Ngô Kỷ tại
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ,
thủ
đô người Việt tỵ nạn Little Saigon, Westminster, Nam California
TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30
THÁNG 4
Little Saigon ngày 29 tháng 4 năm 2017
Kính thưa Quý Đồng Hương
30 tháng 4 năm 1975, ngày định mệnh đã đưa dân tộc Việt Nam rẽ qua
một khúc quanh lịch sử bi thảm nhất. Là người tỵ nạn cộng sản, chúng ta xót xa
cho thân phận quê hương và thao thức về những tang thương của đất nước.
Hồi tưởng về quá khứ, chúng ta thành tâm biết ơn và nguyện cầu cho
vong linh các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân được siêu thoát.
Chúng ta vinh danh những Tướng Lãnh và hàng ngàn Chiến Sĩ Vô Danh đã chấp nhận
cái chết hào hùng không hàng phục giặc để giữ vẹn khí tiết bất khuất của con
cháu Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Trần Bình Trọng....
Chúng ta cảm phục và chia sẻ những khốn khổ, tủi nhục của hàng
trăm ngàn người Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa đã chịu đựng tại các lao tù
khắc nghiệt cộng sản. Chúng ta ngậm ngùi tưởng niệm những đồng bào thân yêu xấu
số đã vùi thây nơi biển cả mênh mông, hay bỏ xác nơi rừng núi hoang vu trên
đường đi tìm ánh sáng tự do.
Chúng ta cầu xin Ơn Trên đoái thương đến 90 triệu đồng bào ruột
thịt đang sống lầm than cơ cực dưới ách thống trị dã man của cộng sản vô thần
nơi quê nhà, sớm hưởng được một đời sống tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, nhân
bản và không còn cộng sản.
Nhân mùa Quốc Hận về, tôi xin phép kính gởi đến quý vị bài dịch Những Đồng Minh Anh Hùng, tức "Heroic
Allies" của tác giả Harry F. Noyes III, một cựu chiến binh Không Quân
Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Sau cuộc chiến trở về, ông theo học tại trường
Đại Học Hawaii và tốt nghiệp cao học
về Nghiên Cứu Á Châu. Nguyên bản Anh ngữ được
đăng trong tạp chí VIETNAM số tháng 8 năm 1993.
Bài viết Những
Đồng Minh Anh Hùng "Heroic Allies" của tác giả Harry F. Noyes III
không lê thê, không cường điệu, không lạc quan, không bi quan, không thiên hữu,
không thiên tả, không hiếu chiến, không phản chiến, không bảo thủ, không cấp
tiến, không Quốc Gia, không cộng sản..., mà bài này chỉ nói lên "sự
thật." Nhận thấy bài viết này có giá trị và khách quan, nên tôi xin phép
chuyển ngữ để kính tặng Quý Đồng Hương, đặc biệt kính gởi đến những người cựu
Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa can trường và anh dũng, mà tôi là người hậu
phương lúc nào cũng cảm kích và biết ơn sự hy sinh lớn lao của họ trong việc
chiến đấu và bảo vệ cho tôi được sống còn cho tới ngày hôm nay..
Tôi xin quý vị bấm vào hai
cái Links Youtube Audio Nhung Dong Minh Anh Hung Tran Minh
doc Ngo Ky dich để nghe Anh Trần Minh đọc bài dịch "Những
Đồng Minh Anh Hùng," và xem các phim, ảnh đính kèm nói về sự chiến đấu anh
dũng và tuyệt vời của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
|
Trân trọng,
Ngô Kỷ
Mùa Quốc Hận 2017
TƯỚNG WESTMORELAND XIN LỖI CỰU QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM
CỘNG HÒA
"Thay
mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của
Quân
Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn."
(On
behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize
to
the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)
Xin bấm Youtube ở dưới để vừa nghe đọc bài
"Những Đồng Minh Anh Hùng,"
và vừa xem 300 tấm hình về cuộc chiến đấu
anh dũng và hào hùng
của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa,
Youtube Audio: Anh Trần Minh đọc
Những
Đồng Minh Anh Hùng
"Heroic Allies"
của Harry F. Noyes III
đăng trong Nguyệt San VIETNAM, phát hành tháng 8
năm 1993
Do Ngô Kỷ chuyển ngữ để
kính tặng và tri ân sự chiến đấu dũng cảm
và tuyệt vời của
những Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Họ dáng người thì nhỏ
nhắn, nói chuyện bằng những âm ngữ líu lo, thường chan nước mắm vào thức ăn và
hay cầm lấy tay nhau.
Chẳng ai ngạc nhiên
lắm khi thấy những quân nhân Mỹ gởi qua Đông Nam Á - phần lớn họ còn rất trẻ,
có một kiến thức nông cạn, được đào tạo trong một xã hội vị kỷ và hiểu rất ít
về những nền văn hóa khác - họ không cảm thông được tâm trạng của các binh sĩ
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Thật đau lòng khi có
nhiều cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với cái đám
phản chiến cấp tiến, những tên trốn quân dịch và bọn chính khách hoạt đầu xúm
nhau bôi nhọ danh dự của một Quân Lực đã chẳng còn có cơ hội để được tự bào
chữa. Nhục mạ một quân đội đã sa cơ trên chiến trường vì bị Hoa Kỳ phản bội là
một hành động đê tiện và bất xứng của những người Hoa Kỳ.
Có thể một số quý vị
sẽ ngạc nhiên về lý luận của tôi. Làm sao tôi có thể biện hộ cho quân lực VNCH
được? Phải chăng tất cả binh sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài, xảo trá và hèn
nhát? Không, không phải vậỵ. Trong bài này tôi sẽ vạch ra một số bằng chứng xác
đáng để phản bác lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích lý do tại sao cái
luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảo. Họ cũng có một
số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần hoảng hốt bỏ chạy,
xằng bậy và hung bạo. Tuy nhiên, các điều này cũng đã từng xảy ra đối với quân
đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.
Trong một số lãnh vực
như: tổ chức, tiếp vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội
Hoa Kỳ thật. Nhưng họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đất nước đang
phát triển, họ mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờ lao vào một
trận chiến khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hăng được vũ trang hùng hậu từ cả
khối Cộng Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũng giống như các
khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến Dành Độc Lập, dù rằng
Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi điểm hơn, như:
- Tầm vóc của Cuộc
Cách Mạng Dành Độc Lập hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.
- Khác với sự bị trị
của Việt Nam, Hoa Kỳ qua kinh nghiệm bị trị đã nuôi dưỡngtinh thần tự trị địa
phương và tạo thuận lợi cho quốc gia đào tạo nên những nhà lãnh đạo ưu tú.
- Quân đội Hoàng Gia
Anh không bền bỉ như quân đội Bắc Việt.
- Có phải các binh sĩ
Hoa Kỳ giỏi giang hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử
miền Nam Việt Nam với một thái độ khinh rẻ như vậy.
Câu trả lời cho cả hai
câu hỏi trên là: "Không!"
Bằng chứng cho câu trả
lời đó thật rõ ràng. Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng quân là bẻ gẫy ý
chí pḥòng thủ của miền Nam Việt Nam. Nhưng chúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã
chống trả một cách quyết liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào bị tan rã hay
tháo chạỵ. Thậm chí cảnh sát cũng đã chiến đấu, họ dùng cả súng lục để bắn lại
bộ đội chính quy của Bắc Việt trong khi những người bộ đội CS này thì lại được
võ trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáo cho thấy là vào thời điểm đó, số
người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng tuyển mộ
lính trong một thời gian.
Trong trận chiến Mùa
Hè Đỏ Lửa 1972, các binh sĩ VNCH bị vây hãm tại An Lộc đã anh dũng tử thủ chống
trả lại lực lượng hùng hậu của địch, cùng với những trận mưa pháo bất tận, và
cuối cùng họ đã đè bẹp được những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch
quân. Sau đó, tôi được một cố vấn Mỹ kể lại chuyện một tiểu đội bộ binh VNCH
được lệnh phải phá hủy 3 chiếc xe tăng của địch. Ông kể:
- Các binh sĩ của tiểu
đội này phá hủy được một chiếc xe tăng, rồi sau đó họ lại tự quyết định bắt
sống hai chiếc xe tăng kia. Họ rượt bộ và bắt được thêm một chiếc nữa, còn
chiếc kia thì chạy thoát. Khi trở về pḥòng tuyến, họ bị khiển trách nặng nề..
vì đã để chiếc xe tăng kia tẩu thoát."
Tuy hành động của tiểu
đội lính này không đúng với quân kỷ lắm, nhưng cái hành động đó đã nói lên tinh
thần chiến đấu cao độ và sáng kiến tác chiến của rất nhiều binh sĩ VNCH. Chắc
chắn sự kiện trên không thể hổ trợ luận điệu cáo buộc họ hèn nhát được.
Một chứng cớ điển hình
hơn, trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam Việt Nam năm 1975, khi mà nỗi
tuyệt vọng bao trùm lên cả đất nước họ, khi mà biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ không yểm
trợ gì nữa (ngay cả nhiên liệu và đạn dược); ấy thế mà một sư đoàn VNCH đã anh
dũng cầm cự chiến đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ tại
Xuân Lộc. Trên mọi bình diện, trận chiến Xuân Lộc đó cũng hào hùng như bất cứ
trận chiến nào trong quân sử Hoa Kỳ. Các binh sĩ VNCH cuối cùng đã phải rút lui
vì không lực của họ không còn bom cluster để yểm trợ cho lực lượng bộ binh đụng
trận dưới đất.
Có lần tôi được coi
một phim tài liệu truyền hình nói về một người phóng viên Úc đặc trách quay
phim chiến trường. Khác với các phóng viên Mỹ, ông ta dành nhiều thì giờ theo
sát binh sĩ VNCH. Ông ta công nhận tinh thần chiến đấu anh dũng của họ, và để
minh chứng điều đó, ông đã cho trình chiếu cả cuốn phim. Ông ta nhớ lại rằng,
trong chuyến thăm viếng một khu làng do địch quân kiểm soát, ông được nghe kể
rằng Cộng Sản sợ binh sĩ VNCH hơn là sợ binh sĩ Mỹ. Cái lý do chính là binh sĩ
Mỹ quá ồn ào, do đó địch quân luôn nghe trước được đường tiến quân của họ. Làm
sao có được điều so sánh này nếu trên thực tế các binh sĩ VNCH không thuộc loại
lính thiện chiến.
Tuy nhiên, cái chứng
cớ quan trọng nhất để chứng minh tinh thần chiến đấu cao độ của binh sĩ VNCH
nằm trong hai sự kiện thật đơn giản và rõ ràng sau đây, dù rằng các sự kiện này
thường bị làm ngơ hoặc giả vờ không biết nhằm che đậy sự thất bại của Hoa Kỳ
tại Việt Nam.
Sự kiện thứ nhất:
Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác chiến Hoa Kỳ bước chân
vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo dài suốt 5 năm sau khi Hoa Kỳ
rút quân. Phải có những người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó, và không ai
khác hơn là các binh sĩ VNCH.
Sự kiện thứ hai: Có độ
1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến. Nếu đem so sánh tỷ lệ dân số
hai nước, thì con số này phải tương đương với khoảng hai triệu người Mỹ chết
(gấp đôi tổng số thương vong của tất cả cuộc chiến Hoa Kỳ cộng lại). Bạn không
thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự chiến đấu.
Thế thì tại sao thanh
danh quân đội VNCH lại bị xúc phạm nặng nề như vậy?
Dĩ nhiên quân đội VNCH
cũng có một số lần chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị khủng hoảng, nhưng các
trường hợp này cũng từng xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Tôi biết một vị chỉ huy
đơn vị pháo binh Hoa Kỳ đã có lần ra lệnh trực xạ vào địch quân vì lực lượng bộ
binh Mỹ "bảo vệ" cho căn cứ pháo binh đã hốt hoảng tháo chạy trước
hỏa lực hùng hậu của địch.
Sự kiện trên không có
nghĩa là toàn thể quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi lần thất bại của binh sĩ
VNCH cũng không có nghĩa là toàn thể quân đội VNCH hèn nhát. Dù vậy, người ta
lại rất dễ tin như thế khi được nghe kể lại từ chính miệng các cựu chiến binh
Hoa Kỳ hoặc từ các chính trị gia nhằm chạy tội cho chính phủ Hoa Kỳ về việc bỏ
rơi miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối.
Sự thật của vấn đề
được diễn tả khéo nhất qua mẩu đối thoại cách đây gần hai thế kỷ khi một mệnh
phụ Anh hỏi Quận Công Wellington rằng: "Có bao giờ quân Anh tháo chạy trên
chiến trường không?" Vị Thiết Quận Công này trả lời: "Thưa bà, tất cả
binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến trường."
Chỉ cần lướt qua quân
sử cũng đủ để xác nhận điều này. Trong suốt cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã
thấy rất nhiều tấm gương can đảm nhưng cũng không thiếu gì các hành động khiếp
nhược. Trên mặt trận, lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiến đấu rất
dũng cảm, rồi pḥòng tuyến vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiến đấu trở
lại. Không có quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ, nhưng
những binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúc thất
điên bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường.
Tác giả S.L.Ạ Marshall
đã tường thuật chuyện một đại đội lính Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến đã tháo chạy
tán loạn trước tiếng la ré xung phong của một toán lính Nhật. Nhưng đại đội
lính Mỹ khác thì lại tiếp tục chiến đấu, giết sạch hết toán lính Nhật (độ 10
người), và khám phá ra rằng hầu hết những tên lính Nhật này không võ trang gì
cả. Nếu chuyện trên xảy ra cho một đơn vị quân đội VNCH, thì chắc chắn những kẻ
muốn bôi nhọ quân đội này sẽ lợi dụng đó như là một "cơ hội bằng
vàng" để mạ lị rằng toàn thể quân lực VNCH là hèn nhát.
Tại sao vậy? Tôi đã
nêu ra câu trả lời rồi. Tất cả tùy thuộc vào màu da và ngôn ngữ của các binh sĩ
liên hệ. Sự thật bỉ ổi là việc mạ lị quân đội VNCH lại xuất phát từ tinh thần
kỳ thị chủng tộc và bồng bột của nền văn hóa Hoa Kỳ.
Tôi có thể làm chứng
cho việc xuyên tạc đầy ác ý và phổ quát này. Khi vừa đến Việt Nam vào tháng 6
năm 1969, tôi đã chứng kiến ngay sự ngu ngơ và thái độ khinh bỉ của một số
người Mỹ đối với nhân dân và quân đội VNCH. Cái thái độ đó nằm trong mọi tập
thể quân nhân da trắng lẫn da đen, trong các giới dân sự cũng như ký giả Hoa
Kỳ. Phong trào thù ghét đất nước và nhân dân Việt Nam bị lan tràn như một thứ
bệnh dịch truyền nhiễm đáng ngạc nhiên.
Tôi quen một viên đại
úy Hoa Kỳ tốt nghiệp về môn điện ảnh từ một viện đại học danh tiếng (một ngành
chuyên môn được dùng để giúp nâng cao tŕnh độ nhận thức quan sát). Khi viên đại
úy này trở lại đơn vị sau một chuyến công tác ngắn tại Thái Lan, anh ta ca ngợi
đáo để dân tộc Thái Lan. Anh nói rằng: "Dân Thái Lan cho con cái đi học
khác hẳn với dân Việt Nam". Anh ta ngạc nhiên nhưng lại không lộ vẻ hối
hận khi tôi chỉ cho anh thấy một ngôi trường Việt Nam sát nách doanh trại chúng
tôi. Bất cứ ai có mắt cũng đều thấy hàng trăm em học sinh mặc đồng phục quần
xanh áo trắng qua lại mỗi ngày, chỉ trừ anh chàng phim ảnh này không nhìn thấy
các em mà thôi
Thật là mỉa mai khi
người Việt Nam có tiếng hiếu học hơn người Mỹ, và miền Nam Việt Nam đã nâng cao
được mức biết đọc biết viết từ 20% lên 80% trong khi đất nước chiến tranh triền
miên (và mặc dù Cộng Sản chủ trương giết hại các giáo chức), thế mà lại bị anh
chàng phim ảnh này cho rằng Việt Nam không có trường học. Vì bị gởi đi chinh
chiến xa xôi và bị cách biệt gia đình, nên anh Mỹ này nảy sinh lòng oán ghét
Việt Nam, và tạo nên thành kiến rằng mọi người Việt Nam đều đáng khinh. Do đó,
trong đầu anh cứ ám ảnh là Việt Nam không có trường học, dần rồi cái tâm lý
bệnh hoạn đó đã làm hư đi cái khả năng nhận thức và đánh lừa cả thị giác của
anh.
Hãy tưởng tượng cái
tâm trạng của một tập thể lính Mỹ ít học, sống giữa một nền văn hóa xa lạ và
thần kinh lúc nào cũng bị căng thẳng ra sao?! Có lẽ chúng ta không nên trách cứ
những người lính thiếu học này, lỗi là do nơi các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã huấn
luyện họ hiểu một cách mơ hồ về đất nước Việt Nam cũng như về thực chất của
cuộc chiến.
Tuy nhiên, đó không
phải là cái cớ để các cựu chiến binh Mỹ huênh hoang rằng họ hiểu những cái mà
họ đã thấy tại Việt Nam. Các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam cần
được vinh danh về các đức tính can đảm, hy sinh, ái quốc của họ. Nhưng can đảm
và hy sinh không đồng nghĩa với kiến thức. Đánh giặc tại Việt Nam không làm cho
những người lính này trở thành những chuyên viên thông thạo về đất nước hoặc
cuộc chiến Việt Nam, cũng như việc mang nặng đẻ đau không thể biến người đàn bà
trở thành một chuyên gia về thai nhi học được.
Giới truyền thông Mỹ
cũng chẳng khá gì hơn. Trong một phóng sự đầy thành kiến, tôi nghe một phóng
viên lên án Không Lực VNCH - dù đã được tân trang qua chương trình Việt Nam Hóa
Chiến Tranh - thế mà lại "đẩy cho Không Quân Hoa Kỳ" thực hiện những
phi vụ nguy hiểm ngoài Bắc Việt. Trên thực tế Hoa Kỳ không muốn Không Quân VNCH
bay ra Bắc (chỉ trừ vài phi vụ oanh tạc ban đầu). Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn
kiểm soát kế hoạch oanh tạc để dùng nó như một lá bài thương thuyết. Vì không
muốn miền Nam Việt Nam có bất cứ quyền kiểm soát nào trong chính sách oanh tạc,
Hoa Kỳ đã trang bị cho Không Quân VNCH những vật dụng không thích hợp cho các
phi vụ ra Bắc. Miền Nam Việt Nam không được cung cấp oanh tạc chiến đấu cơ, phi
cơ tiếp liệu trên không, vũ khí hay các dụng cụ điện tử cần thiết cho các phi
vụ này. Đó là quyết định của người Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là có
phải người phóng viên truyền hình nêu trên dốt đặc về sự kiện đó hay giả vờ
không biết nhằm đi hạ nhục những đồng minh của Hoa Kỳ. Dựa vào các lời lẽ lố
bịch, chói tai và thanh âm của anh ta, tôi kết luận rằng anh ta chủ mưu làm như
vậỵ. Một thí dụ khác nói lên cái thành kiến của giới truyền thông, đó là trận
chiến vây hãm Khe Sanh. Nếu bạn đi hỏi một ngàn người Mỹ từng nghe biết về trận
đánh này rằng đơn vị nào chiến đấu tại Khe Sanh, thì có lẽ hầu hết đều trả lời
là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Nhưng sẽ làm họ ngạc nhiên nếu có một người
trong số ngàn người đó nói rằng có một tiểu đoàn Biệt Động Quân VNCH đã cùng
chia sẻ nỗi gian lao với các đồng minh Thủy Quân Lực Chiến Hoa Kỳ trong trận
chiến ngặt nghèo đó. Có nhiều đơn vị VNCH khác cũng đã hổ trợ chiến đấu bên
ngoài vòng đai căn cứ Khe Sanh.. Giới truyền thông Mỹ không đếm xỉa đề cập đến
các chiến hữu đồng minh của Hoa Kỳ, mà họ chỉ để ý đến những điều bê bối thôi,
bởi vậy những binh sĩ VNCH chiến đấu cam khổ này đã bị trở thành những chiến sĩ
"vô hình" của Khe Sanh.
Tất cả thành kiến -
trong quân đội cũng như trong truyền thông - được thể hiện rõ ràng qua các bản
tin chiến sự về cuộc hành quân Hạ Lào năm 1972.
Trong cuốn phim tài
liệu truyền hình mười năm trước đây, có một đoạn phỏng vấn lính Mỹ trong lúc
chiến trường Hạ Lào đang tiếp diễn. Các lính Mỹ được phỏng vấn này đang sống an
toàn tại hậu cứ Nam Việt Nam. Họ "giải thích" về sự chiến đấu của quân
đội VNCH với những lời lẽ khinh bỉ và kỳ thị. Thế mà sau đó người phóng viên
này đã ca ngợi khen mấy người lính G.I Mỹ đó am tường về tình hình chiến sự hơn
là các nhà tướng lãnh Hoa Kỳ.
Trận Hạ Lào đã trở
thành đề tài vì nó có liên quan đến một tấm hình có cảnh người lính VNCH bám
vào cái càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường. Tấm hình này bị
bêu riếu khắp nước Mỹ ngày này qua tháng nọ như là một "bằng chứng"
về sự khiếp nhược của quân lực VNCH. Thực tế, đây là một trò cổ điển nói lên
mãnh lực của sự xuyên tạc hình ảnh. Thật ra thì sự việc nó diễn tiến như sau:
Binh sĩ VNCH bị tấn công bởi một lực lượng Cộng quân hùng hậu. Quân đội Hoa Kỳ
đã thất bại trong việc yểm trợ như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá
mạnh. Những báo cáo cho biết là lính trên trực thăng đã đạp những thùng đạn đại
bác từ cao độ 5,000 feet xuống với hy vọng chúng sẽ rơi vào vòng đai của quân
đội VNCH. Các trực thăng đó đã không thể nào bay thấp hơn được.
Đại tá Robert Monelli,
một sĩ quan Hoa Kỳ có mặt trong mặt trận đó đã kể lại trên báo Armed Forces
Journal số 19 tháng 4 năm 1972 như sau: "Một tiểu đoàn VNCH với 420 binh
sĩ bi bao vây liên tiếp trong ba ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản độ 2,500 đến
3,000 tên. Quân đội Hoa Kỳ không thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho
tới khi gần hết đạn, rồi mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã
mang theo tất cả binh sĩ bị thương và cả một số xác chết. Không ảnh thám sát
chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác chung quanh căn cứ.
Về phía quân đội VNCH,
tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi đến được vòng đai bạn. Chừng
17 người trong số binh sĩ này bị khủng hoảng và đã bám vào càng trực thăng để
chạy trốn, số binh sĩ còn lại thì không làm như vậỵ"
Bây giờ, có thể một số
người cho rằng hành động bám vào càng trực thăng đang bay và dễ làm mồi cho hỏa
lực phòng không địch là một hành động gan dạ. Hãy xếp đề tài đó qua một bên,
tôi muốn đề cập đến việc là tại sao chỉ có một trường hợp riêng lẻ như vậy -
xáp lá cà mở đường máu rút lui (được coi là một chiến thuật khó khăn nhất trong
binh thư) lại bị thổi phồng để đi lên án cả một quân lực, cả một quốc gia, cả
một dân tộc?
Câu trả lời là tại vì
kỳ thị chủng tộc. Các người lính VNCH bám lủng lẳng vào trực thăng bị coi là
những tên ngoại quốc hợm hĩnh. Nhưng nếu là lính Mỹ, hay cả lính Anh, thì hành
động này đã gây được lòng trắc ẩn vì được biện minh rằng họ vừa trải qua một
cuộc thử thách đầy cam go. Bằng cớ cho lập luận này có thể thấy được qua cái
phản ứng của người Mỹ đối với cuộc rút lui của binh sĩ Hoàng Gia Anh trong
những ngày đầu của trận Đệ Nhị Thế Chiến. Từng có một số lần nhục nhã đã xảy ra
trong quân đội Hoàng Gia Anh tại Dunkirk và nhiều nơi khác. Tại Dunkirk, một
trung sĩ trên một chiếc tàu cấp cứu đã chĩa súng tiểu liên vào các binh sĩ
khủng hoảng để duy trì trật tự. Trên một con thuyền khác, binh sĩ phải dùng
báng súng đánh vào đầu một viên sĩ quan để ông ta khỏi leo qua mép thuyền làm
nước tràn vào. Tại Crete, một lữ đoàn Tân Tây Lan phải lập vòng đai an toàn
quanh biển bằng dao găm để ngăn chặn binh sĩ Hoàng Gia Anh tràn ngập lên
thuyền. Cái hình ảnh quân đội Hoàng Gia Anh đơn thân độc mã chống lại Hitler
năm 1940 thì ca ngợi là một biểu tượng đầy đủ dữ kiện, còn những trường hợp
riêng lẻ như các trường hợp kể trên không được phép làm hoen ố cái bức tranh
toàn cảnh dũng cảm và tận tụy của những người lính chiến.
Thành thật mà nói thì
quân đội VNCH đã chiến đấu một cách tầm thường trong những ngày cuối cùng của
cuộc chiến, ngoại trừ trận đánh hào hùng và tuyệt cú tại mặt trận Xuân Lộc. Nói
vậy chứ nó cũng có những nguyên do của nó. Và cũng có nhiều yếu tố để ta tin
rằng nếu nhận được sự yểm trợ chân thành từ phía Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã có
thể tạo được những trận thư hùng như kiểu Xuân Lộc, và không chừng ngay cả việc
họ đã cứu vãn được đất nước.
Vấn đề đặt ra đây một
lần nữa không phải đề bàn đến cách ứng xử của miền Nam Việt Nam, nhưng chính là
đem so sánh cách ứng xử của họ với Hoa Kỳ để xem liệu Hoa Kỳ ứng xử ra sao nếu
Hoa Kỳ bị nằm trong một hoàn cảnh, tình huống tương tự. Và thật sự - nếu binh
sĩ Hoa Kỳ bị bỏ rơi giống như Hoa Kỳ đã cắt viện trợ Miền Nam Việt Nam một cách
nặng nề trong năm 1974, nhiều tháng trước khi địch quân mở những trận tổng công
kích lần chót. Hậu quả là chỉ có rất ít nhiên liệu và đạn dược cung cấp cho
miền Nam Việt Nam. Phi cơ và quân xa của VNCH bị nằm ụ vì thiếu phụ tùng. Binh
sĩ phải ra trận với máy truyền tin mà không có bình batteries, và các toán cứu
thương thiếu cả các loại thuốc thang căn bản. Pháo binh thì bị giới hạn bắn
được ba trái đạn mỗi ngày trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tình trạng bi
đát đến nỗi tư lệnh quân đội Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam, tướng Văn
Tiến Dũng cũng thừa nhận rằng khả năng di động và hỏa lực của quân đội VNCH đã
sút giảm phân nửa. Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp về vật chất, chúng ta
cũng phải để ý đến những tác hại tinh thần đối với các binh sĩ VNCH. Lợi dụng
tình thế bi thảm này, quân đội Bắc Việt đã ào ạt tấn công với đầy đủ vũ khí tối
tân, chiến xa và đại bác di động.
Vâng, quân đội VNCH đã
bại vong. Họ đã vất bỏ các chiến cụ (phần lớn đã không còn dùng được vì thiếu
phụ tùng) và một số đạn dược (số đạn mà họ đã dành dụm tối đa cho đến khi nó
trở thành quá muộn để bắn, bởi vì họ biết rằng sẽ không bao giờ nhận được tiếp
tế nữa). Vậy thì lỗi của ai? Của họ... .hay của Hoa Kỳ?
Vâng, miền Nam Việt
Nam rút quân khỏi các tỉnh cao nguyên e có phần trễ và vụng về, đưa đến sự
khủng hoảng và sụp đổ. Nhưng làm sao chính phủ miền Nam Việt Nam lại cam tâm bỏ
rơi đồng bào họ sớm hơn trước được, khi mà địch quân chưa tung ra một áp lực
nào ? Đã có lúc miền Nam Việt Nam hy vọng oanh tạc cơ B52 Hoa Kỳ sẽ trở lại
giúp họ ngăn chặn làn sóng tiến quân của Cộng Sản. Nhưng khi rõ ràng là việc
này sẽ không xảy ra, binh sĩ trở nên hoang mang là một điều dễ hiểu thôi. Tinh
thần chiến đấu suy sụp, nhiều binh sĩ bị bỏ ngũ - không phải họ hèn nhát hay
không muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng bởi vì họ không muốn chết một cách
vô ích trong khi gia đình đang cần.
Liệu Hoa Kỳ đã có thể
làm gì khá hơn nếu ở trong tình trạng y hệt miền Nam Việt Nam thời 1975? Liệu
các đơn vị Hoa Kỳ có tiếp tục hăng say chiến đấu trong lúc quân xa và hệ thống
truyền tin thì hư hỏng, y tế thì què quặt, nhiên liệu và đạn dược thì thiếu
thốn, không được máy bay yểm trợ - lại phải đương đầu trước một địch quân hùng
hậu hỏa lực, đầy đủ tiếp liệu và tinh thần phấn khởi ? Tôi không tin như vậy.
Liệu miền Nam Việt Nam
có thể chiến thắng vào năm 1975 nếu chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho họ
một số lượng tương đương với số tiếp liệu mà khối Cộng Sản đổ vào Bắc Việt ?
Câu trả lời không ai biết được. Nhưng chắc chắn một điều là họ cũng có được cơ
hội chiến đấu bình đẳng, thế mà Hoa Kỳ đã phản bội tước đi cái cơ hội này của
họ. Chắc chắn họ đã có thể chiến đấu một cách hiệu quả hơn. Rồi dù có thua, họ
cũng thua một cách hào hùng trong một trận chiến để đời, và biết đâu đã chẳng
tạo được một cuộc kháng chiến thần thánh như A Phú Hãn.
Ví dù miền Nam Việt
Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người
Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực,
mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam
Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm.
Bây giờ đã quá trễ để
Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay
Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ
họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm
của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do.
Ngô Kỷ chuyển ngữ
|
||||
|
|
They were small, talked
in sing-song squeaks, put a smelly fish sauce on their food, and often held
hands with each other.
It is not surprising that American troops sent
to Southeast Asia -- mostly young, indifferently educated, and molded by a
society with too much self-esteem and too little understanding of other
cultures -- found it hard to empathize with South Vietnam's soldiers.
Still, it is a pity that many veterans of the
Vietnam War have joined radical agitators, draft dodgers and smoke-screen
politicians to besmirch the honor of an army that can no longer defend itself.
To slander an army that died in battle because America abandoned it is a
contemptible deed, unworthy of American soldiers.
Perhaps some find my assertion incredible. How
can I possibly defend the armed forces of South Vietnam? Everybody
"knows" they were incompetent, treacherous and cowardly, isn't that
so?
No, it is not. This article will outline some of
the more compelling evidence against this scurrilous mythology and also examine
why such a mythology arose to begin with.
Of course, the South Vietnamese forces were
imperfect. They had their share of bad leaders, cowardly troops, and incidents
of panic, blundering and brutality. So did the American forces in Southeast
Asia.
In some respects -- organization, logistics, staff
work and leadership -- South Vietnam's armed forces did lag behind U.S. forces.
But how could one expect otherwise in a developing nation that had just emerged
from colonialism and was suddenly plunged into a war to the death against a
powerful enemy supplied by the Communist bloc?
In fact, many of the weaknesses exhibited by the
South Vietnamese forces were identical to the ones displayed by the U.S. armed
forces during the American War of Independence, even though late 18th-century
America had several advantages: the whole scale of the Revolutionary War was
smaller and easier to manage; America's colonial experience, unlike Vietnam's,
had fostered local self-government and permitted the country to develop some
truly outstanding leaders; the British were less persistent than the North
Vietnamese; and the French allies did not abandon young America the way the
U.S. government abandoned South Vietnam.
But in any case, organization, logistics, staff
work and even leadership are not the qualities at issue in the slandering of
the South Vietnamese forces.
Two questions touch on the real issue. Were
South Vietnamese fighting men so lacking in character, courage, toughness and
patriotism that Americans are justified in slandering them and assigning them all
blame for the defeat of freedom in Southeast Asia? Were U.S. soldiers so much
better than their allies that Americans can afford to treat the South
Vietnamese with contempt? The answer to both questions, I submit, is a
resounding "No!"
The objective "big-picture" evidence
is clear The Tet Offensive of 1968 was supposed to crack South Vietnam's will
to resist. Instead, South Vietnamese forces fought ferociously and effectively:
no unit collapsed or ran. Even the police fought, turning their pistols against
heavily armed enemy regulars. Afterward the number of South Vietnamese
enlistments rose so high, according to reports at the time, that the country's
government suspended the draft call for a while.
In the 1972 Easter tide Offensive, isolated South
Vietnamese troops at An Loc held out against overwhelming enemy forces and
artillery/rocket fire for days, defeating repeated tank assaults. I later met a
U.S. adviser who described how a South Vietnamese infantry squad in his area
was sent to destroy three enemy tanks. The members of the squad dutifully
destroyed one tank, then decided to capture the other two. As I remember, they
got one, but the other made its escape, with the South Vietnamese chasing it
down a road on foot. The soldiers got chewed out upon returning...for letting
one tank get away. The squad's performance may not be the best demonstration of
military discipline, but the incident demonstrates the high morale and
initiative that many South Vietnamese soldiers possessed. Certainly it does not
support charges of cowardice.
As further evidence, consider South Vietnam's
final moments as an independent nation in 1975, when justifiable despair
gripped the country because it became clear that the United States would
provide no help (not even fuel and ammunition). Yet one division-sized South
Vietnamese unit held off four North Vietnamese divisions for some two weeks in
fierce fighting at Xuan Loc. By all accounts, that battle was as heroic as
anything in the annals of U.S. military history. The South Vietnamese finally
had to withdraw when their air force ran out of cluster bombs for supporting
the ground troops.
Once I saw a television documentary about an
Australian cameraman who had covered the war. Unlike U.S. reporters, he spent
much of his time with the South Vietnamese forces. He attested to their
fighting spirit and showed film footage to prove it. He also recalled visiting
an enemy-controlled village and being told that the Communists feared South
Vietnamese troops more than Americans. The principal reason was that Americans
were noisy, so the enemy always heard them coming. But that would have been
immaterial if the South Vietnamese had not also been dangerous fighters.
However, the most important evidence of South
Vietnamese soldiers' willingness to fight comes from two simple, undeniable,
"big-picture" facts -- facts that are often ignored or disguised to
cover up American failure in Vietnam.
Fact One: The war began some seven years before
major American combat forces arrived and continued for some five years after
the U.S. began withdrawing. Somebody was doing the fighting, and that somebody
was the South Vietnamese.
Fact Two: The South Vietnamese armed forces lost
about a quarter-million dead. In proportion to population, that was equivalent
to some 2 million American dead (double the actual U.S. losses in all wars
combined). You don't suffer that way if you're not fighting.
How, then, did the South Vietnamese get their
bad reputation?
Certainly there were occasional displays of
incompetence and panic by South Vietnamese forces. The same can be said of U.S.
forces. I knew an American artillery commander whose gunners once had to defend
their firebase by firing canister point-bank into enemy ranks because the U.S.
infantry company "protecting" them had broken in the face of the
enemy assault and was huddling, panic-stricken, in the midst of the guns.
That incident does not mean the whole U.S. Army
was cowardly, and occasional breakdowns among America's allies did not mean all
South Vietnamese soldiers were cowards. Yet one would think so, the way the
story gets told by some veterans -- and by the political apologists for a U.S.
government that left South Vietnam in the lurch.
The truth of the matter was best stated nearly
two centuries ago when a British woman asked the Duke of Wellington if British
soldiers were ever known to run in battle. "Madam," replied the Iron
Duke, "All soldiers run in battle."
Even a cursory study of military history
confirms this. Civil War battles reveal a continuous ebb and flow of bravery
and fear, as Confederate and Union units alike first attacked bravely, then
crumbled and fled under horrendous fire, before regrouping and charging again.
No armies ever laid more justified claim to sheer self-sacrificing heroism than
those two, yet they were subject to panic as a routine price for doing bloody
business on the battlefield.
Author S.L.A. Marshall describes how one
American rifle company in World War II fled in panic from a screaming Japanese
banzai charge: a second unit fought on, quickly killing every Japanese soldier
involved (about 10), and discovered that most of them were not even
armed.
If the same thing had happened to a South
Vietnamese unit, it undoubtedly would have been cited repeatedly by
self-appointed pundits as incontrovertible proof of the cowardice of all South
Vietnamese troops.
Why? We've already hinted at the answer. It all
depends on the color and native tongue of the troops involved. The ugly truth
is that the South Vietnamese forces' false reputation is rooted in American
racism and cultural chauvinism.
I can personally attest to the pervading, massive
and truth-distorting reality of the phenomenon. When I arrived in Vietnam in
June 1969, I immediately began to witness continuous displays of ignorance and
contempt by some Americans toward the Vietnamese people and their armed
forces.
White troops, black troops, and civilian
Americans such as journalists -- all were equally afflicted. This passionate
hatred of Vietnam and its people had an astonishing power to become
contagious.
I knew an American captain with a graduate
degree from a prestigious university in cinematography (presumably a specialty
that improves visual perceptiveness). He once returned from temporary duty in
Thailand singing the praises of the Thai.
"They send their kids to school," he
said, contrasting them with the South Vietnamese. He was surprised, but not
repentant, when I pointed out that there was a Vietnamese school right next
door to our compound! Hundreds of little kids in bright blue-and-white school
uniforms could be seen there daily -- by anyone whose eyes were open. But this
filmmaker apparently could not see them.
It is ironic that the Vietnamese -- who by
reputation honor learning more than Americans do and who raised South Vietnam's
literacy rate from about 20 percent to 80 percent even as war raged around them
(and despite the enemy's habit of murdering teachers) -- were accused by the
filmmaker of having no schools.
Because he was fighting in a foreign country and
was separated from his family, this American had built up a hatred for Vietnam,
and he wanted to believe the Vietnamese people were contemptible. Therefore, it
was important to him to believe that they had no schools; and his emotions
literally interdicted his optic nerves.
Imagine the feelings of the undereducated masses
of American troops faced with a strange culture in a high-stress environment!
Perhaps one cannot blame the troops for their ignorance. Heaven knows the U.S.
command made only the most perfunctory effort to educate them about Vietnam and
the nature of the war.
However, that is no excuse for veterans to
pretend that they understand what they saw in Vietnam. America's Vietnam
veterans must be honored for their courage, sacrifice and loyalty to their
country. But courage and sacrifice are not the same as knowledge. Fighting in
Vietnam didn't make soldiers into experts on the country or the war, any more
than having a baby makes a woman an expert on embryology
What most U.S. soldiers did there taught them
little or nothing about South Vietnam's culture, society, politics, etc Few
Americans spoke more than a half-dozen words of Vietnamese; even fewer read
Vietnamese books and newspapers; and not many more read books about Vietnam in
English.
Except for advisers, few Americans worked with
any Vietnamese other than (perhaps) the clerks, laundresses and waitresses
employed by U.S. forces.
Most important for our purpose, few U.S. troops
ever observed South Vietnamese forces in combat. Even the ones who did rarely
considered the attitude differences that must have existed between soldiers
like the Americans, who only had to get through one year and knew their
families were safe at home, and troops like the South Vietnamese, who had to
worry about their families' safety every day and who knew that only death or
grievous wounds would release them from the army. The Vietnamese naturally used
a different measuring stick to determine what was important in fighting the war.
Journalists were no better. Consider a biased TV
report I heard in which a reporter denounced South Vietnam's air force because
-- despite Vietnamization -- it "let the Americans" fly the tough
missions against North Vietnam.
In fact, it was the United States that would not
let the South Vietnamese fly into North Vietnam (except for a few missions in
the early days of the bombing). The American leaders wanted to control the
bombing so that the United States could use it as a negotiating tool.
Not wanting the South Vietnamese to have any
control over bombing policy, the U.S. forces deliberately gave them equipment
unsuited for missions up North. South Vietnam did not get the fighter-bombers,
weapons, refueling aircraft or electronic-warfare equipment necessary for such
missions. It was an American decision.
The TV reporter in question either was ignorant
of that fact or chose to ignore it in order to do a hatchet job on the American
allies. Considering his blatantly biased words and tone of voice, I concluded
that any ignorance he suffered from was deliberate.
Another example of media bias came during the
Khe Sanh siege. If you asked a thousand Americans which units fought at Khe
Sanh, most of those who had heard of the battle would probably know that U.S
Marines did. But it would be surprising if more than one out of the thousand
knew that a South Vietnamese Ranger battalion had shared the rigors of the
siege with American Marines. Other South Vietnamese units took part in
supporting operations outside the besieged area. The U.S. media just did not
consider the American allies worthy of coverage unless they were doing
something shameful, so these hard-fighting soldiers became quite literally the
invisible heroes of Khe Sanh.
All this -- soldier and media bias -- came
together clearly during news reports of the 1972 incursion into Laos.
Consider a TV documentary a decade ago. It
included film of some American GIs being interviewed during the Laotian
fighting. These guys, themselves safely inside South Vietnam, were
"explaining" the South Vietnamese army's struggle in contemptuous,
racist remarks. The reporter then suggested that these American GIs understood
the situation better than the American generals.
The incursion, of course, is the source of the
infamous photo of a South Vietnamese soldier escaping from Laos by clinging to
a helicopter skid. This image was and is held up to Americans again and again
as "proof" of South Vietnamese unworthiness.
In fact, it is a classic example of
photography's power to lie. What happened was this: The South Vietnamese were
struck by overwhelming Communist forces. The U.S. military failed to provide
the support that had been promised because enemy anti-aircraft fire was too
strong. There were reports of U.S. helicopter crews kicking boxes of howitzer
ammunition out the doors from 5,000 feet up, hoping the stuff would land inside
South Vietnamese perimeters. The helicopters simply couldn't get any
closer.
Given that context, consider the way Colonel
Robert Molinelli, an American officer who witnessed the action, described it in
the Armed Forces Journal of April 19, 1971: "A South Vietnamese battalion
of 420 men was surrounded by an enemy regiment of 2,500-3,300 men for three
days. The U.S. could not get supplies to the unit. It fought till it ran low on
ammunition, then battled its way out of the encirclement using captured enemy
weapons and ammunition. It carried all of its wounded and some of its dead with
it. Reconnaissance photos showed 637 visible enemy dead around its
position.
The unit was down to 253 effectives when it
reached another South Vietnamese perimeter. Some 17 of those men did panic and
rode helicopter skids to escape. The rest did not.
Now, some might consider dangling from a
high-flying, fast-moving helicopter for many miles, subject to anti-aircraft
fire, to be a pretty gutsy move. But, aside from that, how can such an isolated
incident -- during a hard-fought withdrawal-while-in-contact (universally
acknowledged to be just about the toughest maneuver in the military inventory)
-- be inflated into condemnation of an entire army, nation and
population?
The answer is racism. The guys hanging from the
helicopter skids were funny-looking foreigners. If they had been Americans, or
even British, the reaction undoubtedly would have been one of compassion for
the ordeal they had been through.
Evidence for this is found in how Americans
responded to the British retreats early in World War II.
There were some disgraceful displays among
British forces at Dunkirk and elsewhere. At Dunkirk a sergeant in one
evacuation boat had to aim a submachine gun at his panicky charges to keep
order on board. On another boat soldiers had to pummel an officer with their
weapons to keep him from climbing over the gunwale and swamping the boat. In
Crete, a New Zealand brigade had to ring its assigned embarkation beach with a cordon
of bayonets to keep fear-stricken English troops from swarming over the
boats.
Yet the image of Britain's lonely stand against
Hitler in 1940 is one of heroism. That's perfectly justified by the facts, and
isolated incidents like the ones described above should not detract from the
overall picture of courage and devotion.
It is certainly true that South Vietnamese
forces gave an undistinguished performance in the final days, with the
exception of the incredibly heroic defense of Xuan Loc.
Yet there are reasons for that. And there are
reasons to believe that, with more loyal support from the Americans, the South
Vietnamese could have turned in more Xuan Loc-style performances and perhaps
even have saved their country.
The real issue again is not just how the South
Vietnamese performed, however; it is how their performance compared with the
way Americans might have performed under similar circumstances.
And the truth is that American troops -- if they
were abandoned by the U.S. the way South Vietnamese were -- probably would
perform no better than the South Vietnamese did.
Remember: the United States had cut aid to South
Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a
result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam.
South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare
parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their
medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were
rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the
war
The situation was so bad that even the North
Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung,
admitted his enemy's mobility and firepower had been cut in half. Aside from
the direct physical effect, we must take into account the impact this
impoverishment had on South Vietnamese soldiers' morale.
Into this miserable state of affairs the North
Vietnamese slashed, with a well-equipped, well-supplied
tank-and-motorized-infantry blitzkrieg.
Yes, the South Vietnamese folded. Yes, they
abandoned some equipment (much of which would not work anyway for lack of spare
parts) and some ammunition (which they had hoarded until it was too late to
shoot it or move it, because they knew they would never get any more). So whose
fault was that? Theirs... or America's?
Yes, South Vietnam's withdrawal from the
vulnerable northern provinces was belated and clumsy, leading to panic and
collapse. But how could the South Vietnamese government have abandoned its
people any earlier, before the enemy literally forced it to?
For a while the South Vietnamese hoped the
American B-52s would return and help stem the Communist tide. When it became
clear they would not, understandable demoralization set in.
The fighting spirit of the forces was sapped,
and many South Vietnamese soldiers deserted -- not because they were cowards or
were not willing to fight for their country, but because they were unwilling to
die for a lost cause when their families desperately needed them.
Would Americans do any better under the
conditions that faced the South Vietnamese in 1975? Would U.S. units fight well
with broken vehicles and communications, a crippled medical system, inadequate
fuel and ammunition, and little or no air support -- against a powerful,
well-supplied and confident foe? I doubt it
Would the South Vietnamese have won in 1975 if
the U.S. government had kept up its side of the bargain and continued matching
the aid poured into North Vietnamese by the Communists?
The answer is unknowable. Certainly they would
have had a fighting chance, something the U.S. betrayal denied them. Certainly
they could have fought more effectively. Even if defeated, they might have gone
down heroically in a fight that could have formed the basis for a
nation-building legend and for continued resistance against Communism on the
Afghan model.
Even if the South Vietnamese had been totally
defeated, wholehearted U.S. support would have enabled Americans to shrug and
say they had done their best. However, the U.S. did not do its best, and for
Americans to try to disguise that fact by slandering the memory of South
Vietnam and its army is wrong.
It is too late now for Americans to make good
the terrible crime committed in abandoning the South Vietnamese people to
Communism. But it is not too late to acknowledge the error of American insults
to their memory. It is not too late to begin paying proper honor to their
achievements and their heroic attempt to defend their liberty.
Harry F. Noyes III (BA, University of the South; MA,
University of Hawaii) served four years of active duty in the Air Force after
his ROTC commissioning in 1967. He was an information officer at Norton AFB,
California, and Yokota AB, Japan, and a film researcher/scenarist at Tan Son
Nhut AB, South Vietnam. Presently a civilian public affairs specialist at
Headquarters US Army Health Services Command, Fort Sam Houston, Texas, he has
been editor of the joint Army-Air Force Wiesbaden Post, Wiesbaden
Military Community, West Germany, and a reporter covering military affairs at
Fort Head, Texas, for the Killeen Daily Herald. He has written
articles for a variety of publications.
Hình Lính Việt Nam Cộng Hòa Chiến Đấu:
Mời bấm vào Link dưới xem hình, khi bấm vào mỗi hình thì bên trái
có nổi lên khung VIEW MORE, bấm vào khung VIEW MORE sẽ hiện thêm ra trang hình
khác nữa. Rất nhiều hình để xem.
YOUTUBE:
Ngày Còn Chinh Chiến
by TheLPSLIDESHOWS
Việt Nam Cộng Hòa 63-75
Vùng 1 Chiến Thuật:
Vùng 2 Chiến Thuật (Cao Nguyên):
Vùng 2 Chiến Thuật (Duyên Hải):
Vùng 3 Chiến Thuật:
Vùng 4 Chiến Thuật:
Lễ Duyệt Binh Kỷ Niệm Ngày QLVNCH 19-6 tại Thủ
Đô Sài Gòn
Ngày Quân lực Việt Nam Cộng
hòa 19-6-1971, 19-6-1973
https://www.youtube.com/watch?
v=1x8qpFy_abs
YOUTUBE: Mời Quý Vị bấm vào những
links dưới đây
để xem hình ảnh kiêu hùng
của những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà:
Chiến sĩ QLVNCH-1 *** Chiến sĩ QLVNCH-2 Chiến sĩ QLVNCH-3 *** Chiến sĩ QLVNCH-4 Chiến sĩ QLVNCH-5 *** Chiến sĩ QLVNCH-6 Chiến sĩ QLVNCH-7 *** Chiến sĩ QLVNCH-8 Chiến sỉ QLVNCH-9 *** Chiến sĩ QLVNCH-10
Chú thích các hình dưới:
Vào năm 2000 Ngô Kỷ và quý anh Cựu
Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa lái xe hơi đi vòng quanh nước Mỹ từ California
tới Hoa Thịnh Đốn, xuyên qua nhiều tiểu bang, mang theo 3 bức tượng Chiến
Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Nữ Cứu Thương do Ngô Kỷ thực hiện một cách
gọn nhẹ, được trưng
bày tại các nơi đông người, quan trọng khắp tiểu bang lớn như California, New
York, Chicago, Philadelphia, Hoa Thịnh Đốn, trước Tòa Bạch Ốc v.v…nhằm vinh
danh sự chiến đấu anh dũng hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh
Hoa Kỳ trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản bảo vệ tự do cho miền Nam
Việt Nam trước 1975.
Sự đóng góp nho nhỏ này của Ngô Kỷ
giúp cho nhân dân Mỹ hiểu rõ thêm về sự thật về cuộc chiến chính nghĩa của
Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam, và nhận thức rõ về sự chiến đấu cao cả
của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
San Jose, Bắc California
Ngô Kỷ chở 3 bức tượng này đi vòng quanh nước Mỹ. Hình
chụp tại Philadelphia, Pennsylvania
Du khách chụp hình lưu niệm tại Philadelphia, Pennsylvania
Đài truyền hình nổi tiếng Hoa Kỳ FOX NEWS quay phim, phỏng
vấn Ngô Kỷ tại Philadelphia, Pennsylvania
|
__._,_.___
Posted
by: KY ngo <ngokyusa2@yahoo.com>