đòi bắt em con là Thái Quang Nhậm , con binh , TT cười , sau đó TT coi tướng của con , nói với Má con " Thằng này có cặp lông mày tướng , cặp mắt hơi xếch , ánh mắt sắc bén , nhưng tiếc là lông mày cái chuôi bị mờ " - Khi con bị con cua kẹp bàn tay trái , chính Ngài gở cho con , dấu thẹo còn đây

TT nhớ và vuốt đầu " Cụ nhớ rồi " - Ba cháu nay ở đâu ? - Dạ TT , Đức Cha đưa Ba con vô Cảnh Sát , làm dưới quyền của Tr/tá Cảnh Sát là cò Quới trưởng bót Công Lộ đường Trần Hưng Đạo - Không biết TT có gửi gấm cho ai không mà Ba của TQĐ lên nhanh như diều

Cả ca đoàn và cha Cảnh đều thấy TQĐ được Ngài TT NĐD nói chuyện và vuốt tóc

Ở Trường - TQĐ và Chí " mén " ăn cấp Rượu Lễ của Cha uống khi giúp Lễ

2 thằng dám trèo tường qua trường Lớn là Đại Chủng Viện , lụm mít chín rớt đầy dưới gốc cây ăn

Mít thì thơm , hơi thở thơm mùi mít chín , các HT biết nói " Đừng nửa nhen "

2 thằng còn dám trèo tường qua trường Lớn coi phim cọp , cũng bị bắt quả tó nhưng không bị mét Cha , trường nhỏ là Tiểu Chủng Viện và trường lớn là Đại Chủng Viện cách nhau 1 bức tường

Chuyện này mới vui

Ngang hong trường , phía sau thành Cộng Hòa là con đường nhỏ và rất vắng , 2 bên đường trồng me - Trưa gái Trưng Vương tan trường về , gái đi bô rất nhiều , người đi xe đạp , người đi Velo Solex , khum xuống lụm me dốt rớt đầy dưới đường

TQĐ và Chí " mén " lén rình dòm qua cửa sổ vì khi đó ai cũng ngủ trưa

TQĐ thấy mấy cô lớn khum xuống , vén tà áo dài màu xanh , thấy cái hong trắng và thấy cái ngấn xì líp

TQĐ ngẩn ngơ ...!!!...???...

1 - Đây là bài thơ có tựa đề là " Ngày Còn Trẻ , sau đổi tựa đề là " Tu Xuất " :


Tu Xuất

Lời : Thadée Thái Quang Đáng Nhạc : Mai Đằng Hòa âm : Minh Quân Tiếng hát : Anh Nguyên Youtube : Phan Anh Siêu D...




Lời : Thadée Thái Quang Đáng
Nhạc : Mai Đằng
Hòa âm : Minh Quân
Tiếng hát : Anh Nguyên
Youtube : Phan Anh Siêu

Dưới đây là bản chính :

***** Ngày Còn Trẻ *****
Vào thuở đó tôi còn trẻ lắm
Trong Tu Viện khép kín bốn bề
Tôi thầm lặng ngày đêm cầu nguyện
Chúa trong tim , chỉ Chúa mà thôi
Nhưng một trưa lén dòm song cửa
Trên lầu cao , dưới đường hàng me
Trời ! Con gái ! Trưng Vương tan trường
Khúc khích cười , chạy nhảy tung tăng
Lượm me dốt , khum mông tròn lẳn
Nghe xao xuyến mà thiệt không biết
Vô thư viện , rình rình đọc sách
Lời Chúa phán " Trái Cấm Đó Con "
Con ăn vô là con sẻ chết
Suốt đời con chỉ khổ mà thôi
Vô nhà thờ tôi lần ...chục chuổi ...
Cầu xin cho con giữ lòng trong
Nhưng khốn nổi tôi càng cầu nguyện
Hình ảnh đó chiếm ngự trong lòng
Chúa không thấy mà thấy ...cái mông ...???...!!!...
Xin lỗi Chúa ! Con thèm ...trái cấm...!!!
Montreal - Oct . 29 , 2014
Thadée Thái Quang Đáng

2 - Và :

Thơ : Thadée Thái Quang Đáng
Nhạc nền : Vì tôi là linh mục
Youtube : Phan Anh Siêu


Một Thời Chủng Sinh [2 Attachments]

Tu Xuất

Thơ : Thadée Thái Quang Đáng Nhạc nền : Vì tôi là linh mục Youtube : Phan Anh Siêu ***** Tu Xuất ***** Vào thuở ...




Sau cùng lớp của TQĐ đứa thì bị đuổi vì Pháp dở , vì phải giỏi tiếng Pháp mới học được tiếng Latin - TQĐ tự xuất dù Pháp văn giỏi -

Trong NTH có chủng sinh Nguyễn Thới Tín cùng lớp với TQĐ

Tín sau này là ở Phòng 7 Tổng Tham Mưu ( BKD ) - Qua Mỹ diện H.O. - Hiện đang ở Little Saigon

Cuối cùng trong 100 thí sinh được nhận vô Chủng viên , chỉ còn có Chí " mén " trở thành Linh Mục , cha Phó họ Chợ Quán đường Trần Bình Trọng

Đây mới là cái Duyên .

BX của TQĐ là đạo Phật nên theo Công Giáo mới được làm phép Hôn Phối với TQĐ

Thì chính cha Chí dạy giáo lý 6 tháng cho bx của TQĐ

Cha Phao Lồ Nguyễn Quang Chí đã qua đời với bịnh ung thư Phổi khi TQĐ ở Montreal .

Sau 1975 , TQĐ có tới phòng cha Chí , kêu mày tao , nhưng ra khỏi phòng là kêu Cha xưng Con

Bài viết tối nay tao - Hoang " đàng " viết cho mày Chí " mén "

Như là một Nén Hương từ giáo dân Ta Đê Ô Thái Quang Đáng họ Chợ Quán dành cho cha phó Phao Lồ Nguyễn Quang Chí.

Cám ơn NS Mai Đằng
Cám ơn anh Phan Anh Siêu người làm youtube cho TQĐ nhiều nhứt

Thân mến
TQĐ

__._,_.___

Posted by: Quang Dang Thai 

Wednesday, December 4, 2019

Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày 04/12/2019

Thích Trí Quang là ai?


Thích Trí Quang là ai?

Luật sư NGUYỄN VĂN CHỨC
Cựu Thượng Nghĩ Sĩ VNCH
Cựu Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại
Nhà văn nhà báo bút hiệu VIP KK

Báo chí ngoại quốc từng gọi y là người đã lật đổ Ngô Đình Diệm năm 1963. Báo chí Mỹ năm 1963 còn  gọi y là «người làm cho nước Mỹ phải run sợ».
Khoảng 6 năm sau, một  ngày cuối tháng 2 năm 1969, y  đến tôi.
        
Trưa hôm ấy, tôi đang ngồi trong văn phòng luật sư, thì chú Vân, người tuỳ phái, hớt  hải chạy vào báo tin Thầy Trí Quang đến. Tôi vội xốc lại quần áo. Chừng dăm phút sau, Trí Quang buớc vào, theo sau là một  vị sư nữ lớn tuổi. Cả hai đều mặc áo mầu xám.
Tôi  đứng lên chào theo phép lịch sự,  rồi giơ tay mời ngồi. Trí Quang  nhìn tôi, mặt lạnh như băng. Tôi đoán, y chờ đợi nơi tôi một cử chỉ  thần phục ngưỡng mộ. Y nhầm. Đối với tôi, y không phải là  một nhà tu hành, mà là một tên  cán bộ VC vô học dốt nát. Thứ nữa: y đến để xin tôi giúp đỡ, y không đến để ban ân huệ.
                   
Theo  các tài liệu mà tôi có, thì Trí Quang, tên thật là Phạm Văn Bông, hay Phạm Văn Quang gì đó, sinh tại Quảng Bình, Trung Phần. Y là đệ tử của TT Thích Trí Độ, chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Việt Minh.
Cũng theo các tài liệu  mà tôi có, thì  trong thời gian 1946-1954, y là  cán bộ Vịêt Minh, hoạt động công khai cho Việt Minh tại vùng đất do Việt Minh kiểm soát. Thời gian từ  1954 đến 1975, y là  cán bộ CS  nằm vùng tại  Miền Nam  Quốc Gia, hoạt  động cho CS Bắc Viêt, nhân danh đạo pháp. 

Vũ khí của y là tự thiêu... 
Dĩ nhiên, y không tự thiêu, mà người khác tự thiêu.
Từ 1963 đến cuối năm 1969, người ta ghi nhận 20 cuộc tự thiêu  «vì đạo pháp», không kể cuộc «tự thiêu» ngày 11 tháng 6 năm 1963 của vị Hoà Thượng đáng kính Thích Quảng Đức tại ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, Sàigòn.

Ngoài vũ khí tự thiêu vì đạo pháp, Trí Quang  còn vũ khí xuống đường. Từ 1963 đến cuối nằm  1969, người ta  đếm đuơc 119  (một trăm muới chín) cuộc xuống đường. Sư sãi xuống đường, tăng ni xuống đuờng, Phật tử xuống đường, công chức xuống đường, công nhân xuống đuờng, học sinh xuống đuờng, binh sĩ xuống đường, phu xích lô xuống đuờng. Và bàn thờ Phật xuông duờng,,bên cạnh những đống rác cù.

Hôm  ấy, y đến tôi.                             
Chúng ta nên ôn lại lịch sử.
Năm 1963, chính  quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh cấm các tôn giáo treo cờ tôn giáo ở những nơi công cộng không phải là thánh đuờng hoặc Phật đường.  Sắc lệnh ấy áp dụng cho tất cả các tôn giáo, kể cả công giáo.  Rất tiếc, lần đầu tiên sắc lệnh ấy lại đuợc thi hành vào  dịp lễ Phật Đản (ngày 8 tháng 5/1963). Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại là người Công Giáo. Và tổng giám mục Huế lúc đó  lại là Ngô Đình  Thục.

Lễ Phật Đản năm đó tại chùa Từ Đàm (Huế) đã biến thành cuộc đấu tranh  đòi bình đẳng tôn giáo, với những lời thuyết pháp kêu gọi bạo động.  Bài thuyết pháp tại chuà Từ Đàm năm ấy đã không đuợc đài phát thanh Huế cho phát thanh . Trí Quang bèn huy đông  «Phật tử»  đến biểu tình trước đài phát thanh. Thiếu tá Đặng Sĩ, (Phó Tỉnh Trưởng Nội An Thừa Thiên kiêm Tiểu Khu Trưởng) đem quân đội đến giải tán. Một quả tạc đạn nổ. Có «tám em phật tử chết và một số nguời bị thương».
Thiếu tá Đặng Sĩ bị mang ra toà đại hình
Theo dư luận, thì vụ tạc đạn là do đệ tam nhân chủ mưu. Và người hưởng lợi, là tên cán bộ Trí Quang.

Hôm ấy, y đến tôi.    
                 
Đêm 20 tháng 8/1963, chuà Xá Lợi, trụ sở Uỷ Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, bị quân đội của chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công. Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, Thượng Toạ Thích Tâm Châu và nhiều tăng ni bị bắt. Riêng Trí Quang đã «nhanh chân trốn thoát» đuợc vào toà đại sứ Mỹ.
Năm 1964, tướng Nguyễn Khánh lật đổ Dương Văn Minh và lên làm quốc trưởng. Một số người công giáo xuống đường biểu tình  đòi chính quyền phải thẳng tay với những kẻ nhân danh đạo pháp hoạt động cho cộng sản. Họ nêu đích danh  Trí Quang.
Theo cuốn Bạch Thư Về Vấn Đề Chia Rẽ Giữa Ấn Quang Và Việt Nam Quốc Tự» của Đại Hoà Thượng Thích Tâm Châu (xuất bản tại Montréal,Canada, năm 1994, trang 35 ) thì  Trí Quang đã «cạo bỏ râu mày « cải trang trốn xuống Châu Đốc tìm đuờng sang Cao Mên. ». Khi nghe tình hình tạm yên, Trí Quang trở về Sàigòn.
***
Năm 1966, bàn thờ Phật được mang xuống đuờng, đặt ngang hàng với rác rưởi  và phân bón,  tại Huế, tại Sàigòn. Người chủ trương và phát động chiến dịch ô nhục này là Trí Quang.
Ngày 19 tháng 6 năm 1966, «quân phiệt» Nguyễn Cao Kỳ, tư lệnh Không Quân kiêm chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương mang quân  dẹp loạn miền Trung. Trí Quang bị tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt mang về Sàigòn bằng phi cơ quân sự. Về tới Sàigòn, y đuợc  cho nằm  tại bệnh viện đỡ đẻ của bác sĩ  Nguyễn Duy Tài, đường Duy Tân.
Tôi trách  Nguyễn Ngọc Loan. Phải chi  hôm ấy tôi có mặt trong chiếc phi chở Trí Quang về Sầi gòn. Tôi sẽ trói  Trí Quang lại., bĩt mồm y, trùm chăn bông lên người y, và dùng chầy đập  đầu y.
Nguời Quốc Gia chúng ta qúá hiền, và quâ lịch
***
Tôi xin nói rõ: hôm ấy là một ngày  cuối tháng 2 năm 1969. 
Thích Trí Quang đễn tôi. 
Tại sao  y đến tôi?

Một lần nữa, chúng ta hãy ôn lại lịch sử.
Ngày 23/2/1969, lực lượng an ninh của chính quyền Nguyen Văn Thiệu vào khám xét  Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo đường  Công Lý, Sàigòn, bắt giữ  thượng toạ Thích Thiện Minh cùng  một số du đãng trốn quân dịch. Tang vật gồm nhiều tài liệu VC, một khẩu súng AK cùng Thích Thiện Minh bị truy tố ra toà về những tội sau đây: phản nghịch, chứa chấp vũ khí bất hợp pháp và chưá chấp du đãng trốn quân dịch.

Trong bộ ba lãnh đạo Phật Giáo Ấn Quang lúc đó (Thích Minh Châu-thế danh Nguyễn Văn Nam - phụ trách về đường lối, Thích Trí Quang phụ trách hành động, và Thích Thiện Minh - thế danh Đổ Xuân Hằng-phụ trách tổ chức), thì TT Thích Thiện Minh đuợc coi là có đởm lược nhất.

Chính vì vậy mà Trí Quang đã đến tôi. Y, nhờ tôi đich thân đứng ra biện hộ cho TT Thiện Minh trước tòa, trước dư luận,  cũng như truớc lương tâm của chính y.  Nhưng tôi đã từ chối.

Tôi nói với y: «Tôi đã từng biện hộ cho những tên đặc công Việt Cộng can tội mưu sát, phản nghịch. Tôi đã từng nhận lời trối trăng của những tên tử tội Việt Cộng trước giờ hành quyết tại pháp trường cát. Nhưng tôi không thể biện hộ cho những kẻ núp sau tấm áo cà sa để tranh đấu gian lận, một chiều, phá họai chính quyền Quốc Gia, đâm sau lưng các chiến sĩ Quốc Gia, trói tay Quân Đội VNCH, và tiếp tay cho cộng sản thôn tính Miền Nam.»

Những lời nói trên cũng đã đuợc ghi lại trong quyển Việt Nam Chánh Sử của tôi (xuất bản thập niên 1986).

Năm 1989, nhóm Giao Điểm (thân cộng) đả kích tôi. Họ nói: Sài gòn thời đó thiếu gì luật sư giỏi, như Võ Văn Quan, Trần Văn Tuyên, Vũ Văn Mẫu. Thượng Tọa Thích Trí Quang đâu cần phải nhờ đến Nguyễn Văn Chức.

Hôm nay, một ngày cuối tháng 2 năm 2005, tôi xin trả lời, như chưa bao giờ trả lời.
Tôi không dám nói tôi giỏi hơn các vị luật sư nói trên. Nhưng tôi dám nói : trước toà án cũng như trước dư luận Miền Nam  bấy giờ, quý vị luật sư nói trên không có đuợc tầm vóc cuả tôi.  Hơn nữa, quý vị ấy đạo Phật, mà tôi là  đạo công giáo. Chính vì vậy, mà Thích Trí Quang  đến tôi. Y cần một tên tuổi công giáo trong luật sư đoàn cũng như trong Thượng Nghị Viện, để biện hộ cho cái «chính nghĩa Ấn Quang» của y. Và tôi đã từ chối. Tuy từ chối,  tôi vẫn vào thăm TT Thích Thiện Minh trong tù.


TT Thích Thiện Minh bị mang ra xét xử trước toà án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật trong ba ngày, 12, 14, 15 tháng 3/1969, và bị lên án 15 năm khổ sai .
Thượng toạ được chính quyền Miền Nam ân xá ngày 30/10/1969, nhờ sự can thiệp của Ân Xá Quốc Tế và phái đoàn Hoa Kỳ trong đó có dân biểu John Conyers.

Và như chúng ta đã biết: nằm 1975 sau khi Miền Nam lọt vào tay Việt Cộng, hai nhà sư  Trí Quang và  Minh Châu đuợc hưởng ơn mưa móc của bọn chó đẻ Viêt Cộng cờ đỏ sao vàng, an nhiên tự tại, không thiết đến đạo pháp và dân tộc.  Riêng TT Thích Thiện Minh  vẫn một lòng với đạo  pháp và dân tộc, vì vậy đã bị Việt Cộng tống giam, rồi chết trong tù.

Phải chăng cái chết cuả Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã khẳng định một  sự thật? Sự thật đó, là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời Cộng Hòa Việt Nam không phải là Phật Giáo Ấn Quang  của nhà  sư Trí Quang thời đó, cũng không phải là  Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh  hôm nay của Việt Cộng.
Chuyến đi  VN thuyết pháp mới đây (Tết năm Dậu 2005) của vợ chồng tên thiền sư Nhất Hạnh-được nhà nước Việt Cộng cỗ võ và tiếp đón linh đình --đã xác nhận điều đó.
Đồng bào trong và ngoài nước đều biết:  Thích Nhất Hạnh đã xin đến bái kiến Hoà Thượng Thích Quảng Độ tất cả bốn lần. Và tất cả bốn lần,  Hoà Thuợng đã từ chối không tiếp.

Nguyễn Văn Chức

__._,_.___

Posted by: TRUNG LINH 

Sunday, December 1, 2019

Thich Đôn Hâu: "Phật Giao luôn gắng liền với cách mạng"

 
   Nhìn Thích Trí Quang qua tên cm súng cm súng ví vào đu . 
   Tên Thích Trí Qung . Đng viên Tôn giáo vn trong PGVNTN
   nm ti chùa n Quang . Đúng chng sai . 
   Nhìn Thích Trí Quang qua H thng Giáo hi PGVNTN qua Ôn Thích
   Trí Th , Vin trưởng . Ôn Thích Huyn Quang , Tng Thư ký . Ôn Thích 
   Qung Đ , Phó Tng Thơ ký . Đúng chng sai . 
    Người làm mt Min Nam , chính Tướng Dương văn Minh .
    Chúng ta hãy tr v cho S tht ca Lch s
    Phân tích tng bàng h . Lch s không đ trang giy đ viết . 
    Pht giáo Vit nam đã b Hà ni đp nát ri . 
    Liên Thành đng to thêm ni kh ca Dân tc . 
    Chính Đng Cng sn mi là Ti đ ca Dân tc Vit nam . 
    Hãy Đoàn kết dân tc Vit nam Hi ngoi trước hết . 
    Thng nht đ tìm , nương Thế và Lc đ Chúng ta có th Giúp nước Li Dân . Đng bàn chuyn Tào lao , khi lc kém , sc tàn . 
    Chúng ta ví như nước xa, không th  cu VN , La cháy gn . 
    Khoa hc K thut là Then cht đ Cu nước Li Dân . 
    Có đim chung . Chúng ta mi Đoàn kết . 
    Thi bui này . Hi ngoi nên Đon kết . 
    Chân Thành . 

                  Hàn S Mai văn Ton . 

     Đng lm Thích Trí Quang là Thích Trí Qung . 


On Thursday, November 28, 2019, 09:30:00 PM CST, sylvia le s[DiendanDanToc] <> wrote:


 

Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập

Trúc Giang
(Văn Hóa Vụ)
image022 
Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập.
1-ĐỊNH NGHĨA:
Tình báo, gián điệp là người hoạt động bí mật của phe địch để dọ thám lấy tin tức về tình hình quân sự, chính trị, kinh tế hoặc tác động, phá hoại.
2- GIÁN ĐIỆP CỘNG SẢN TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trong chiến tranh, ở miền Nam, ngoài những tên VC nằm vùng, còn có những điệp viên thuộc tình báo chiến lược như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thuý và Phạm Ngọc Thảo.
image023
2.1. VŨ NGỌC NHẠ
Vũ Ngọc Nhạ là nhân vật then chốt trong vụ án Cụm Tình Báo A.22 làm rung động chính quyền miền Nam năm 1969.
Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại tỉnh Thái Bình. Được kết nạp vào đảng CSVN năm 1947. Vũ Ngọc Nhạ còn nhiều cái tên khác nữa như Pière Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Đình Long (Hai Long) bí danh Lê Quang Kép, Thầy Bốn, “Ông Cố Vấn”.
2.1.1. Hoạt động
Năm 1955. Xuống tàu di cư vào Nam.
Vũ Ngọc Nhạ cùng 1 số điệp viên khác trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Nhạ cùng vợ và con gái xuống tàu Hải Quân Pháp cùng hàng triệu người Công giáo di cư vào Nam.
- Làm thư ký đánh máy ở Bộ Công Chánh. Chinh phục được cảm tình của Linh mục Hoàng Quỳnh và trở thành “Người giúp việc” của Giám mục Lê Hữu Từ. ------>( thang le huu tu la mot thang cong san nup lum)
Năm 1958- Tháng 12 năm 1958, Nhạ bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Nguyễn Tư Thái, tự Thái Đen, bắt giữ và giam tại trại Tòa Khâm (Huế) để chờ điều tra xác minh. Linh mục Hoàng Quỳnh can thiệp cho nên Nhạ không bị buộc tội.
2.1.2 .Người Giúp Việc của Đức Cha Lê Hữu Từ 

Một khuyết điểm lớn của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung là giam giữ những nghi can gián điệp chung với nhau tại trại Tòa Khâm. Chính ở đó, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối với các “cơ sở” (những cá nhân) tình báo khác, đặc biệt là trùm tình báo VC Mười Hương.
Tạo dựng niềm tin đối với Ngô Đình Cẩn.---->  (thang ngo dinh can ngu nguc choi voi thang cong san vu ngoc nha)
Năm 1959- Vũ Ngọc Nhạ làm tờ trình “Bốn Nguy Cơ Đe Doạ Chế Độ” được sự chú ý của Ngô Đình Cẩn và sau đó, của ông Nhu, ông Diệm. Do sự dự đoán chính xác về cuộc đảo chánh 11-11-1960 của tướng Nguyễn Chánh Thi, anh em ông Diệm đã chú ý đến Vũ Ngọc Nhạ.
Nhờ danh nghĩa “Người Giúp Việc” của Đức Cha Lê Hữu Từ mà Nhạ được xử dụng như là Người Liên Lạc giữa anh em Họ Ngô và giới Công Giáo di cư. Nhờ đó, Nhạ thu thập được nhiều tin tức tình báo có giá trị. Từ đó, Nhạ có biệt danh là “Ông Cố Vấn”.   (cong giao cho de viet cong)
2.1..3. Xây dựng Cụm Tình Báo Chiến Lược A.22
Sau đảo chánh 1-11-1963, thế lực Công giáo phát triển mạnh dưới tay của Linh mục Hoàng Quỳnh.
Cuối năm 1965, sự tranh giành quyền lực trong “nhóm tướng trẻ”, do sự giới thiệu của LM Hoàng Quỳnh, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã xử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc giữa tướng Thiệu và Khối Công giáo. Nhạ đã khéo léo lợi dụng vai trò đó để tạo ảnh hưởng đến các chính trị gia dân sự và quân sự.
Năm 1967- Sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, cấp trên nhận thấy cần thiết phải mở rộng mạng lưới tình báo, thành lập Cụm A.22(A.22 là mật danh của Vũ Ngọc Nhạ) Cụm do Nguyễn Văn Lê làm cụm trưởng, Nhạ làm Cụm Phó trực tiếp phụ trách mạng lưới. Toàn bộ Cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, chỉ huy phó Tình Báo Quân Sự ở miền Nam.
Bắt đầu, Cụm A.22 “phát triển” thêm Nguyễn Xuân Hoè, Vũ Hữu Ruật đều là những điệp viên mà Nhạ đã bắt liên lạc trong khi bị giam chung tại Tòa Khâm. Sau đó, thu nhận thêm Nguyễn Xuân Đồng và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, bổ sung thêm Lê Hữu Thuý (hay Thắng) mật danh là A.25.
Các điệp viên nầy được giao nhiệm vụ “Chui sâu, leo cao” nắm lấy những chức vụ quan trọng để thu thập thông tin và để tác động vào chính quyền.
Thành công của Cụm A.22 là cài được 1 điệp viên dưới quyền của Lê Hữu Thuý là Huỳnh Văn Trọng làm “Cố Vấn” cho tổng thống Thiệu.
Chính Huỳnh Văn Trọng đã cầm đầu một phái đoàn VNCH sang HK, tiếp xúc, gặp gỡ hàng loạt các tổ chức, các cá nhân trong chính phủ và chính giới HK, để thăm dò thái độ của chính phủ Johnson đối với cuộc chiến ở VN. Huỳnh Văn Trọng thu thập được nhiều tin tức tình báo chiếnlược.   (o viet cong la day ne chung may, lu cong giao ngu nguc, gap lua bo tay nguoi)
image024 
 2.1.4. Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo
CIA nhanh chóng phát hiện điều bất thường là sự tập hợp của các cá nhân là những bị can đã bị bắt giam ở Tòa Khâm.
Giữa năm 1968- Hồ sơ các cựu tù nhân ở Tòa Khâm được mở lại. Do tính phức tạp trong ngành điệp báo, CIA phải mất 1 năm mới hoàn tất hồ sơ và chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát QG VNCH.
Vào trung tuần tháng 7 năm 1969, một đơn vị đặc biệt có mật danh là S2/B được thành lập để tiến hành bắt giữ hầu hết những người của Cụm A.22.
Toàn bộ điệp viên Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Nguyễn Xuân Đồng, Huỳnh Văn Trọng, và hầu hết những gián điệp khác, kể cả giao liên là bà Cả Nhiễm cũng bị bắt.
Riêng cụm trưởng Nguyễn Văn Lê kịp thời trốn thoát.
Cụm tình báo A.22 bị phá vở hoàn toàn.
Chính quyền Saigon rung động vì 42 gián điệp từ cơ quan đầu nảo là Phủ tổng thống cho đến các cơ quan khác, nhất là 1 “Cố vấn” của tổng thống đã bị bắt.
2.1.5. Biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị
Đây là vụ án gián điệp lớn nhất lịch sử. Các bị can đều khai, nhất cử nhất động của họ đều là thi hành chỉ thị, là do sự uỷ thác, do lịnh của tổng thống, của các tổng trưởng, nghị sĩ, dân biểu và cả CIA nữa..
Tòa án Quân Sự Mặt Trận Lưu Động Vùng 3 CT bối rối vì không có thể gởi trác đòi những nhân chứng như tổng thống ra hầu tòa để đối chất.
Do không có đủ yếu tố để buộc tội tử hình, cho nên tòa tuyên án:
- Chung thân khổ sai: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hoè.
- Án từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai cho những bị can còn lại.
Khi quân cảnh dẫn các tù nhân ra xe bít bùng, thì Vũ Ngọc Nhạ quay sang nhóm ký giả ngoại quốc và thân nhân, nói lớn “Tôi gởi lời thăm ông Thiệu”.
2.1.6. Cho rằng CIA dàn cảnh
Một bất ngờ của vụ án là TT Thiệu không tin đó là sự thật mà cho là CIA đã dàn cảnh. Do đó, thời gian Vũ Ngọc Nhạ bị đày ở Côn Đảo thì TT Thiệu đã triệu hồi viên tỉnh trưởng Côn Sơn về Saigon và thay thế vào đó một người thân tín của mình để có điều kiện chăm sóc cho Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng như là những thượng khách. Vì thế, Vũ Ngọc Nhạ đã đánh giá:”Đó là một cuộc dạo chơi trên Thiên Đàng”.
2.1.7. Tiếp tục hoạt động
Đầu năm 1973- Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về khám Chí Hòa, Saigon. Trong thời gian ở Chí Hòa, nhờ sự giúp đở của LM Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ móc nối, bắt bắt liên lạc với nhóm “Thành Phần Thứ 3″ của Dương Văn Minh.
Ngày 23-7-1973- Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc Nhạ cho Mặt Trận DTGP/MNVN với danh xưng là “Linh mục Giải Phóng”.
Năm 1974- Vũ Ngọc Nhạ được CSBV phong Trung tá QĐNDVN. Tháng 4, 1974, Vũ Ngọc Nhạ trở về Củ Chi, hoạt động bí mật mục đích xây dựng lại Cụm Tình báo chiến lược, móc nối với Thành phần thứ 3 và khối Công giáo .
image025 
Ngày 30-4-1975- Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Độc Lập bên cạnh tướng Dương Văn Minh.
2.1.8. Bị thất sủng và được tôn vinh
Ngày 30-4-1975 thân phận của Vũ Ngọc Nhạ vẫn chưa được xác nhận. ------>-(no la thang cong giao diem thui)

Năm 1976- Vũ Ngọc Nhạ được điều về Cục 2 Bộ Quốc Phòng với quân hàm Thượng tá.
Năm 1981- Được thăng Đại tá nhưng vẫn còn ngồi chơi xơi nước. Hàng ngày đọc các tin tức báo cáo, tổng hợp lại rồi trình lên thượng cấp, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh.
Năm 1987- Tác giả Hữu Mai xuất bản cuốn tiểu thuyết “Ông Cố Vấn, Hồ Sơ Một Điệp Viên” ca ngợi thành tích tình báo của Vũ Ngọc Nhạ. Công chúng đã biết đến và Nhạ được phong Thiếu Tướng.
Vũ Ngọc Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Saigon, 75 tuổi. Phần mộ của Nhạ nằm chung với các phần mộ của các điệp viên khác như Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức và Phạm Ngọc Thảo.

image026
2.2. PHẠM XUÂN ẨN
* Thân thế Và Hoạt động
Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, là một thiếu tướng tình báo của QĐNDVN.
Từng là nhà báo. Phóng viên cho Reuters, tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor.
Theo học trường Collège de Can Tho.
Năm 1948- Tham gia Thanh Niên Tiền Phong và sau đó, làm thơ ký cho hãng dầu lửa Caltex.
Năm 1950- Làm nhân viên Sở Quan Thuế Saigon để thi hành nhiệm vụ là tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự từ Pháp sang VN. Đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ tình báo cùng với 14 ngàn gián điệp được cài cắm vào hoạt động.
Năm 1952- Phạm Xuân Ẩn ra Chiến Khu D và đã được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ủu viên Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ giao cho nhiệm vụ làm tình báo chiến lược.
Năm 1953- Phạm Xuân Ẩn được Lê Đức Thọ kết nạp vào đảng tại rừng U Minh, Cà Mau.
Năm 1954- Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay vào làm thư ký Phòng Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Pháp tại Camps Aux Mares (Thành Ô Ma) Tại đây, Ẩn được quen biết với Đại tá Edward Landsdale, trưởng phái bộ đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế, Landsdale là người chỉ huy CIA tại Đông Dương. cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) tại Saigon.
image027 
Năm 1955- Theo đề nghị của Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ, Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo tài liệu tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Tham gia thành lập cái khung của 6 sư đoàn đầu tiên của QLVNCH, mà nồng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp trước đó.
Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo, trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu, sau nầy trở thành tổng thống VNCH.
Năm 1957- Tháng 10 năm 1957, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương) chỉ đạo cho Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ du học ngành báo chí để có cơ hội đi khắp nơi, tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất.
Năm 1959- Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, Ẩn được bác sĩ Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Văn Hóa Xã Hội (Thực chất là cơ quan mật vụ của Phủ tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt Tấn Xã, phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc ở đó.
Năm 1960- Từ năm 1960 đến giữa 1964, Phạm Xuân Ẩn làm việc cho hảng thông tấn Reuters. Từ 65 đến 67, Ẩn là người Việt duy nhất và chính thức làm việc cho tuần báo Time. Ngoài ra, còn cộng tác với báo The Christian Science Monitor…
Từ 1959 đến 1975- Với cái vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, với các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và với cả CIA , Ẩn đã thu thập được nhiều tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và các cơ quan tình báo.
Những tin tức tình báo chiến lược của Ẩn đã được gởi ra Hà Nội thông qua Trung Ương Cục Miền Nam. Tài liệu sống động và tĩ mỉ khiến cho Võ Nguyên Giáp đã reo lên “Chúng ta đang ở trong Phòng Hành Quân của Hoa Kỳ”.
Tổng cộng, Ẩn đã gởi về Hà Nội 498 tài liệu gốc được sao chụp.
Giai Đoạn 1973-1975- Hàng trăm bản văn nguyên bản đã phục vụ “Hạ Quyết Tâm Giải Phóng Miền Nam ” của đảng CSVN.
Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA .
Ngày 30-4-1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến cảnh xe tăng của VC húc đỗ cổng Dinh Độc Lâp. Từ đó cho đến vài tháng sau, các phóng viên, đồng bào và cả chính quyền mới cũng chưa biết Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên Cộng sản.
Vợ con của Phạm Xuân Ẩn đã di tản sang Hoa Kỳ. Ẩn cũng được lịnh của cấp trên sang HK để tiếp tục hoạt động tình báo. Nhưng Ẩn đã xin ngưng công tác vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Do kế hoạch thay đổi, cho nên mãi 1 năm sau, vợ con của Ẩn mới có thể quay về VN bằng đường vòng Paris, Moskva, Hà Nội, Saigon.
* Sau chiến tranh
image028 
Ngày 15-1-1976, trung tá “Trần Văn Trung”, tức Phạm Xuân Ẩn, được phong tặng “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang”.
Tháng 8 năm 1978, Ẩn ra Hà Nội dự khóa học tập chính trị 10 tháng vì Ẩn “sống quá lâu trong lòng địch”.
Theo Larry Berman thì Ẩn bị nghi kỵ và bị quản chế tại gia.. Cấm liên lạc với báo chí ngoại quốc và cấm xuất cảnh, do cách suy nghĩ của Ẩn quá “Mỹ” và do Ẩn đã giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi VN ngày 30-4-1975 .
Năm 1986- Trong 10 năm, luôn luôn có 1 công an làm nhiệm vụ canh gác trước nhà của Phạm Xuân Ẩn.
Năm 1990- Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng thiếu tướng.
Năm 1997- Chánh phủ VNCS từ chối không cho Ẩn đi Hoa Kỳ để dự hội nghị tại New York mà Ẩn được mời với tư cách là khách mời đặc biệt.
Năm 2002- Phạm Xuân Ẩn về nghỉ hưu.
Con trai lớn của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ân, đã du học Mỹ, hiện đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Con gái của Ẩn hiện đang sống ở Hoa Kỳ.
* Thất Vọng
Trong những năm cuối đời, Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rất thất vọng vì dân chúng không được viết tự do. Ẩn trối trăn trước khi chết là, “đừng chôn ông gần những người Cộng Sản”.
* Nhận định về Phạm Xuân Ẩn.
Lê Duẩn: Đã biểu dương Phạm Xuân Ẩn coi đó là 1 chiến công có tầm cỡ quốc tế.
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn CIA , tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói:”Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tình báo chiến lược, điều đó rõ ràng, nhựng chưa ai “Dẫn con mèo đi ngược” để thực hiện 1 cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra, Cơ quan CIA không có gan để làm việc đó.” Hết trích.
Murrray Gart, thông tín viên trưởng của báo Time nói “Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó“.

2.3. PHẠM NGỌC THẢO
image029 
2.3.1. Thân thế
Phạm Ngọc Thảo sanh ngày 14-2-1922 tại Sàigon. Cha ông là Phạm Ngọc Thuần, một địa chủ lớn, có quốc tịch Pháp, người Công giáo. Còn có tên là Albert Thảo hoặc 9 Thảo, vì Thảo là con thứ 8 trong gia đình.
Sau khi đậu tú tài, Thảo ra Hà Nội học và tốt nghiệp kỹ sư công chánh.
Thảo tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp và tham gia kháng chiến.
2.3.2. Hoạt động VC
Sau khi tốt nghiệp trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn, Thảo về nhận nhiệm vụ giao liên ở Phú Yên. Một lần, Thảo đưa 1 cán bộ về Nam Bộ. Đó Là Lê Duẩn, người đã có ảnh hưởng lớn về hoạt động tình báo của Thảo sau nầy.
Được bổ làm Tiểu đoàn trưởng TĐ 410, quân khu 9. (Có tài liệu nói là TĐ 404 hoặc 307). Trong thời gian nầy, Thảo hướng dẫn chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, những người sau nầy trở thành tướng lãnh của QLVNCH.
Vợ là Phạm Thị Nhậm, em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.
2.3.3. Hoạt động tình báo
Sau Hiệp Định Genève, Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo không được tập kết ra Bắc phải ở lại để hình thành Lực lượng thứ 3.
Từ đó, Thảo dạy học ở một số tư thục Saigon.
Phạm Ngọc Thảo đã bị Đại tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Sau cùng, Thảo về Vĩnh Long làm nghề dạy học. Tỉnh nầy thuộc địa phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn đã quen biết với gia đình Thảo từ trước. Ngô Đình Thục coi Phạm Ngọc Thảo như con nuôi và bảo lãnh cho vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1956- Phạm Ngọc Thảo được phép đưa vợ con về Saigon và vào làm việc ở Ngân Hàng QG. Rồi được chuyển ngạch sang quân đội với cấp bậc Đại uý “Đồng Hóa”.
Năm 1956- Do sự giới thiệu của Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám đốc Viện Hối Đoái, Bí thư Liên Kỳ Bộ của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa Nhân Vị ở Vĩnh Long.. Và Thảo đã gia nhập đảng Cần Lao. (toan la cong giao gia nhap vo cai dang khon nan nay)

image030 2.3.4. Hoạt động trong Quân Lực VNCH
- Chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long.
- Tuyên Huấn đảng Cần Lao Nhân Vị.
Thảo biết cách khai thác nghề viết báo của mình và về Binh pháp Tôn Tử. Chỉ trong vòng một năm, Thảo đã viết 20 bài báo nói về chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo. Những bài báo được giới quân sự chú ý và cả TT Diệm và Ngô Đình Nhu.
Năm 1957- Phạm Ngọc Thảo được chuyển về Phòng Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng thống với cấp bậc thiếu tá. Sau đó, giữ chức Tỉnh Đoàn trưởng Bảo An Bình Dương.
Năm 1960- Phạm Ngọc Thảo tham dự khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Đà Lạt. Giữ chức vụ Thanh Tra Khu Trù Mật.
Năm 1961- Phạm Ngọc Thảo được thăng trung tá, giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hòa để trắc nghiệm chương trình bình định. Thời gian nầy, Kiến Hòa (Bến Tre) trở nên ổn định không còn phục kích hay phá hoại nữa.
Tuy nhiên có nhiều tố cáo Thảo là Cộng sản nằm vùng. Thảo bị ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Hoa Kỳ..
Lý do là, Thảo đã thả hơn 2000 tù nhân đã bị giam giữ và liên lạc với bà Nguyễn Thị Định.

2.3.5. Tham gia các cuộc đảo chánh
* Đảo chánh lần thứ nhất, 1963
Tháng 9 năm 1963, bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị (Thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu 1 cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm.
Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân Đoàn 3, Quân Đoàn 4, Biệt Động Quân, Bảo An sẵn sàng tham gia. Nhưng âm mưu bị nghi ngờ. Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập.
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963 , Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đỗ. Phạm Ngọc Thảo thăng chức Đại tá làm Tuỳ Viên báo chí trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Một thời gian sau, được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Tòa đại sứ VNCH ở Hoa Kỳ.
* Đảo chánh lần thứ hai năm 1965
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì Nguyễn Khánh muốn bắt Thảo. Vì thế, khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất, Thảo đào nhiệm, bỏ trốn và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập để tổ chức đảo chánh.
Đảo chánh với lý do rất quan trọng mà Thảo nắm được là Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào ngày 20-2-1965 Vì vậy phải đảo chánh lật Nguyễn Khánh vào ngày 19-2-1965 .

Ngày 19-2-1965: Phạm Ngọc Thảo và Tướng Lâm Văn Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Saigon, bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.

Ngày 20-2-1965: Hội Đồng các tướng lãnh họp tại Biên Hòa các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống lại đảo chánh. Nguyễn Chánh Thi ra lịnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.

Ngày 21-2-1965:Các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH.

Ngày 22-2-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lịnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động. (Một hình thức trục xuất ra khỏi nước)

Ngày 25-2-1965: Nguyễn Khánh rời Việt Nam. Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.

2.3.6. Bị bắt và qua đời

Ngày 11-6-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Quân đội.
Ngày 14-6-1965: Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật. Thảo cho xuất bản tờ báo Việt Tiến mỗi ngày phát hành 50,000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước chống Mỹ và Thiệu.
Phạm Ngọc Thảo có 1 hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các Xứ Đạo Biên Hòa, Hố Nai, Thủ Đức, Saigon. Có nhiều linh mục giúp đở in ấn và phát hànhChính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được Thảo.

Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) kể lại“Tôi thấy Thảo gặp khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chánh để ngăn chận việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam”. (Võ Văn Kiệt)
Lâm Văn Phát ra trình diện và chỉ bị cách chức.
Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng bị bắt tại Đan Viện Phước Lý, xã Vĩnh Thanh, quận Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Lúc 3 giờ sáng ngày 16-7-1965, Thảo vừa ra khỏi Đan Viện Phước Lý thì bị An ninh Quân Đội phục kích bắt và đưa về 1 con suối nhỏ gần Biên Hòa để thủ tiêu. Tuy nhiên, Thảo không chết, chỉ bị ngất xĩu vì đạn trúng vào càm. Khi tĩnh dậy, Thảo lê lết về một nhà thờ và được Linh mục Cường, Cha Tuyên Uý của Dòng Nữ Tu Đa Minh cứu chữa.
Và Thảo bị phát giác, bị đưa về Cục An Ninh QĐ đường Nguyễn Bĩnh Khiêm. Thảo bị tra tấn cho đến chết vào đêm 17-7-1965. 43 tuổi.
Theo Larry Berman trong cuốnÓi>”Perfect Spy” thì TT Thiệu ra lịnh tra tấn và hành hạ Thảo cho thật đau đớn bằng cách dùng 1 cái thòng lọng bằng da, buộc quanh cổ và 1 cái khác thì siết mạnh nơi tinh hoàn. Cũng có tin nói rằng Đại uý Hùng Sùi bóp dái Thảo cho đến chết.
Phạm Ngọc Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy hoc. Tất cả hiện đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Có người con là bác sĩ ở Quận Cam, Cali.
Phạm Ngọc Thảo là 1 điệp viên đơn tuyến. Không có thượng cấp và thuộc cấp. Không thu thập tin tức mà chỉ tác động vào chính quyền.
Nhà nước CSVN truy tặng Thảo danh hiệu Liệt sĩ và quân hàm Đại tá QĐNDVN.
Cũng có nguồn tin cho rằng Phạm Ngọc Thảo là 1 gián điệp nhị trùng, nghĩa là làm việc cho CIA nữa.

image033 image034 
image035 image036
image037 image038 


On Thursday, November 28, 2019, 06:40:21 PM PST, Tran Ho TranHo1@yahoo.com [DiendanDanToc] <diendandantoc@yahoogroups.com> wrote:


 
*Các sư sải và tín đồ Phật  giáo cùng những Tướng tá phản trắc  có công lớn trong việc đánh sập Miền Nam VN.Phạm văn Bồng chỉ là 1con chốt mà thôi.
    
     TH

THÍCH ĐÔN HẬU, TĂNG THỐNG PGVNTN 
TUYÊN BỐ TẠI CHÙA LINH MỤ HUẾ NGÀY 8/12/1978:
“Nhà chùa là những nơi giúp đỡ, chở che cho cán bộ, bộ đội đến như thế nào! Và ngay cả Tết Mậu Thân, dù cán bộ, bộ đội về nhiều như thế, về thành phố Huế nhiều như vậy, thì về ở đâu, không phải là ở nhà đạo khác mà chỉ là ở nhà Phật tử, mà nếu như Phật tử mà họ xấu, họ không có tinh thần yêu nước, thì khó mà thực hiện được cuộc cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân.Nói như vậy để thấy rằng Phật Giao luôn gắng liền với cách mạng"
Nguyễn phúc Liên Thành
Ngày 28/11/2019
Những dữ kiện mà tôi trình bày cùng đồng bào dưới đây là những dữ kiện lịch sử khách quan. Tôi, Nguyễn Phúc Liên Thành, một Phật tử thuần thành có pháp danh là Nguyên Tịnh, Anh tôi là Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Kim [đã viên tịch], anh ruột của Bà nội tôi là Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết .Do đó, tôi không có lý do gì để đánh phá Phật giáo, như những người hoặc là mê muội hoặc đang phục vụ cho CSVN thường kết án tôi một cách vô căn cứ. Trái lại, tôi rất tôn trọng Phật giáo. Tôi chỉ vạch trần tội ác của những tên phản quốc mượn áo cà sa của Phật giáo để làm ô uế Phật giáo mà thôi.


                                                                                                                          
            
image.png
    Thích Đôn Hậu (Chủ tịch Ủy ban Hòa bình, Thống nhất, Dân chủ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam) (phải) cùng với Lê Duẩn (Tổng Bí Thư Cộng sản) (ngoài cùng bên trái) và Võ Nguyên Giáp (Tổng Tư Lệnh Quân đội Cộng sản) vào tháng 4/1976 tại chùa Thiên Mụ (tức Linh Mụ) Huế
image.png
 [Thích Đôn Hậu (trái), Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, và Tuần Chi trong Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam]

"Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ tịch.
“Khi gặp Hồ Chủ tịch, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch 'tán dương Phật giáo. Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền nam Việt Nam.' Rồi Hồ Chủ tịch tán dương cuộc tranh đấu của Phật giáo là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng.
Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương Phật giáo, đại khái như Hồ Chủ tịch đã nói.”
 “Chắc quý vị đã biết một cách rõ ràng là Phật giáo chúng tôi luôn luôn gắn liền với dân tộc. Phật giáo với dân tộc gắn liền với nhau như môi với răng. Mà Phật giáo và dân tộc vì gắn liền với nhau cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: những thời qua, các vị cách mạng tiền bối, kể cả Hồ Chủ tịch và hiện tại các vị như là Thủ tướng Phạm Văn Đồng .v.v... thì đã ở chùa, ở chùa để mà tiếp tục làm cách mạng. Thì trong khi đó nếu Phật giáo không phải là yêu nước thì trong khi mà các Ngài ở chùa đó, nếu các nhà sư mà xấu, thì chắc là các Ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Và từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng đã biết rằng nhà chùa, nhất là nhà chùa là những nơi giúp đỡ, chở che cho cán bộ, bộ đội đến như thế nào! Và ngay cả Tết Mậu Thân, dù cán bộ, bộ đội về nhiều như thế, về thành phố Huế nhiều như vậy, thì về ở đâu, không phải là ở nhà đạo khác mà chỉ là ở nhà Phật tử, mà nếu như Phật tử mà họ xấu, họ không có tinh thần yêu nước, thì khó mà thực hiện được cuộc cách mạng vùng lên trong Tết Mậu Thân.
Nói như vậy để thấy rằng Phật giáo luôn luôn gắn liền với cách mạng. Vì gắn liền với cách mạng cho nên khi nghe đến giải phóng chỗ nào thì người Phật giáo hoan nghênh lắm. Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn, thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức.
Từ đó thì cán bộ, bộ đội về khắp tất cả, từ nông thôn cho đến nơi thành thị, mà ở đâu có bóng của các vị, của anh em cán bộ, bộ đội, thì đồng bào, mà trong đó đa số là Phật tử, thấy các anh thì họ hết sức là hoan nghênh, vui vẻ ra đón chào. Người thì bắt tay, người thì vuốt vai, người thì cầm áo, người thì là ngó mà rất hoan nghênh, cứ ngó mãi mãi, cười mãi... Họ thấy các anh em, họ nhìn các anh em như là anh em, con cháu chú bác gì của họ mà đi xa, đi làm nhiệm vụ thành công mà về. Từ đó có cái gì họ cũng đem ra mời ăn, thành ra đoàn kết, mà còn là thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu mà còn là kính nể nữa, kính trọng nữa. Bởi vì họ thấy anh em là những người có công với cách mạng, có công trong cuộc kháng chiến, là những người nếm mật nằm gai đem lại độc lập, hòa bình cho quê hương….”



[1] Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976.  
--
************************************
DIỄN ĐÀN PHỤNG SỰ XÃ HỘI

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List