On Wednesday, 16 April 2014 3:26 AM, Nhat Lung <> wrote:
TƯỚNG
LÊ VĂN HƯNG VÀ
CHIẾN
TRƯỜNG AN LỘC TRONG
MÙA HÈ 1972
****
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Liên Khúc Quân Hành Việt
Nam Cộng Hòa
~~~~~~~~~~
Hinh Viêt Nam 1975 do phóng
viên nước ngoài chụp
(Hình được chuyển tự động - Xin đừng click)
1.
QUÂN ĐOÀN III & VÙNG 3 CHIẾN THUẬT VỚI
TƯỚNG
ĐỖ CAO TRÍ VÀ TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH
VIDEO
CLIP
Trung tướng Nguyễn văn
Minh nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến
Thuật (QĐIII & V3CT) sau khi vị tướng lãnh lỗi lạc nhất của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) Trung tướng Đỗ Cao Trí, tử nạn trực
thăng trên không phận tỉnh lỵ Tây Ninh vào ngày 23 tháng 2, năm 1971.
Trước đó ở cả
bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH đã mở những cuộc hành quân sâu vào căn
cứ địa của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) dọc theo biên giới
Việt-Miên-Lào và truy diệt chúng xa hơn vào lãnh thổ Miên và Lào.
(Về lý do vì sao QLVNCH tổ chức các cuộc hành quân vượt biên sang Cao
Miên và Lào, sẽ trình bày trong một dịp khác, hoặc xin mời đọc The
Tragedy of The Vietnam War của tôi, ở tiểu mục A Controversal Escalation of
the War in Indochina, do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ trang 135
đến 141).
Lực
lượng hành quân QĐ III & V3CT của Tướng Đỗ Cao Trí đạt
thành quả lớn lao nhất. Từ tháng 4, 1970, đã đánh bạt Sư đoàn Công
trường 7 CSBV (SĐ-7/CSBV) và Sư đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của TWC/MN
(SĐ-9/CS) ra khỏi các căn cứ địa quan trọng Lưỡi Câu, ở biên giới tây
bắc Bình Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây nam Tây Ninh, đồng thời phá
tan các căn cứ hậu cần lớn, nhỏ, của Trung Ương Cục Miền Nam (TWC/MN)
cơ quan chính trị và quân sự đầu não của CSBV ở Nam Việt Nam; hạ
hơn 11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200 tù binh và thu hoặc phá
hủy hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược, trang bị và hậu cần của
chúng. Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản của TWC/MN (SĐ-5/CS) lúc đó đã
rút sang Cao Miên hoạt động bên ngoài biên giới Kiến Phong và đang là
mục tiêu của QĐIV & V4CT.
Ở mặt
trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7, các chiến đoàn QĐIII & V3CT vượt
qua các đồn điền cao-su Mimot, Krek và Chup, đến tận Tonle-Bet đông ngạn
Sông Mékong ngang thành phố Kampong-Cham -nơi trú đóng Bộ Tham Mưu Quân
Khu I của Tướng Fan Muong thuộc Quân lực Quốc gia Cao Miên (Forces Armées
Nationales Khmères -FANK). Ở mặt trận phía nam, trên Liên Quốc
lộ 1, các chiến đoàn khác của Tướng Trí cũng tiến đến bên ngoài
thành phố Sway-Riêng yểm trợ cho các đơn vị của Đại tá Dap Duon, Tỉnh
trưởng của tỉnh phía đông Cao Miên này, giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt
Nam.
Suốt
trong gần một năm hiện diện trên lãnh thổ Miên, QLVNCH đã liên lạc với
chính quyền quân sự Cao Miên, đưa khoảng trên dưới vài chục nghìn đồng
bào Việt Nam ở đó trở về nước.
Chính Tướng Đỗ Cao Trí
đã làm việc này. Nỗi bận tâm của Trung tướng trong các
cuộc Hành quân Toàn Thắng trên lãnh thổ Miên không chỉ nhằm tiêu diệt
lực lượng CSBV và các căn cứ hậu cần quan trọng của chúng ở biên
giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho lực lượng quân đội non yếu của
Tướng Lon Nol (Ông này là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miên, vừa làm
cuộc đảo chính lật đổ Norodom Sihanouk trong tháng 3, 1970, khi Sihanouk
công du nước ngoài) nhưng còn để giải thoát hàng chục nghìn Việt
kiều bị chính quyền địa phương của chính phủ Lon Nol nghi ngờ là
Việt Cộng, bắt giam giữ. Trung tuần tháng 4, 1970, tôi được Trung tướng
Trí cử sang làm Sĩ quan Liên lạc ở Tỉnh Sway-Riêng thay thế Đại tá Lê
Đạt Công lúc đó là Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT.
Tôi nhận rõ chỉ
thị và hiểu rõ mối quan tâm của Trung tướng Trí về vấn đề Viêt kiều
ở Miên. Vì vậy, khi biết nhu cầu cần được yểm trợ của Đại tá Đap
Duon, Tỉnh trưởng Sway-Riêng, và sau khi thoả mãn được vài điều khá
quan trọng, việc đầu tiên của tôi là yêu cầu Đại tá Đap Duon đưa đến
thăm viếng số đồng bào chừng hai nghìn người bị chính quyền Miên tập
trung giam giữ ở Trường Tiểu học tỉnh lỵ. Trước cổng Trường này, tôi
hứa với đại diện Việt kiều nạn nhân ở đó là sẽ trình nguyện
vọng muốn về nước của đồng bào lên Tướng Trí, Tư lệnh QĐIII &
V3CT. Tôi đã làm như đã hứa.
Trong
tháng 5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ thác sang Kompong-Cham làm Sĩ quan
Liên lạc ở Bộ Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng Fan Muong, với một
toán trên mười sĩ quan, hạ sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Truyền tin của
QĐIII & V3CT. Ở Komgpong-Cham, tôi cũng yều cầu Trung tá Ly Tai Sun,
Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất định phải đưa tôi đi xem nơi đồng bào
Việt Nam bị họ bắt giam giữ.
Hơn vài nghìn Việt
kiều, kể cả đàn bà và trẻ con, chen chúc dưới các đường
giao thông hào khá sâu và rộng --mà người Pháp gọi là tranchées--
trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn của Bộ Tư lệnh Quân Khu trong thành
phố. Việc nầy chỉ diễn ra vào buổi sáng sau khi tôi đã yêu cầu Tướng
Trí cho Không Quân Việt Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư lệnh Quân Khu I,
bị Tiểu Đoàn J-16 Đặc công và các đơn vị chính qui của CSVN tấn công
và bao vây từ đêm trước.
Khi chỉ vào nhóm Viêt kiều bị giam giữ dưới
các giao thông hào đó, Ly Tai Sun nói với tôi bằng tiếng Việt: -Nếu
hôm nay Ông không gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi, thì số người
nầy sẽ bị bắn hết. Đó là nguyên văn câu nói của tên Trung tá nầy.
Từ ngày toán Liên lạc của chúng tôi đến Kompong-Cham, tôi tiếp xúc
với Thiếu tá John Fernandez Tham Mưu trưởng, Ly Tai Sun Tư lệnh phó và
Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng tiếng Pháp, vì tôi không biết tiếng Miên,
tôi chưa hề nghe các Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng Việt nào.
Đột
nhiên nghe Ly Tai Sun bật lên câu nói ghê tởm đó, tôi nói với hắn, Thì
ra Ông là người Việt Nam, họ Lý. Ông nói vậy có nghĩa là các Ông sẽ
giết hết số Việt kiều nầy và cả toán Liên lạc của chúng tôi, đúng không?
Hắn cười. Tôi nói tiếp: Chắc là Ông chưa lường được hậu quả lớn lao
sau nầy. Lý Tài Sun, hay Lý Đại Sơn -tên thật của Sun- không nói gì
thêm. Tức tốc, tôi vào gặp Tướng Fan Muong nói việc Ly Tai Sun và tôi
gửi mật điện trình mọi việc với Tướng Trí. Ngay buổi trưa đó, Trung
tướng cho trực thăng, kèm theo quân Dù, đón toán Liên lạc chúng tôi về
Biên Hòa.
Có lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin lỗi Trung tướng Trí.
Dĩ nhiên vấn đề chính phải là chuyện giải quyết số phận của hàng
chục ngàn Việt kiều bị chính quyền Miên giam giữ từ mấy tháng
trước đó khi quân CSBV phối hợp với các đơn vị Cộng sản Miên tấn công
các thành phố Miên và tạo vòng đai bao vây Thủ đô Phnom Penh của Chính
quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu tá Nguyễn văn Lý của Phòng 2 QĐIII
và một toán Liên lạc khác được đưa trở lại Kompong-Cham. Không lâu sau
đó Đại tá Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lý.
Trong tháng 5 đó, vấn đề nội bộ ở cấp
cao giữa Trung tướng Đỗ Cao Trí và Tổng thống Nguyễn văn Thiệu hay
Chính phủ VNCH, hay vấn đề ngoại giao giữa Viêt Nam và Cao Miên diễn ra
thế nào tôi không ̣được biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ, của
QĐIII và QĐIV đã diễn ra, đón đưa nhiều chục nghìn Việt kiều ở Miên về
nước trong các tháng 5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi tiếp tục
phục vụ ở Phòng 2 QĐIII & V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công, khi
ở Biên hòa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây ninh, luân phiên thay thế ông về
tình báo chiến trường cho đến ngày Trung Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn.
Từ ngày Trung tướng
Nguyễn văn Minh về thay thế nắm quyền Tư lệnh, nhất là sau tang lễ trọng
thể của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, tình hình ngoại biên và trong nội địa
Quân đoàn III & V3CT có nhiều thay đổi lớn vì hai lý do:
Thứ nhất: CSBV tăng cường đáng kể
lực lượng của họ ở các mặt trận Lào và Miên với những cuộc
phản công dữ dội ở Tchépone và suốt dọc Đường 9 đến biên giới Khe Sanh,
cũng như các cuộc phản công ở Đường 7, từ các đồn điền cao su Chup,
Mimot đến biên giới Việt-Miên, vùng Lưỡi Câu và Mõ Vẹt. Chiến đoàn 8
của Sư đoàn 5 Bộ binh (SĐ5BB) cũng tổn thất nặng và rút khỏi Thị trấn
Snoul của Miên trong cuối tháng 5, 1971. Địa điểm duy nhất của
Quân đoàn III còn duy trì trên lãnh thổ Miên là căn cứ hỗn hợp
Việt-Mỹ ở Thị trấn Krek, giao điểm giữa đường 7 và đường 22 đổ vào nội
địa tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km.
Thứ hai: Trung
tướng Nguyễn văn Minh tánh người ôn nhu, chuộng phòng thủ hơn tấn công.
Ông không phải là một hổ tướng như Đại tướng Trí, nhưng là một
túc tướng (tôi sẽ trình bài ở phần sau). Hơn nữa, cục diện chiến
trường đã thay đổi sau cuộc Hành quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng Minh
lâm vào tình trạng bất cập, khó khăn trong vấn đề chỉ huy.
Ông xuất
thân Khóa IV Trường Võ bị Liên quân Dalat, trong khi hai vị tư lệnh sư
đoàn dưới quyền đều thuộc khóa đàn anh. Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu,
Tư lệnh SĐ5BB và Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Tư lệnh SĐ18BB,
cùng xuất thân Khóa III. Sau trận rút lui khỏi Snoul của Chiến
đoàn 8, SĐ5BB, Tướng Hiếu được trao phó trọng trách khác. Đại tá Lê
văn Hưng, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ, được Tướng Minh đề
nghị thay thế Tướng Hiếu làm Tư lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau, Tướng Lâm Quang
Thơ cũng được Đại tá Lê Minh Đảo thay thế.
Tuần
lễ đầu tháng 6, 1971, tôi được lệnh thuyết trình tình hình các đại
đơn vị địch trong lãnh thổ và ngoại biên -mà QĐIII & V3CT phải
đương đầu- cho Đại tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh SĐ5BB. Nội dung bài
thuyết trình không khác gì nhiều so với nhưng gì tôi viết trên đây. Dĩ
nhiên là không có phần nói về các vị Tướng Tư lệnh Trí, Minh, Hiếu
và Thơ. Tôi nóí về tình hình của các đại đơn vị CSBV và TWC/MN đang
hoạt động ở biên giới Việt Miên sau khi QLVNCH rút ra gần hết khỏi
lãnh thổ Miên, chỉ còn duy trì cứ điểm cuối cùng ở Krek.
Tôi trình
bày rõ về qui luật tác chiến, quân số, trang bị, vùng hoạt động của
từng đại đơn vị CSBV & TWC/MN theo trận liệt và tin tức mới nhất mà
chúng tôi có được. Sau cùng là phần ước tính về hoạt động của các
đại đơn vị nầy và chủ trương của TWC/MN trong thời gian tới. Tôi cho
rằng nên giải tỏa áp lực địch có khuynh hướng tập trung để dứt điểm
căn cứ Krek vì lúc đó chúng tôi ghi nhận TWC/MN đang hiện diện trong
vùng Snoul, và các căn cứ hậu cần của chúng đang hoạt động trở lại
ở vùng biên giới Bình Long và Tây Ninh.
Đây là bài thuyết trình
thường lệ ở cấp Vùng Chiết Thuật (là cấp Quân Khu cũ) về tình hình
địch. Hình như Đại tá Hưng nghe rất rõ, không hỏi một câu nào. Ngược
lại, khi bài thuyết trình vừa chấm dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung
tướng Minh, và nói: -Thưa Trung tướng, Dưỡng là bạn cùng Khóa, cùng
Trung đội với tôi. Sau đó, ông đứng lên và bước thẳng đến bục thuyết
trình bắt tay, ôm lấy tôi. Đó là dấu hiệu thân thiện đầu tiên khi
gặp lại sau hơn 15 năm kể từ khi tốt nghiệp và rời Quân trường Thủ
Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra trường, chúng tôi đều mang cấp bậc
Thiếu uý. Ở buổi thuyết trình nầy, tôi chỉ là một Thiếu tá, nhân
viên của một Phòng 2 Quân đoàn, còn ông là Đại tá, một tân Tư lệnh
của một sư đoàn. Địa vị trong quân đội cách xa nhau nhiều lắm!
2. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TÔI
Tổng số Sinh viên Sĩ
quan Khóa V, Vì Dân, trên 1,300 người, kể cả hai đại đội bộ binh gửi thụ
huấn ở Liên trường Võ bị Liên Quân Dalat. Đại đa số SVSQ được gọi nhâp ngũ
và đưa đến Trường SQTB Thủ Đức trong tháng 5, năm 1954. Ông Hưng và tôi
được xếp vào Trung đội 8 của Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu, thuộc Đại đội 2
Bộ binh, cùng ở chung phòng hỗn hợp (salle mixe) với Trung đội 7 của Trung
uý Lê văn Sỹ. Ở phòng chung nầy, Trung đội 7 có 12 sinh viên và Trung đội
8 cũng có một số sinh viên như vậy. Còn phòng chính của mỗi Trung đội
gồm 24 sinh viên nằm kế cận hai bên phòng mixe nầy.
Khóa nầy, tại Thủ
Đức có hai đại đội bộ binh và sáu đại đội chuyên ngành như Pháo binh,
Trọng pháo, Thiết giáp, Công binh, Truyền tin, Hành Chánh Quân Nhu v.v...
Đại đội I Bộ binh gồm các Trung đội 1, 2, 3 và 4; Đại đội II Bộ
binh gồm các Trung đội 5, 6, 7 và 8. Trung đội 8 của chúng tôi có 36 sinh
viên, mà ngày nay tôi còn nhớ tên trên hơn ba mươi bạn. Trung đội 8, Đại
đội II Bộ binh của Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu có thể là Trung đội SVSQ tạo
được hai kỳ tích là đã cho ra trường một Thủ khoa và một sĩ quan sau
đó trở thành Tướng lãnh duy nhất cho toàn khoá, danh tiếng lẫy
lừng.
Vị tướng lãnh này là Lê văn Hưng, người Quận Hóc Môn, Tỉnh Gia
Định. Ông là một trong 5 vị Tướng tuẫn tiết ngày 30, tháng 4 đen, năm
1975. SVSQ Lê văn Hưng lúc đó thỉnh thoảng đôi mắt thoáng nháy nhẹ
một lần như khi đã làm tướng. Thường ngày, lúc nghỉ ngơi trong phòng,
Hưng thường mặc chiếc sa-rong của người Miên, màu đỏ sọc xanh đen, ở trần
không mặc áo, cổ đeo một giây chuyền vàng mang một nanh heo rừng nhỏ.
Hưng
rất ít nói, nhưng dễ mến vì lúc nào gặp ai cũng cười; nụ cười dễ gây
thiện cảm và theo tôi nghĩ, dễ làm xiêu lòng các người đẹp. Nước da
ngâm, nhưng cao lớn và đẹp trai theo lối một người hùng hơn là một thư
sinh. Lúc đó anh đã lập gia đình. Khi gần hết giai đoạn I, nhất là sau
khi đã được mang Alpha --biểu trưng của SVSQ-- cứ mỗi hai tuần sinh viên
được đi phép 24 giờ về thăm gia đình. Như vậy mỗi trung đội 36 sinh viên,
thì một nửa đi phép, một nửa khác lưu trại. Tôi thuộc toán được đi phép
hay lưu trại chung với anh Hưng.
Trong
đời, đôi khi ta gặp những hoàn cảnh chạnh lòng. Khi bước chân vào Quân
trường Thủ Đức tôi đã mang nỗi buồn riêng, tủi cho thân phận mình. Không
biết nói cùng ai. Lúc đó tôi là một cậu học trò, độc thân, gia đình
nghèo.Tôi nhập trường vào tháng 5, đến tháng 7, 1954, sau Hiệp định
Genève, đất nước chia đôi. Thị trấn Càmau nhỏ bé thân thương của tôi
biến thành nơi tập trung của các lực lượng vũ trang bộ đội và du
kích Việt Minh trong nhiều tháng, trước khi họ tập kết ra miền Bắc.
Cha và anh tôi là tiểu công chức phải rời Càmau lên tỉnh lỵ Bạc liêu
làm việc; gia đình ăn ở tạm bợ, nghèo khó.
Với số lương tháng ít oi
của một SVSQ tôi phải gởi bớt về giúp thêm cho cha mẹ, đứa em gái
còn đi học, người chị quả phụ và hai đứa cháu cô nhi. Ngày thường,
nhất là khi tập ở ngoài bãi, tôi lấy thêm phần ăn sáng mà các bạn
cùng bàn không đến ăn, thường là bánh mì với mấy thỏi chocolate hoặc
fromage đầu bò --ở Nhà Ăn Sinh viên-- mang theo để ăn trong buổi giải
lao, trong khi các bạn sinh viên khác bao quanh các gánh bán thức ăn hàng
rong ở các bãi tập đó.
Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi thường mang về
một ga-men (gamelle) cơm trắng để đến tối trong khi các bạn đi ăn uống
ở các Câu lạc bộ Sinh viên hay ở những gánh hàng rong đủ loại thức
ăn mà vợ con binh sĩ ở trại gia binh mang đến tận hành lang ngoài
phòng ngủ của sinh viên, tôi lặng lẽ đem phần cơm đó và một chai xi
dầu, ra ngồi ở bậc xi-măng đầu chiếc cống xây trên lạchnước gần dãy
trại của Đại đội chảy ra bãi tập thể dục quân sự, ăn dưới ánh
trăng, hay trong bóng tối bao quanh.
Tôi đã nuốt những hạt cơm nguội
lạnh đó trong nhiều đêm cùng với nỗi tủi thân của mình. Rồi một đêm
nào đó, tôi không nhớ rõ, Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu, Trung đội trưởng
của tôi, trong buổi trực đêm của ông, bắt gặp tôi đang ngồi ăn cơm đêm
trong bóng tối như vậy. Khi ông rọi đèn pile thấy rõ ga-men cơm đang ăn
dang dở và chai xi-dầu, trong khi tôi đứng thẳng ở tư thế nghiêm của
một sinh viên trước thượng cấp của mình. Ông không nói gì, để tôi
đứng đó và đi vào dãy phòng ngủ của Đại đội.
Tôi âm thầm trở về
phòng với nỗi lo sợ lớn lao trong lòng. Tôi sợ mình đã vi phạm một
lỗi lầm quân kỷ nào đó của Trường. Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận
phần phạt. Nhưng không, ngược lại, tôi nhận được tờ giấy bạc 100
Đồng, một số tiền khá nhiều lúc đó, xếp giữa hai trang giấy trong
tập bài học của tôi sau khi Thầy khám duyệt và hoàn trả các tập vở
đó lại cho các sinh viên Trung đội. Thầy đã kín đáo cho tôi tiền như
đã hiểu rõ hoàn cảnh của tôi.
Đã gần sáu mươi năm rồi, tôi mang ơn
Thầy Chiêu đã đào tạo tôi trở thành một sĩ quan QLVNCH và về đức độ
và lòng nhân hậu của Thầy. Tôi không mong trả được ơn Thầy trong cuộc
đời nầy vì tôi biết không có gì quí giá xứng với tấm lòng bao dong
rộng lớn của Thầy. Ngược lại, rõ ràng người đã đền đáp ơn Thầy
nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng vì những chiến công rực rỡ và sự
tuẫn tiết cao đẹp của vị Tướng nầy, người anh hùng mà Thầy một
thời đã tạo dựng nên.
Lúc
đó tôi rất ít xuất trại nghỉ phép. Họa hoằn có đi phép thì cũng chỉ
xuất trại vào sáng ngày Chúa nhật, đi dạo vòng vòng các khu phố lớn
Saigòn, xem chớp bóng ở các rạp chiếu bóng thường trực đề đợi đến
chiều ra Đường Hai Bà Trưng, sau Trụ sở Quốc hội, đợi đoàn xe GMC đưa
đón SVSQ của Trường rước về. Những tuần không đi phép tôi mặc quân phục
chỉnh tề, cùng các bạn trong Trung đội người miền Bắc, cũng mồ côi như
tôi sau khi Hiệp định Genève-1954 chia đôi đất nước, đi dạo ở khu chung
quanh sân cờ lớn của Trường, nơi có những hàng cây tỏa bóng mát, dù
ít oi, xuống thảm cỏ dưới gốc, mà các SVSQ lưu trại thường đón tiếp
và vui vầy với gia đình hay người yêu đến thăm viếng trong ngày Chúa
nhật.
Cảnh đầm ấm, hạnh phúc và sinh động
rực rỡ màu sắc nầy cũng diễn ra trong Câu lạc bộ Sinh viên và trong các
lều mát hay quán ăn chung quanh đó. Dĩ nhiên trong số những thân nhân
đến thăm viếng sinh viên hàng tuần không thiếu những bóng hồng tươi
đẹp, xinh xắn, là chị, là em, là bạn, là người yêu, hay vợ của sinh viên
lưu trại. Một trong những người đẹp đó là vợ của anh Hưng. Nhìn từ xa xa
cũng biết chị đẹp. Dáng người cao thon thả nhưng cân đối khỏe mạnh như một
thiếu nữ phương Tây. Mặt sáng, nước da trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu
tạo vẻ thuộc gia đình trung lưu, khá giả. Mỗi lần thăm anh, chị thường dẫn
theo đứa con gái nhỏ chừng hơn một tuổi. Họ quây quần bên nhau rất hạnh
phúc. Thế nhưng, trong đời người ta không thể ngờ được những bất cập,
tan vỡ, chia ly diễn ra mà hậu quả là ưu phiền và oán hận.
Chín
năm sau ngày ra trường, mỗi người đi một nơi, không biết tin tức gì của
nhau, bỗng nhiên vào giữa tháng 1 năm 1964, tôi được biết tin về anh Lê
văn Hưng. Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11, 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm
và ông Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Đại tá Nguyễn văn Phước Trưởng Phòng 2
Bộ Tổng Tham mưu (P2/BTTM) bị mấy ông Tướng đảo chính bắt giam giử ở Cục
An ninh Quân đội, Trung tá Hồ văn Lời, Chỉ huy trưởng Trường Quân báo Cây
Mai, được đưa lên BTTM thay thế. Tôi cũng được thuyên chuyển theo ông và
giữ chức vụ Trưởng ban Hành chánh của P2/BTTM.
Một hôm tôi đọc được trong xếp
hồ sơ Công văn Đến lệnh thuyên chuyển của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng
ban hành hoàn trả Trung uý Lê văn Hưng về ngành Quân Báo và đặt thuộc
quyền sử dụng của P2/BTTM. Trước cuộc đảo chính Trung uý Hưng là
Quận trưởng Trà Ôn ở miền Tây. Có lẽ những năm trước nữa ông Hưng có
học qua một khóa Quân Báo hay giữ chức vụ nào đó cùng ngành với tôi
mà tôi không biết. Sau đó ít lâu, khi hồ sơ cá nhân của Hưng gửi về
P2/BTTM mới được biết là sau khi tốt nghiệp ở Thủ Đức nhờ đậu cao
nên anh được chọn về Quân Khu I lúc đó bao gồm cả lãnh địa của Vùng
3 và Vùng 4 Chiến thuật sau này- và thuyên chuyển về Bộ Chi Huy
Trung đoàn 15 đóng tại Gia Định. Thiếu tá Lê Thọ Trung là Trung đoàn
trưởng. Sau này, khi ông Hưng đã lên Tướng và làm Tư lệnh SĐ5BB, ông
Trung, chỉ mang cấp bậc Trung tá, là Tham Mưu trưởng cho ông Hưng.
Không đầy một tuần
sau khi P2/BTTM nhận được lệnh thuyên chuyển của Trung úy Hưng, cũng trong
tháng giêng đó, một người đàn bà đến xin gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM.
Với tư cách là người phụ trách về hành chánh và quản trị nhân viên,
tôi tiếp bà khách. Bà tự xưng là người phối ngẫu chính thức và đã
ly dị của ông Hưng. Tôi hình dung được ngay đó là người vợ của SVSQ Hưng
của gần mười năm trước. Tuy bà đã bớt vẻ thon thả, khá người hơn, mà
vẫn còn đẹp ở độ tuổi trung niên. Bà mang theo một lá đơn xin gửi lương
tháng, mà bà nói là do Tòa án phán quyết khi ly dị, đến thẳng địa chỉ
của bà ở Gia Định. Tôi chỉ ghi nhận sự kiện, nhận đơn, mà chưa giải quyết
được vì Trung uý Hưng chưa trình diện P2/BTTM.
Sau đó không lâu, tôi nhận tiếp một
lệnh khác của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng thuyên chuyển Trung uý Lê văn
Hưng về SĐ21BB. Như vậy đến năm đó tôi vẫn chưa gặp lại Hưng cho đến đầu
tháng 6, năm 1971 vì ông Hưng trình diện thẳng SĐ21BB mà không trình diện
P2/BTTM. Cuối năm 1967, vào một buổi chiều, tôi vô tình gặp lại người vợ
đã ly dị đó của ông Hưng trong Dancing Club Victoria ở Tân Định, gần Bộ
Tổng Tham Mưu. Bà là vũ nữ ở đó. Tôi nhận ra bà nhưng bà không nhớ có
lần đã gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm trước. Lúc đó tôi mang cấp bậc
Thiếu tá và được biết ông Hưng mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 31 thuộc SĐ21BB và là một trong ngũ kiệt nổi tiêng ở miền Tây.
Ít lâu sau nghe ông Hưng thăng cấp Đại tá và làm Tỉnh trưởng Cân Thơ. Từ
cuối năm 1967, sau buổi khiêu vũ matinée ở Victoria, tôi không gặp bà vợ
đã ly dị của ông Hưng lần nào nữa. Đến nay đã gần nửa thế kỷ.
Sau
buổi thuyết trình đầu tháng 6, năm 1971 đó, Trung tướng Minh mời Đại
tá Hưng và tôi ăn cơm trưa trong chiếc trailer đặt ở sân trước Tư dinh
Tướng Minh ở Biên Hòa. Đáng lẽ tôi không có hân hạnh được mời tham
dự bữa cơm của hai ông tư lệnh này đâu, nhưng tôi nghĩ Tướng Minh mời
tôi là vì Đại tá Lê văn Hưng nói tôi là bạn đồng môn. Lý do thứ hai
là vì khi ra trường tôi thuyên chuyển về Tiểu đoàn 61 VN đầu năm 1955,
làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau Effectif), đến khoảng tháng 8 năm
1955, ông Nguyên văn Minh, lúc đó mang cấp bậc Thiếu tá được bổ nhậm
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 VN, kiêm Quận trưởng Quân Đức Hòa,
thuộc tỉnh Chợ Lớn, chỉ định tôi làm Văn phòng trưởng Tiểu đoàn
(Chef Bureau Secretariat), đồng thời là Chánh văn phòng Quận Đức Hòa
cho ông. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến và Tổng thống Đệ nhất
Cộng Hòa cuối năm 1955, Thiếu tá Minh được đề cử chức Tỉnh trưởng Sa
Đéc, thăng cấp Trung tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 1/43 Sư Đoàn
15 Khinh Chiến, đóng ở Dục Mỹ, Nha Trang.
Trong Đệ Nhị Cộng
Hòa ông Minh thăng cấp nhanh chóng, Đại tá Tư lệnh SĐ21BB, rồi Chuẩn
tướng, rồi Thiếu tướng, rồi Trung tướng làm Tư lệnh Biệt Khu
Thủ Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông chưa quên tôi đã từng giúp việc
cho ông từ 15 năm trước. Còn lý do thứ ba nữa, đến khi ngồi vào bàn
cơm tôi mới được biết là Đại tá Hưng xin Tướng Nguyễn văn Minh cho tôi
về giúp ông làm Trưởng Phòng 2 SĐ5BB. Điều nầy làm tôi bất ngờ. Tôi
xin để được suy nghĩ lại. Tướng Minh cũng chưa quyết định ngay. Sau buổi
cơm Đại tá Hưng lên Lai Khê, tôi được Tướng Minh cho nghỉ phép một tuần
về Saigon, nói là để ông sẽ sắp xếp lại nhân sự.
Lúc
đó, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT là Đại tá Lê Đạt Công không được
Tướng Nguyễn văn Minh tín nhiệm đã cho thuyên chuyển xuống SĐ21BB.
Phòng 2 tuy còn mấy sĩ quan cấp tá khác nhưng công việc do tôi quán
xuyến mặc dù tôi không giữ một chức vụ nào ở đó. Tôi nghĩ Trung tá
Mạch văn Trường, vừa rời chức vụ Quận trưởng Thủ Đức về QĐIII &
V3CT, đệ tử thân nhất của Tướng Minh, trước đó là Trưởng Phòng 2
SĐ21BB của Tướng Minh, sẽ được chỉ định làm Trưởng Phòng 2 Quân đoàn.
Nhưng không phải, khi hết phép trình diện Tướng Minh, tôi được ông cho
biết Đại tá Hưng đã gởi hai công điện chính thức xin tôi về SĐ5BB.
Tướng Minh nói với tôi là nên lên Lai Khê giúp ông Hưng và Trung tá
Mạch văn Trường cũng đã được đưa lên đó giữ chức vụ Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 8. Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 SĐ18BB sẽ được
chỉ định làm Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Điều nầy cũng
hợp lý, vì Trung tá Bình là một sĩ quan Quân báo nhiều kinh nghiệm
đã từng là Trưởng Khối Tình Báo của P2/BTTM.
Tôi
rất buồn khi nghe quyết định của Tướng Minh. Không phải tôi muốn thoái
thác trách nhiệm làm trưởng phòng tình báo chiến trường cấp sư đoàn
mà tôi cho là quan trọng. Nhưng tôi tủi thân khi phải phục vủ người bạn
cùng khóa. Biết đâu việc làm của tôi không tránh khỏi những sơ suất,
chết quân mất đồn, lúc đó sẽ khó cho ông mà khó cho tôi biết mấy.
Thà làm việc cho vị tư lệnh nào khác, không giữ một chút tình riêng
trong lòng, tôi sẽ an tâm hơn. Thưởng phạt sẽ nhận và chịu một cách vô tư,
thảnh thơi hơn, nếu mình hữu công hay mình bất lực. Nhưng là một quân
nhân, tôi phải chấp hành lệnh của thượng cấp. Tôi điện thoại cho Đại tá
Hưng và xin cho tôi thu xếp và trình diện SĐ5BB ngày 16 tháng 6.
Quá
trưa ngày đó, khoảng 2 giờ, Đại tá Hưng cho trực thăng chỉ huy của ông
đón tôi ở Biên Hòa lên Lai Khê. Trong văn phòng Tư lệnh, ông Hưng bắt tay
và ôm vai tôi lộ vẻ vui mừng. Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà không có bàn
giao vì người tiền nhiệm của tôi là Trung tá Nguyễn Công Ninh đã rời Sư
đoàn từ tuần trước. Khi tôi đang họp với các sĩ quan Phòng 2 Bộ Tham
mưu và Biệt đội Quân báo Sư đoàn, thì Chánh văn phòng Tư lệnh, Đại úy
Nguyễn Đức Phương, gọi điện thoại nói là Đại tá Tư lệnh mời tôi dùng cơm
tối tại tư dinh, sau buổi họp 5 giờ chiều hằng ngày ở Trung tâm Hành
quân Sư đoàn.
Trên
chiếc trailler được che chắn bằng nhiều bao cát xung quanh, đặt ở sân
sau tư dinh Tư lệnh, song song với dãy nhà văn phòng của Phòng 2 Sư
đoàn, nơi làm việc của tôi từ buổi trưa đó, cách một lớp rào lưới
chống đạn B.40, lần đầu tiên tôi gặp người phối ngẫu chính thức của
Đại tá Lê văn Hưng, do chính ông giới thiệu, mà sau đó không lâu tôi
được biết nhũ danh của bà là Phạm Kim Hoàng. Tôi nghĩ bà là người
xứng với ông Hưng.
Nước da trắng, gương mặt đẹp sáng, dáng người
mảnh mai thanh tú, giọng nói dịu dàng. Bà tỏ ra thân thiện với người
đồng môn của chồng. Ông Hưng cũng không hỏi một câu nào về gia đình
hay bản thân tôi từ ngày ra trường. Ông và tôi bàn về các vấn đề
thời sự ở phạm trù lớn hơn phạm trù QĐIII & V3CT, bình đẳng,
không gò bó như thường khi tôi tiếp xúc với bất cứ một thượng cấp
nào của tôi trước đó.
Sau buổi cơm tối ngày tôi trình diện sư đoàn,
tôi nghĩ rằng tôi có thể yên tâm làm việc với Đại tá Hưng,
không còn mặc cảm. Trái lại, tôi nghĩ là phải cố gắng, bỏ tâm cơ
nhiều hơn trong việc làm để thực sự giúp người bạn hiểu biết mình
và cũng để chứng tỏ mình có đủ kiến thức và khả năng chuyên môn
không làm phụ lòng ông.
Đó
không phải là buổi duy nhất ông bà Hưng đãi cơm tôi trên chiếc trailer
ở tư dinh của tư lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất nhiều lần trong
suốt thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB dưới quyền chỉ huy của ông Hưng.
Mỗi khi ông bà tổ chức các buổi ăn gia đình có tính kỷ niệm, người
bạn duy nhất được mời là tôi. Thêm nữa, mỗi lần khi mà buổi sáng tôi
bị gạch tên trong các lần đề nghị thăng cấp đặc cách, hay trong danh
sách đề nghị thưởng huy chương Anh dũng Bội tinh, dù ở cấp sư đoàn mà
ông Hưng, với thẩm quyền tư lệnh, có thể ký ban cho. Trong ngày nào
đó, nếu ông từ chối đề nghị của Trung tá Tham mưu trưởng Lê Thọ
Trung, thì buổi chiều bà Hưng gọi điện thoại mời tôi ăn cơm tối với
ông, bà.
Trong buổi cơm, dù tôi tỏ ra bình thường bà Hưng vẫn nói như
an ủi tôi ảnh luôn như vậy đó, anh đừng buồn, trong khi ông Hưng ngồi
đó, nghe và cười. Nụ cười vừa an ủi vừa như bảo với tôi rằng ông
không muốn để người khác dị nghị và Anh dũng Bội tinh không thể cấp
cho sĩ quan tham mưu.
Người hiểu rõ các điều trên đây lúc đó là Trung
tá Lê Thọ Trung, vị chỉ huy trưởng cũ của Ông Hưng. Tôi nghĩ rằng
Trung tá Trung nhiều lần cũng được gia đình ông Hưng mời ăn những buổi
cơm riêng như vậy, vì ông Hưng chắc không quên người đã từng là thượng
cấp của ông khi vừa bước ra khỏi cổng Quân trường Thủ Đức.
Dĩ nhiên
người hiểu rõ nhất những mối liên lạc thân thiện giữa Tướng Hưng và
tôi là bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia đình nầy không chi
diễn ra trong thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB mà còn như hằng ngày
ở những tháng sau cùng của chiến cuộc Việt Nam, tại tư dinh Tướng
Hưng ở Cần Thơ.
3. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
Chỉ
một thời gian làm việc với Đại tá Lê văn Hưng, tôi hiểu rõ khả năng
của ông hơn và thành thực khen ngợi ông là người chí công vô tư. Về
khả năng, tôi có thể nói ông quyết đoán chính xác và nhanh chóng. Tôi
sẽ đề cập đến sau. Trước tiên, xin nói về bản tính và cách cư xử
của ông đối với mọi người. Ông rất thẳng thắn, cương nghị, nhưng là
người mang trong trong lòng thứ tình cảm đậm đà với hai thí dụ điển
hình là sự đối xử của ông với Trung tá Lê Thọ Trung và với tôi.
Nhìn dáng dấp bên
ngoài, thuộc cấp có thể nghĩ ông là người khó đến gần hoặc nghiêm
khắc, vì tướng người cao, rắn rỏi, nghiêm nghị, nhất là ít nói. Kỳ
thực ông rất thương yêu binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan cấp uý. Ông
chọn rất kỹ hạ sĩ quan và sĩ quan cấp thiếu úy và trung úy để đặt
vào các chức vụ tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đội
trưởng.
Ở cấp tiểu đoàn trưởng, ông thường chọn nhưng đại uý hay
thiếu tá trẻ dày dạn trận mạc, can trường, đánh trận hay và nhất
là biết suy nghĩ, lo lắng và thương yêu binh sĩ. Ông thường nói với
tôi rằng các cấp chỉ huy nầy biết thương yêu, lo lắng cho binh sĩ thì
mình sẽ đỡ lo hơn và an tâm hơn. Vì vậy ông tỏ ra thân mật với cấp
chỉ huy ở cấp tiểu, trung, đại đội, và các tiểu đoàn. Đôi khi ông
nhớ rõ tên một hạ sĩ quan tiểu đội trưởng hay trung đội trưởng của
một đại đội hay tiểu đoàn nào đó mà tôi nghĩ là ít vị tư lệnh sư
đoàn nào để ý đến. Tuy nhiên ở cấp Trung đoàn trưởng, Tư lệnh Sư
đoàn không quyết định được, thường là do Tư lệnh Quân đoàn hoặc cấp
cao hơn bổ nhậm.
SĐ5BB có 3 Trung đoàn Bộ binh 7, 8, và 9, Thiết đoàn1 Kỵ binh, 4 tiểu
đoàn Pháo binh gồm Tiểu đoàn 50 đại bác 155 ly, các Tiểu đoàn 51, 52,
và 53 đại bác 105 ly. Ngoài ra còn các Tiểu đoàn chuyên biệt
khác như Công binh, Truyền tin, Tiếp vận và Quân y. Tổng cộng quân số
trên 11,000 người.
Trung đoàn 7 Bộ binh do Trung tá Lý Đức Quân chỉ huy
(sau đó thăng Đại tá và tử trận thăng cố Chuẩn tướng). Ông Quân gốc
dân tộc Nùng cũng như đại đa số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đều
thuộc sắc tộc này từ khi được thành lập với danh hiệu là Sư đoàn 4
Dã chiến. Sau chuyển thành SĐ5BB.
Dần dà khi QLVNCH phát triển thì số
binh sĩ sắc tộc Nùng gần như hoàn toàn tập trung vào Trung đoàn 7.
Trung tá Quân là một sĩ quan mẫu mực, đạo đức, khả năng và kinh
nghiệm tác chiến cao nên Đại tá Hưng rất hài lòng.
Trung đoàn 8 Bộ
binh được Tướng Minh giao cho Trung tá Mạch văn Trường chỉ huy (Ông
Trường xuất thân Khóa 12 Võ bị Dalat. Khi tốt nghiệp, toàn khóa được
đưa sang một Trường Bộ binh Hoa Kỳ để học chỉ huy cấp đại đội bộ
binh. Nhưng chính bản thân ông chưa hề chỉ huy một đại đội bộ binh trong
QLVNCH, mà là một sĩ quan Quân Báo.
Làm Trung đoàn trưởng nghĩa là
sẽ thăng cấp Đại tá). Biết Trung tá MVT chưa từng cầm quân nên Tướng
Hưng đưa Thiếu tá Huỳnh văn Tâm là một sĩ quan rất trẻ nhưng đã từng
là Tiểu đoàn trưởng cừ khôi, làm Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng
Trung Đoàn 9 là Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, lớn tuổi, ốm yếu, mà lần
đầu gặp lại sau nhiều năm, tôi tự nghĩ là ông nên xin về làm việc ở
một nha sở nào ở Trung ương hơn là đi đánh giặc.
Tuy nhiên dưới quyền
ông có hai sĩ quan lỗi lạc là Thiếu tá Trần Đăng Khoa Trung đoàn phó
và Thiếu tá Võ Trung Thứ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/9, xuất thân
Thủ khoa Khóa 15 Võ bị Dalat. Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh
là Trung tá Nguyễn Đức Dương.
Đầu tháng 3, 1972 nhân ngày
kỷ niệm thành lập Sư đoàn, Đại tá Lê văn Hưng thăng Chuẩn tướng nhiệm
chức và Trung tá Mạch văn Trường, với chức vụ Trung đoàn trưởng,
cũng thăng Đại tá nhiệm chức. Người bị Tướng Nguyễn văn Minh bỏ quên,
không đề nghị thăng cấp, là Trung tá Lê Thọ Trung, Tham mưu trưởng Sư
đoàn, rất thâm niên trong cấp bậc.
Đối với các sĩ quan cấp tá thì Tướng Hưng rất nghiêm minh, nhất là
các sĩ quan tham mưu. Đó là lý do tại sao Đại tá Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh phó Sư đoàn và các sĩ quan cấp
tá khác thường bị ông Hưng nẹt khá nhiều lần ngay trong các buổi họp
ở Trung tâm Hành quân. Và một buổi chiều, sau khi ông V. bị cự nự,
không nhớ lần thứ mấy, hết buổi họp, tôi theo Tướng Hưng vào văn
phòng tư lệnh.
Lúc ông đang chưa hết cơn giận, thấy tôi bước vào, ông
ngạc nhiên nhưng không nóí gì thì chính tôi nói: Xin... cho tôi được
trình bày. Tướng Hưng chưa kịp nói gi thì tôi đã tiếp.
Tôi nghĩ
là...anh xử sự quá đáng với Đại tá V. Ông ta cứ bị cự nự hoài, làm
sao chịu nổi. Đại tá V., hay chúng tôi cấp trưởng phòng, đều có
trách nhiệm trình bày ý kiến của mình, dù đúng hay sai... Bị cự nự
hoài ai dám nói nữa... nhất là trước mặt thuộc cấp.
Tướng Hưng nỗi
cáu, lớn tiếng: Không phải việc của mày! Tôi nói một câu trước khi
chào và bước ra: Xin lỗi Thiếu tướng, nếu không phải thì... tôi đi.
Đó là lần đầu tiên và cuối cùng Tướng Hưng gọi tôi bằng mày, mà tôi
nghĩ là xuất phát từ thâm tâm ông coi tôi là một bạn đồng khoá ngày
xưa hơn là một thuộc cấp. Từ đó chữ này biến mất. Và chắc chắn ông
hiểu rõ chữ Thiếu tướng mà tôi dùng trong buổi chiều đó là mang theo
sự bất bình của tôi.
Thường nhật trước mặt mọi người tôi gọi ông là
Thiếu tướng, vào những lúc khác chỉ riêng có hai người, hoặc trước
mặt vợ ông, tôi gọi là anh, vì ông Hưng lớn hơn tôi. Ông sinh tháng 3,
năm 1933. Tôi sinh tháng 1, năm 1934, mặc dù cùng năm Quí Dậu. Ông
thường gọi tôi bằng tên: Dưỡng à, hoặc này Dưỡng, không thêm một chữ
nào nữa. Không toi, không cậu, không mày...
Sáng
hôm sau, tôi tạt qua văn phòng Tham mưu trưởng, nạp lá đơn xin thuyên
chuyển, trước khi ra sân bay trực thăng chờ tháp tùng Tướng Hưng đi thăm
các đơn vị. Khi bước xuống xe jeep, trước khi lên trực thăng chỉ huy
của mình, Tướng Hưng bắt tay Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3,
và tôi. Đến khi bắt tay tôi, ông Hưng cười, không nói gì. Buổi trưa,
trở về Lai Khê, khoảng chừng 2 giờ chiều Trung tá Trung, Tham Mưu
Trưởng, gọi tôi lên văn phòng cho biết là ông đã gặp Tướng Hưng về
việc của tôi và lập lại lời Tướng Hưng nói với ông: Dưỡng nó làm
nư, bỏ lá đơn đi. Tôi thực tình không làm nư với ông Hưng, mà định xin
thuyên chuyển thật. Tôi cũng không ngượng ngùng gì khi gặp ông buổi
chiều trước giờ họp.
Tuy nhiên mấy ngày sau, Tướng Hưng khi
gặp riêng tôi, nói rằng Đại tá Lê Nguyên Vỹ và ông không hợp tính với
nhau. Chỉ một tuần sau Tướng Nguyễn văn Minh điều Đại tá V. về làm
Phụ tá Hành quân ở Bộ Tư lệnh QĐIII & V3CT.
Chức vụ Tư lệnh phó
SĐ5BB không có người thay thế. Có một đại tá khác thuyên chuyển về Sư
đoàn là Đại tá Bùi Đức Điềm, nguyên Tỉnh trưởng Long Khánh, Tướng
Minh không tín nhiệm, bãi chức. Khi về Sư đoàn Đại tá Điềm cũng chỉ
giữ chức Tham mưu trưởng Hành quân mà không phải là tư lệnh phó hay
phụ tá hành quân cho Tướng Hưng. Ông Điềm là một đại tá kỳ cựu,
người có công rất lớn trong cuộc chiến An Lộc diễn ra một tháng sau
đó.
Ông ta bị bỏ quên như một gốc cổ thụ già cằn cỗi trong một xó
rừng nào đó của Bình Long. Mãi đến gần cuối năm 1972 Sư đoàn mới có
vị tư lệnh phó là Đại tá Nguyễn Bá Long, tự Thìn, nguyên Tỉnh
trưởng Kontum, và là người có công rất lớn trong việc giữ vững thành
phố tỉnh lỵ này; ở đó hình như cũng có... bất công diễn ra liên quan
đến vị đại tá này.
Tôi
sẽ nói riêng về những sự bất công của cuộc chiến An Lộc đúng như sự
thực, khác hơn nhiều người viết thêm bớt, dù tôi biết là những gì
tôi đề cập đến sẽ làm nhiều người không hài lòng và sẽ đem đến cho
tôi những ̣điều không tốt lành nào đó. Tôi chấp nhận, khi tôi nói sự
thực, và chỉ là sự thực, trước đây có rất nhiều người biết mà
không thể nói. Tôi cũng muốn quên đi từ hơn mấy chục năm qua.
Nhưng
không thể quên được. Nhiều lần tôi tự hỏi phải chăng hào quang của
những vị anh hùng trong QLVNCH đã bị số ít người lãnh đạo bất xứng
với những vầng mây u ám, nhưng quá to lớn của họ, che lấp mất rồi
chăng? Tôi đã đắn đo nhiều lắm. Tôi đã câm nín quá lâu khi không nói
nỗi oan mà Tướng Hưng hay Đại tá Bùi Đức Điềm, hoặc ai đó nữa, bị
trù dập bởi thượng cấp. Đến nay một vài vị còn bị những người
ngoại cuộc, không hiểu tường tận, bôi biếm.
Nay nghĩ lại, nếu tôi
biết mà không nói thì ai sẽ nói... Tôi là chứng nhân, là người trong
cuộc, dù sự hiểu biết của tôi chỉ cho phép tôi nói lên những gì ít
nhất và lễ độ nhất. Hôm nay, tôi viết vì những người còn sống nhất
là hai cháu Hải và Hà, con của Tướng Hưng, lúc đó mới chỉ là hai
đứa trẻ thơ đã mồ côi cha. Nay đã lớn, các cháu cần biết rõ hơn về
cuộc đời nhiều sóng gió và khổ tâm của người cha anh hùng của các
cháu.
Tôi cũng viết gửi về chị Hưng, PKH, hiện cư ngụ
ở đâu đó trên đất nước Hoa Kỳ, là tôi hãnh diện có những thời kỳ
sống và chịu nhiều gian khổ, hiểm nguy, với một vị Thần mà lúc đó
chúng tôi không hề biết. Thần và người chỉ khác nhau ở mực thước
làm người. Những con người tham quyền, cố vị, vinh quang thì muốn
hưởng, khi hiểm nguy thì tránh né, vận nước đảo điên thì trốn chạy,
buông quân, bỏ cờ, dù là tướng, thì cũng chỉ là những con người tầm
thường như mọi người tầm thường khác.
Tướng mà coi mạng sống của
bản thân và của gia đình mình quá nặng thì làm sao có thể thành anh
hùng hay thành Thần được. Còn làm Tướng mang sinh mệnh đền ơn tổ
quốc, chết theo thành, thì thiên cổ đã ghi Sinh vi Tướng, tử vi Thần.
Lịch sử Việt Nam còn đó, gương kim cổ mãi mãi sẽ còn được
rọi soi.
Năm vị tướng lãnh của miền Nam Việt Nam tuẩn tiết trong ngày
cuối Tháng Tư Đen sẽ lưu danh thiên cổ.
4. CHIẾN CUỘC Ở BÌNH LONG MÙA HÈ NĂM 1972
TIN TỨC VÀ CÁC ƯỚC TÍNH TÌNH BÁO
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân
Sau khi nhận chức Tư lệnh SĐ5BB
thay Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu đầu tháng 6, năm 1971, Tướng Lê văn
Hưng củng cố lại các đơn vị trực thuộc và mở những cuộc hành quân
cấp Chiến đoàn (thường là một Trung đoàn Bộ binh cộng thêm
Thiết kỵ và Pháo binh) vào các mật khu Việt Cộng trong khu vực trách
nhiệm của Sư đoàn gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long
như các mật khu Tam giác Sắt, Long Nguyên, Bến Than cặp theo sông
Sàigòn và Chiến khu D vùng hữu ngạn Sông Bé, phía nam Đồng Xoài, là
những địa danh nổi tiếng với những trận đánh đẫm máu giữa liên quân
Hoa Kỳ & QLVNCH và quân xâm nhập CSBV & VC giữa thập niên 1960.
Bộ Tư lệnh SĐ5BB đóng tại đồn điền cao-su Lai Khê, quận Bến Cát, tỉnh
Bình Dương.
Hai sư đoàn khác của
QĐIII & V3CT là SĐ18BB và SĐ25BB. Ngoài ra Quân đoàn còn một Lữ
đoàn Thiết kỵ và một Liên đoàn Biệt Động quân là lực lượng trừ bị
và xung kích trong các cuộc hành quân ngoại biên trong thời kỳ của
Tướng Đỗ Cao Trí, chưa kể đến các đơn vị Pháo binh, Công binh, Biệt
Động quân Biên phòng và Địa phương quân, một sư đoàn Không quân và các
đơn vị Hải quân. Riêng các đại đơn vi cấp sư đoàn bộ binh thì SĐ18BB
phụ trách khu vực hành quân chiến thuât gồm 4 tỉnh Biên Hòa, Long
Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Thị xã Vũng Tàu. Bộ Tư lệnh đóng ở
Thị trấn Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh. SĐ25BB phụ trách khu vực hành quân
chiến thuật gồm 3 tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, và Long An. Bộ Tư lệnh
đóng ở Củ Chi. Biệt khu Thủ đô sau đó đổi danh thành Quân khu Thủ đô
gồm Đô thành Saigòn, Chợ Lớn, tỉnh Gia Định cũng thuộc lãnh thổ và
trách nhiệm bảo vệ cuả BTL/ĐQIII & V3CT.
Khi Trung tướng Nguyễn văn Minh
thay thế Tướng Đỗ Cao Trí --tử nạn trực thăng tháng 2, 1971-- không
hiểu vì lý do gì không sử dụng nhân tài mà Tướng Trí đã rất tin
tưởng như trường hợp thuyên chuyển Đại tá Lê Đạt Công, Trưởng Phòng 2
QĐIII & V3CT về SĐ21BB, và không sử dụng Chuẩn tướng Trần Quang
Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Thiết kỵ (the 3rd Armored Cavalry
Brigade) vừa mới ở Hoa Kỳ về sau khi học một khóa quân sự cao
cấp. Tướng Minh đã giải thể và phân tán Lữ đoàn Thiết kỵ
và Lực lượng Xung Kích của Quân Đoàn (III Corps Assault Force
IIICAF) trước đó do Tướng Trí thành lập và Tướng Khôi là tư lệnh.
Quan niệm hành quân của Tướng Minh cũng thay đổi theo cục diện chiến
trường. Tướng Minh lần lượt rút hết các cánh quân ở Miên về phòng
thủ vùng lãnh thổ trách nhiệm.
QĐIII & V3CT lâm vào thế bị động.
Tuy vậy, trong ba tháng cuối năm 1971, với sự tăng viện của các đơn vị
cấp lữ đoàn Dù và Thủy quân Lục chiến, Tướng Minh đã tổ chức những
cuộc hành quân sâu vào lãnh thổ Miên trên trục lộ 7 để giải tỏa áp
lực của các sư đoàn CSBV đang bao vây và có ý định dứt điểm cứ điểm
hỗn hợp cuối cùng cấp chiến đoàn Việt-Mỹ ở Krek trên đất Miên, phía
bắc biên giới Tây Ninh, gây thiệt hại nặng cho các đơn vị địch. Đó là
lần cuối cùng chiến thắng trên đất Miên. Sau đó, đến cuối năm, ông ra
lệnh triệt thoái bỏ luôn căn cứ nầy, rút lực lượng về tăng cường
các căn cứ trên trục lộ 22, phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh và tái phối
trí lại lực lượng Quân đoàn III trong Vùng Chiết Thuật trách
nhiệm.
Khu vực lãnh thổ trách
nhiệm hành quân chiến thuật của SĐ5BB gồm ba tỉnh Bình Dương, Tỉnh
trưởng là Đại tá Nguyễn văn Của; Bình Long, Tỉnh trưởng Đại tá Trần
văn Nhựt; Phước Long, Tỉnh trưởng Đại tá Lưu Yểm.
Lực lượng của Sư
đoàn được tái phối trí như sau: Chiến Đoàn 9, do Đại tá Nguyễn Công
Vĩnh chỉ huy, gồm Trung đoàn 9 Bộ binh với Tiểu đoàn 1/9, 2/9 và 3/9,
Tiểu đoàn 53 Pháo binh gồm 14 khẩu đại bác 105 ly được tăng cường 4
khẩu 155 ly (của Tiểu đoàn 50 Pháo binh), và Thiết đoàn 1 Kỵ binh (-),
phụ trách hành quân ở vùng tây bắc biên giới tỉnh Bình Long từ căn
cứ Alpha ở biên giới Việt-Miên trên Quốc lộ 13, về hướng đông qua Ngã
ba Lộc Tấn, giao điểm của Quốc lộ 13 và Liên tỉnh lộ 14, đến Quận
Bố Đức thuộc Tỉnh Phước Long.
Bộ Chỉ huy Chiến Đoàn 9 đóng
tại căn cứ chính của Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên phòng
(TĐ74/BĐQ/BP) nằm cuối sân bay Quận Lộc Ninh, phía tây con đường từ Chợ
chạy cặp theo sân bay đến ven rừng cao su phía tây thị xã. TĐ74/BĐQ/BP
lúc đó trấn giữ Căn cứ Alpha ở biên giới Việt-Miên, với 4 khẩu đại
bác 105 ly cơ hữu, được đặt dưới quyền phối hợp chỉ huy hành quân
của Trung tá Nguyễn Đức Dương, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh
(TĐ1KB).
Bộ Chỉ huy Thiết đoàn đóng ở Ngã ba Lộc Tấn, giao điểm của
hai trục lộ 13 và 14, được tăng cường 4 khẩu đại bác 105 ly, với Chi
đoàn 3/1 Thiết kỵ và Chi đoàn 1/1 Chiến xa; tính chung 40 chiến xa,
trong đó có 14 M-41, 26 Thiết quân vận đủ loại, chưa kể các xe kéo
pháo, GMC và Jeep. Hai chi đoàn này hoạt động trên các trục lộ 13 và
14 bắc Lộc Ninh. Toàn bộ Tiểu đoàn 1/9 đóng ở Quận Bố Đức trên lộ
13, tả ngạn Sông Bé thuộc Tỉnh Phước Long, giáp ranh với Tỉnh Binh
Long. Tiểu đoàn 2/9 (-) hoạt động trong vùng tây bắc Lộc Tấn, phối
hợp và yểm trợ cho TĐ74/BĐQ/BP và TĐ1KB. Tiểu đoàn 3/9 (-) hoạt động
lưu động trong vùng từ 3 đến 5 cây số tây nam Thị xã Lộc Ninh.
Mỗi
Tiểu đoàn để lại một đại đội bảo vệ Bộ Chỉ huy Chiến Đoàn 9, trong
khi Đại đội Trinh sát 9 hoạt động vùng ranh giới Bình LongTây
Ninh, phía bắc Căn cứ Tống Lê Chân, do Tiểu đoàn 92 BĐQ/BP trấn đóng
trên Sông Saigòn vùng phía bắc Bến Than, tây bắc Quận Chơn Thành, Tỉnh
Bình Long. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 53 Pháo binh của Trung tá Hoàng ...
Thông ̣̣(chữ lót không nhớ) và các vị trí pháo đóng trong một căn cứ
cũng nằm trên con đường chạy cặp theo sân bay, cách Bộ Chỉ huy Chiến
Đoàn chừng 400 thước và cách Bộ Chỉ huy Quận và Chi Khu Lộc Ninh
chừng 200 thước.
Thiếu tá Nguyễn văn Thịnh, Quận trưởng kiêm Chi khu
trưởng có hai đại đội Địa Phương quân và hai Trung đội Nghĩa quân để
lo an ninh cho Bộ chỉ huy của mình, không kể 4 đại đội Địa phương quân
và các Trung đội Dân vệ khác trong toàn quận và chừng một Trung đội
cảnh sát của Chi Cảnh sát Quận đóng ở khu vực Chợ Lộc Ninh.
Xa hơn về phía nam Lộc Ninh, khoảng 15
cây số là Sông Cần Lê nối liền Sông Sàigòn và Sông Bé, với chiếc
cầu Cần Lê béton cốt sắt vững chãi. Tại đây được phối trí một đại
đội của Tiểu đoàn 2/9, một Pháo đội hỗn hợp 155 ly và 105 ly, một
đại đội Công binh Chiến đấu và hai đại đội Địa Phương quân. Tất cả do
Trung tá Nguyễn văn Hoà chỉ huy. Phía bắc cầu Cần Lê, chừng bốn cây
số, bên trái Quốc lộ 13 là Tỉnh lộ 17, bắt đầu từ Quốc lộ 13 chạy
về hướng tây vào lãnh thổ Tây Ninh.
Con đường nầy dài chừng
20 cây số. Khoảng hơn hai cây số từ lộ 13 đi về hướng Tây Ninh là Căn
cứ Hùng Tâm gồm hai căn cứ nhỏ cấp tiếu đoàn nằm ở hai bên lề bắc
và nam của Tỉnh lộ 17. Theo tin tức và theo yêu cầu của Tướng Hưng.
Trung tướng Minh tăng phái cho SĐ5BB Chiến Đoàn 52 của SĐ18BB trong ngày
28, tháng 3, 1972, đóng ở hai căn cứ Hùng Tâm này. Chiến đoàn nầy gồm
Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 52 , Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48 thuộc
SĐ18BB, Đại đội Trinh sát của sư đoàn với bốn khẩ̉u pháo 105 ly, hai
khẩ̉u 155 ly, và một Đại đội Công binh.
Phía nam Cầu Cần Lê
chừng 9 cây số là Thị xã An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh và Tiểu khu Bình
Long. Đại tá Trần văn Nhựt, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng, là một
cấp chỉ huy giàu kinh nghiệm tác chiến của Thủy quân Lục chiến, từng
là Trung đoàn trưởng các Trung đoàn 43 và 48 của SĐ18BB. Cá nhân
ông là một sĩ quan can trường, nhưng khiêm tốn, tế nhị, rất khéo xử
thế và được sự mến chuộng của thượng cấp và thuộc cấp.
Cố vấn Hoa
Kỳ rất khen ngợi ông, có lẽ cũng vì sự khéo léo của ông. Tại An
Lộc, Đại tá Nhựt có khoảng hai Tiểu đoàn Địa phương quân và nhiều Trung
đội Nghĩa quân và Dân vệ. Quân số tổng cộng dưới 2,000 người nhưng
chia đóng ở nhiều nơi trong tỉnh. Tại tỉnh lỵ và vùng xã ấp phụ
cận, vùng Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam tỉnh lỵ, chỉ có chừng 800
người, với vài chiếc thiết giáp cũ loại V-100 và mấy Pháo đội hỗn
hợ̣p đại bác 105 ly và 155 ly.
Tướng Hưng đặt Bộ
Tư lệnh Hành quân nhẹ của SĐ5BB trong thị xã. Bên ngoài, cách thị xã
về hướng tây bắc là căn cứ Charlie, nơi đóng Bộ chỉ huy Trung đoàn 7
của Sư đoàn. Hai Tiểu đoàn 2/7 và 3/7 với Đại đội Trinh sát 7 hoạt
động xung quanh thị xã và khu vực tây bắc. Hai đại đội của Tiểu đoàn
1/7 hoạt động hướng đông bắc và hai đại đội khác của tiểu đoàn nầy
đóng ở căn cứ Quản Lợi, cách thị xã An Lộc chừng 7 cây số về hướng
đông bắc.
Tại đây còn có một đại đội Địa Phương quân và một đơn vị
Lôi Hổ cấp đại đội. Căn cứ chính của Trung đoàn 7 vẫn còn ở Quận
Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương với một số ít binh sĩ bảo vệ. Quận và
Chi Khu Chơn Thành của Tỉnh Bình Long, ở phía nam An Lộc, chừng 30 cây
số có hai đại đội Địa phương quân bảo vệ. Nam Chơn Thành chừng 30 cây
số là Căn cứ Lai Khê, nơi đặt Bộ Tư lệnh chính của SĐ5BB, trong địa
phận Quận Bến Cát của Tỉnh Bỉnh Dương, cách tỉnh lỵ Bình Dương
chừng 20 cây số.
Trung đoàn khác của SĐ5BB là Trung
đoàn 8, với Bộ Chỉ huy Trung đoàn, một tiểu đoàn và Đại đội Trinh
sát bảo vệ Căn cứ Lai Khê. Một tiểu đoàn đang thụ huấn tại Trung tâm
Huấn luyện của Sư đoàn ở Bình Dương và một tiểu đoàn thứ ba đang
hành quân ở Quận Dầu Tiếng, Tỉnh Bình Dương, nằm ở tả ngạn Sông
Saigòn.
Từ đầu tháng 2, 1972, trong khu vực
trách nhiệm của Chiến đoàn 9, các đơn vị của Chiến đoàn nhiều lần
chạm súng với cấp tiểu đội hay trung đội quân CSBV ở vùng biên giới
tây bắc, gần các mật khu của chúng vùng Lưỡi Câu ở vùng biên giới,
hoặc dọc theo hành lang Sông Saigòn --ranh giới giữa Bình Long và
Tây Ninh, và bên ngoài mật khu Bến Than-- phía tây Chơn Thành, đã hạ
một số cán binh của chúng, phần lớn là thành phần cán binh trinh
sát của hầu hết các Sư Đoàn chính qui CSBV & TWC/MN 5, 7,
9. Một số tài liệu tịch thu được trên các xác chết là các tài
liệu học tập về tấn công hợp đồng bộ binh, pháo binh và chiến xa
vào thành phố. Chúng tôi cũng phát hiện được một đơn vị cấp sư đoàn
do Trung Ương Cục Miền Nam TWC/MN (Bộ Tư lệnh MACV Hoa Kỳ thường gọi tổ
chức này là COSVN, Central Office of South Vietnam) mới thành lập cho
chiến trường Tây Ninh và Bình Long, đó là Sư đoàn Bình Long hay Sư
đoàn C30B gồm Trung đoàn 271 -lấy cán bộ khung của Trung đoàn 271 Sư
đoàn 9 chuyển qua- và các Trung đoàn 24, 205 và 207, hầu hết là cán
binh từ Tây nguyên và miền Trung đưa vào.
Từ các tin tức ở các tài
liệu này, tôi trình Tướng Hưng trước tiên nên mở một cuộc hành quân
vào Mật khu Bến Than,vùng phía bắc Liên Tỉnh lộ 13, nối Chơn Thành
và Tây Ninh, cách Quận lỵ Chơn Thành về hướng tây chừng hơn 15 cây
số. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù được tăng phái cho SĐ5BB mở cuộc hành quân
vào Bến Than trong tuần lễ thứ hai tháng 2, 1972. Kết quả tịch thu và
phá hủy hơn 100 tấn g̣ạo và lương thực, tịch thu hơn 1,000 vũ khí cá
nhân và phá hủy nhiều tấn đạn dược của CSBV mới được chuyển từ các
mật khu biên giới Miên vào tồn trữ ở đó.
Vào trung tuần tháng hai năm
1972, trong một cuộc hành quân thám sát ở vùng đồi thấp cách
phía bắc Lộc Ninh chừng 5 cây số và ở hướng tây Quốc lộ 13 chừng hơn 3
cây số, Đại đội Trinh sát của Chiến đoàn 9 chạm súng với một tiểu đội
quân Công sản Bắc Việt, bắn hạ 4 tên và bắt một cán binh mang súng ngắn
và hai cán binh khác. Các cán binh này được đưa về Biệt đội Quân báo
Sư đoàn thẩm vấn. Chính tôi, lúc đó là Trưởng Phòng 2 Sư đoàn cũng
trực tiếp tiếp xúc với các cán binh nầy. Được biết người cán binh
mang súng ngắn là một sĩ quan của Bộ đội Bắc Việt, đã xâm nhập vào
miền Nam trong hai năm trước, đầu tiên được bổ sung cho Sư đoàn Công
trường 7 Bắc Việt, sau cùng được chuyển sang Tiểu đoàn Trinh Sát của
Sư đoàn 69 hay 70 Pháo, trực thuộc TWC/MN.
Người sĩ quan trinh sát
pháo binh Cộng sản này, cấp bậc Trung uý, khai rằng anh tháp tùng tên
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh Sát Sư đoàn 69 Pháo của TWC/MN và
hai sĩ quan khác với một tiểu đội cận vệ hôm đó đến vùng đồi phía
tây lộ 13 là để điều nghiên các vị trí đặt pháo tiêu diệt căn cứ
của Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 Bộ binh đóng ở cuối sân bay Lộc Ninh, Bộ
Chỉ huy Chi Khu Quận Lộc Ninh gần đó, và tiêu diệt căn cứ của Thiết
đoàn I Kỵ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh và Tiểu đoàn 74 Biệt Động Quân
biên phòng ở Ngã ba Lộc Tấn, và Căn cứ A, hay Alpha, trên Quốc lộ 13,
nối liền với Quốc lộ 14A ở phía bắc Lộc Ninh, trong trận Tổng Công
Kích sắp diễn ra. Trận Tổng Công Kích này sẽ lớn lao vì đơn vị
của anh được học tập là sẽ hợp đồng tác chiến giữa bộ binh, pháo
binh và chiến xa vào thành phố.
Người tù binh trinh
sát này tỏ ra thành khẩn trong những lần tiếp xúc với tôi và khai báo
cặn kẽ về những gì tôi hỏi nhờ ở sự đối đãi nhẹ nhàng, cho ăn ngon,
cà phê thuốc lá, và nhất là để ý thăm hỏi gia đình anh ở miền Bắc.
Anh cho biết là Sư đoàn 69 Pháo TWC/MN đổi danh thành Sư đoàn 70 Pháo
và từ cuối năm 1971 đã tiếp nhận thêm rất nhiều loại đại bác lớn với
khối đạn dược lớn lao được chuyển từ Bắc Việt vào.
Tuy nhiên, có
hai câu hỏi quan trọng mà anh không thể trả lời là ngày khai diễn chiến
dịch qui mô của TWC/MN và các đơn vị chiến xa Bắc Việt sẽ tham chiến. Anh
nói rằng theo kinh nghiệm thì sau khi đơn vị Trinh sát Pháo điều nghiên
xong trận địa, thiết lập xong xa-bàn và nếu xa-bàn phối trí pháo được
thông qua thì trận chiến sẽ khai diễn độ một tuần sau đó. Nhưng nay Tiểu
đoàn trưởng Trinh sát Pháo của anh vừa chết và anh bị bắt nên không rõ
TWC/MN sẽ có thay đổi gì hay không. Còn về các đơn vị chiến xa, thì anh
không được biết và không nhìn thấy trong khu vực đóng quân của đơn vị
anh hay vùng phụ cận, mà chỉ được biết qua học tập.
Không thể khai
thác gì hơn và theo lệnh, tôi cho chuyển anh nầy về Trung tâm Thẩm vấn
Tù binh Vùng III Chiến thuật. Sau đó anh này được đổi sang
diện hồi chánh. Khi trận chiến An Lộc khai diễn được một tuần, anh
Trung uý Trinh sát Pháo này mặc quân phục binh sĩ VNCH, mang súng lục,
theo một cố vấn Hoa Kỳ từ Biên Hòa đến gặp thăm tôi ở Bộ Chi huy
Hành quân của Sư đoàn tại An Lộc.
Tôi kể rõ chuyện trên đây để chứng
minh rằng chúng tôi không hề bị bất ngờ về cuộc Tổng Công Kích Mùa
Hè của lực lượng CSBV. Sự thực thì sự hiểu biết của người tù binh
thành hồi chánh nầy rất hạn hẹp so với cục diện chiến trường diễn
ra ở miền Nam trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, vì tri quyền của một sĩ quan
cấp nhỏ như anh không thể biết nhiều hơn ...