QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Image result for Tháng Tư năm 1975 -----

==== ====



Monday, February 25, 2019

“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa


----- Forwarded Message -----
From: Thompson Tuan Hoang 
Sent: Saturday, February 23, 2019, 11:52:04 PM CST
Subject: Fwd: Fw: VĂN QUANG : “Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa


 VĂN QUANG : “Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa





Thân chuyển
Từ năm 1972 đến 1975 tôi sống trong cư xá Công Trưởng Lam Sơn đằng sau khách sạn Continental.
Điều



“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
·      Văn Quang
·     
·      Thứ Bảy, 02/02/2019 • 2.9k Lượt Xem
·          
·          
·          
·          
Buổi sáng thứ sáu tuần vừa qua, tôi được một ông bạn điện thoại đến rủ ra Givral uống cà phê. Tôi rất ngạc nhiên vì từ hơn 2 năm nay Givral nằm trong thương xá Eden đã bị đập phá tan tành để… làm một cái gì đó ở Sài Gòn này, chắc cũng “vĩ đại” như tòa nhà Vincom chiếm trọn khu vườn hoa trước mặt.
Mỗi lần đi ngang qua đường Đồng Khởi, tôi không thể nào quên đó là đường Tự Do xưa kia của chúng tôi. Nhìn toàn bộ khu tứ giác Eden chỉ còn là đống gạch vụn với những hàng rào kiên cố xung quanh cứ như nhìn thấy cái gọi là “trại cải tạo”. Thì ra, sau hơn 12 năm, cái “trại cải tạo” ấy vẫn còn ám ảnh tôi ngay cả trong vô thức, đôi khi ngay cả trong giấc mơ. Thế nên mỗi khi đi qua khu Eden bị tàn phá đó, tôi bỗng cúi đầu, chẳng muốn nhìn lâu và cũng chẳng muốn tìm hiểu xem trong thời gian tới, nó sẽ mọc lên cái gì. Tôi cứ nghĩ Gival đã thuộc hẳn về quá khứ, như những người bạn tôi ra lò hòa thiêu, không bao giờ gặp lại.
Văn hóa không tên tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
Đường Tự Do.
Ông bạn thấy tôi khựng lại, bèn giải thích: “Nó mở lại Givral hôm qua (10-10-2012) ở chỗ cũ rồi ông ạ. Cũng điểm tâm, cà phê như xưa. Ra ngồi xem cho biết, nhớ lại chút kỷ niệm xưa.”
Nghe bùi tai, tôi đồng ý ngay. Dù biết rằng ra đó ngồi sẽ rất ngậm ngùi nhớ bạn, nhờ tình, nhớ thời trai trẻ, nhớ đủ thứ… trong cái không gian ấy.
Nói đến Gival là nhớ đến La Pagode, Brodard… chắc chắn những người đã từng sống, từng ghé qua Sài Gòn chưa ai quên. Nhất là những văn nghệ sĩ, nhà báo, dân biểu, thường ngồi ở đấy làm nơi trao đổi tin tức nghề nghiệp. Còn một số lớn khách du lịch, sĩ quan, quân nhân, công tư chức làm việc tại “thủ đô miền Nam” và các bạn trẻ Sài Gòn thập niên 60-75 cũng hay lui tới nơi này. Đây là một địa điểm trung tâm thành phố, rất thuận tiện cho mọi việc, từ hẹn hò, mua sắm vài thứ, đợi giờ vào rạp chiếu phim, hoặc chỉ đi “bát phố” mà hồi đó chúng tôi gọi là đi “hittuking”, tức là đi “hít tủ kính” chứ không mua bán gì. Hơn thế, thương hiệu bánh ngọt Gival rất nổi tiếng, thu hút nhiều khách sành ăn. Mấy bà đi ngang qua Lê Lợi – Tự Do ghé vào mua vài cái bánh mang về cho chồng con là chuyện bình thường.
Givral, La Pagode, Brodard đã trở thành một cái “trục văn hóa không tên” phảng phất mà rất sâu đậm trong cái hồn của Sài Gòn.
Văn hóa không tên tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
Givral nằm trong thương xá Eden.
Sau năm 1975, Gival vẫn còn sống sót cho đến khi khu này bị “giải tỏa”, nhưng khách không còn “chọn lọc” như thời xưa. Khách hàng đủ mọi loại, ông Tây bà Đầm, ông Hàn Quốc bà Đài Loan, chân dài đẹp, chân dài xấu, nghệ sĩ thập cẩm ra vô thong thả và giá cả cũng vào loại trung bình, không “mềm” cũng không “cắt cổ”.

Givral ngày ấy bây giờ

Trong khi ông bạn tôi tìm chỗ gửi xe, tôi đứng trên đường Lê Lợi nhìn qua khung kính vào nhà hàng Gival mới. Nó vẫn ở cái góc Lê Lợi – Đồng Khởi, mấy cái cửa kính lớn vẫn cho khách có thể nhìn ngắm hai mặt đường phố và tất nhiên khách đường phố cũng có thể chiêm ngưỡng những khách hàng “đẳng cấp” ngồi bên trong.
Điếu đáng tiếc nhất là cái cột to tướng đúng vào góc đẹp nhất che lấp mất tầm nhìn nơi cửa chính trước kia, làm cho không gian có vẻ như chật chội hơn, không thể nhìn thẳng ra nhà hát lớn, khách sạn Continental với phong cách rất Tây và khách sạn Caravelle cùng cái vòng xoay và những con đường chảy vào giữa lòng thành phố.
Văn hóa không tên tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
Givral (bên trái cùng) trước khi bị đập bỏ.

Chúng tôi bước vào nhà hàng với một vẻ lạ lẫm. Những chiếc bàn ghế mới toanh, những bộ salon kê hai bên góc khá đẹp. Tất cả đều mang dáng vẻ sang trọng như bất cứ một nhà hàng cà phê, điểm tâm “có hạng” nào ở những thành phố lớn.
Khoảng 9 giờ sáng, khách đã chiếm hết số bàn trong tiệm. Số còn lại ngồi rải rác quanh chiếc comptoir hình móng ngựa. Những người hoàn toàn xa lạ ngồi riêng biệt, chẳng ai nhìn ai. Cái không khí ấy khiến tôi không thể quên những ngày xưa. Tuy ngồi khác bàn nhưng chúng tôi vẫn có thể biết xung quanh mình có những ai.
Bàn bên kia là bốn năm anh ký giả chuyên làm tin hành lang Quốc Hội, bàn góc trái là mấy ông dân biểu Hạ Nghị Viện thời Đệ Nhị Cộng Hòa đang say sưa bàn về những “ý kiến” đã và đang chuẩn bị lên diễn đàn. Bàn giữa nhà là mấy “dân chơi” quen mặt, có lẽ ngồi đợi người đẹp… Thỉnh thoảng một cái gật đầu, một cái vẫy tay, một ánh mắt thân thiện. Sự gần gụi, quen thuộc ấy chính là cái linh hồn của Givral trước 1975. Bây giờ không tìm lại được nữa.

Cái “trục văn hóa” từ La Pagode, Givral đến Brodard khác nhau thế nào?

Nằm chung trên đường Tự Do xưa, có ba quán café cùng nổi tiếng như nhau. Bắt đầu từ nhà hàng La Pagode ở góc Lê Thánh Tôn – Tự Do, qua vài nhà hàng đến tiệm sách Xuân Thu, đến hành lang Eden, trong đó có rạp Ciné Eden từ hồi cựu hoàng Bảo Đại mới lên ngôi. Đến góc đường này là Givral nằm đối diện với khách sạn Continental, sát bên trụ sở Hạ Nghị Viện (nhà hát lớn TP cũ), nhìn chéo sang phải là khách sạn Carvelle sinh sau đẻ muộn. Đi quá chút nữa là nhà hàng Brodard.
Ba tiệm cùng nằm trên một con đường rất gần nhau, chỉ cách khoảng trên dưới 100m và gần như có kiểu kinh doanh giống nhau. Nhưng thật ra, nếu để ý kỹ, khách hàng thường chia làm 3 loại khác nhau. Ở đây tôi chỉ kể riêng về mặt “sinh hoạt văn hóa”.
“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
Nhà hàng La Pagode.
Trước hết phải kể đến nhà hàng La Pagode, tôi cho là “cổ kính” nhất. Ngay từ những năm 1953, khi tôi mới biết taxi là “cái giống gì” (bởi ở miến Bắc hồi đó chưa có taxi), tôi đã biết La Pagode. Hồi đó Pagode còn bày hàng ghế salon bọc da ra ngoài hành lang, theo lời ông Nguyên Sa thì nó giống hệt nhiều nhà hàng ở Paris. Ngồi ở đây thoáng đãng. Khách đến thường chỉ dùng một ly cà phê, ngồi từ chiều đến tối mịt. Phía trong có một bàn đánh “tin” dành cho khách giải trí chứ không có mục đích cờ bạc kiếm tiền. Ông Hoàng Hải, anh ruột của cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương, có thể kể là một “nhà vô địch về môn giải trí này. Chúng tôi chỉ cần mua một chục cái jeton, như đồng xu, bỏ vào khe là chơi triền miên. Cứ sắp hết lại kêu ông ông Hoàng Hải “cứu giá”, bonus lại đổ xuống hàng đống jeton tha hồ chơi.
Khách hàng của La Pagode hầu hết là nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ. Cứ vào buổi chiều, sau giờ tan sở là tụ tập lại đây. Tất nhiên cũng ngồi thành nhóm. Những ngày đầu tôi thường đi cùng Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư và đến đây thường gặp các anh Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Mặc Thu, Cung Trầm Tưởng, Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Tạ Quang Khôi, Viên Linh, Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn, Anh Ngọc, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Nguyễn Đình Toàn… Quá nhiều, tôi không thể nhớ hết.
Thật sự cái nhu cầu chính là đến đây gặp nhau, để… nói dóc, “bình loạn” vài cái tin văn nghệ, thời sự chính trị cho vui thôi. Cả ba nhà hàng này với những cái “loa ngầm, loa không ai kiểm chứng” nên có thời người ta gọi những tin tức ấy là “radio catinat” (bởi con đường Tự Do, thời Pháp được đặt tên là đường Catinat). Tuy nhiên cũng có những nguồn tin “bí mật quốc gia” rất chính xác bên cạnh những nguồn tin chẳng bao giờ là sự thật. Nó cứ nhập nhằng như thế nên “radio Catinat” chưa chắc đã là “láo toét” như nhiều người kết tội nó.
Vậy tạm gọi Pagode dành cho giới viết lách gặp nhau, xả stress.
Còn Givral đông nhất và đáng kể nhất vào mỗi buổi sáng. Phóng viên trẻ thường tụ tập ở nhà hàng này vì nó ở ngay trước trụ sở Hạ Nghị Viện, các ông dân biểu thường ra ngồi giải lao tại đây và “thảo luận” đủ thứ chuyện bên lề. Và chuyện bên lề bao giờ cũng hấp dẫn hơn chuyện trong nghị trường. Chuyện “bí mật quốc gia”, chuyện phe nhóm, “gia nô” và không “gia nô”, chuyện tình bà nghị ông nghị…, cứ nghe mấy ông này là có đủ tin “giật gân” trong ngày. Cánh phóng viên thường bắt mối rất chặt chẽ với các ông bà dân biểu và nghị sĩ thượng hạ nghị viện. Thật ra họ có quyền lợi “hỗ tương”, anh cho tôi tin, báo tôi yểm trợ lập trường của anh. Trong số những phóng viên, ngoài người Việt Nam còn có một số phóng viên người Mỹ, Pháp từ khách sạn Continental trước mặt ghé sang. Hoặc cũng có một số phóng viên người Việt làm cho các đài truyền hình, truyền thanh nước ngoài săn tin tại đây.
Có một nhà thơ hàng đầu Việt Nam thời đó là thi sĩ Đinh Hùng, bình thường ông hay ngồi ở La Pagode, nhưng khi “hữu sự” ông lại ngồi ở Givral. Dáng người “thanh thoát” nhỏ nhắn rất thư sinh. Lúc nào ông cũng chải chuốt, complet, cravate, đầu chải mượt gọn gàng, tay luôn xách chiếc cặp da, ông còn giữ nguyên vẻ đỏm dáng, lịch lãm của “công tử Hà Nội” những năm 50. Ông thường hẹn gặp những người ái mộ ở đây. Tôi để ý thấy hầu hết là những nữ độc giả rất trẻ, đẹp. Khi ông ngồi cùng 3-4 cô, khi ông lại rù rì với một người đẹp duy nhất. Đúng là ông có số đào hoa và dù đã ngoại ngũ tuần nhưng trái tim vẫn còn rất trẻ. Những lúc nhìn ông “say” như thế, tôi có cảm tưởng như ông cũng giống như những cậu trai 20 ngồi bên cô gái 18. Ông sống thật với rung cảm của mình. Có lẽ vì vậy thơ ông bao giờ cũng mang cái óng mượt, thần thoại rất đặc trưng. Có thể, Givral chính là nơi bắt ngưồn cho những cánh thơ thăng hoa của cảm xúc này.
Hôm nay ngồi ở Givral, hình bóng anh Đinh Hùng vẫn quanh quẩn đâu đây. Nhớ lại, khi tôi viết truyện dài “Đời chưa trang điểm”, tiêu đề này chính là đã mượn trong câu thơ “đời chưa trang điểm mà xuân đã về” của anh. Lúc gặp nhau, anh Đinh Hùng nói với tôi: “Ừ, cái tít ấy có vẻ tiểu thuyết lắm, cứ lấy xài đi, đóng thuế cho tớ một cuốn thôi”. Mới đây mà đã hơn nửa thế kỷ rồi anh Đinh Hùng ơi!
Còn nhà hàng Brodard nằm ở góc Tự Do – Nguyễn Thiệp, nhìn sang bên kia là vũ trường Tự Do của ông Cường lùn và chị “tài pán” Nhựt, bà chị này hành nghề cai quản các em “ca nhe” từ vũ trường Ritz Hà Nội vào Nam. Ở đây lại đông vui vào những buổi sáng muộn và buổi tối khi “gà lên chuồng”. Nơi lui tới của những “dân đi chơi đêm” Sài Thành. Những anh hùng “hảo hớn” như Khê – Thăng Long Xích Thố, anh em ông Kim đầu bạc, Kính tennis, Chương Marine cũng lui tới ngồi tán chuyện giang hồ. Các “đại gia, tiểu gia” thời đó không nhiều, chỉ vỏn vẹn một số ông dược sĩ, tu bíp, doanh nhân có “xế bốn bánh” đủ để chở các em đi ăn đêm. Thỉnh thoảng một vài em vũ nữ, thường là loại có hạng như Lệ Hằng, Thủy Điên, Mỹ Khùng… ở mấy cái vũ trường gần đó như Tự Do, Mỹ Phụng, Olympia cũng la cà vào đây tán dóc.
“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài Gòn xưa
Nhà hàng Brodard.
Ba nhà hàng ấy là 3 sắc thái riêng biệt làm nên cái trục “văn hóa không tên”, cái linh hồn của Sài Gòn, khó phai mờ trong ký ức của những người Sài Gòn.
Còn một địa chỉ nữa ở gần chợ Bến Thành là nhà hàng Thanh Thế, nơi này là chỗ gặp nhau của những ký giả thể thao như đàn anh Huyền Vũ, Thiệu Võ và một số những nhà báo miền Nam.

Không thể tìm lại dĩ vãng

Tóm lại, trong bài này, tôi chỉ muốn thông tin đến bạn đọc một nét “văn hóa xưa” vừa được khơi gợi lại giữa thành phố Sài Gòn. Nhưng với tôi, nó chỉ còn cái tên Givral của thời xa xưa thôi. Tất cả đều khác trước, giá cả lại quá cao không phù hợp chút nào với cánh phóng viên Việt Nam. Nó sẽ chỉ còn thích hợp với khách du lịch ghé ngang qua thành phố này.
Dù sao cũng xin gửi đến bạn đọc nặng lòng với những hoài niệm cũ, với Sài Gòn xưa, một cái gì đã mất đi không thể tìm lại được.
Văn Quang
Đăng lại từ bài viết cùng tên trên Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon (thntsaigon.forumvi.com)
Xem Thêm:




__._,_.___

Posted by: Hank Music

Sunday, February 24, 2019

Năm mới nói chuyện cũ

 
Kg. tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền,

Câu cuối của truyện ngắn “Năm Mới Nói Chuyện Cũ” là hay nhất, đúng
nhất, đáng ghi nhận nhất: “Đừng Nguỵ Biện Nữa...” Nhục quá rồi, biết không?
Thưa Chị, gia đình tôi từng ở Tam Kỳ (Quảng Tín) hơn 8 năm, từ Mậu Thân 1968 cho đến 1975, mất Quảng Tín. Ba người đàn ông trong truyện, tôi biết được hai ông, đó là ông Phú và ông Được. Ông Được trước khi vào làm Quận Trưởng Lý Tín, ông từng là hàng xóm của gia đình tôi ở khu Cư Xá Công Chức sát bên Toà Hành Chánh và Tiểu Khu. Giống như ông Hào thì ông Được cũng đã mất. Nay như thế là chỉ còn ông Phú!
Thật đáng tiếc, ông Hào đã tự tử vì không chịu nổi những mất mát, đau thương trong cuộc đời dâu bể do con đàn bà khốn nạn gây ra. Trong những hoàn cảnh bi phẫn này, kẻ chết phải là loại đàn bà phản trắc, lăng loàn và dâm loạn kia.  Nhưng đáng tiếc lại là những chiến hữu bất hạnh của chúng ta Chị ạ!
Vài dòng với Chị và chúc Chị & gia đình Vạn An trong Năm Mới.
Thân, 
HHL

Sent from my iPhone

Begin forwarded message:
From: "Tran Marie >

Năm mới nói chuyện cũ
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
“Tôi nhớ mãi một chiều Xuân năm xưa…” Lời bài hát này, không chỉ khiến cho tôi nhớ về những mùa Xuân thanh bình cũ, của một thời thơ ấu, mà nó còn khiến cho tôi nhớ mãi về một chiều Xuân trong nhà tù “cải tạo” của đảng CSVN.
Tôi không bao giờ quên một buổi chiều cuối năm 1983, khi nắng sắp tàn trên đồi nương, nhưng chúng tôi vẫn còn  làm cỏ lúa ở Đồng Cừ vì “chưa đạt chỉ tiêu”. Trong đội có người ngất xỉu. Chúng tôi báo công an xin đưa bệnh nhân vào bệnh xá trại nam cấp cứu. Khi bệnh nhân hồi tỉnh, chúng tôi, một nhóm nữ tù “cải tạo” đưa người bệnh trở lại “đồng Cừ” để chuẩn bị trở về trại. Khi đi gần đến cổng trại nam, bỗng thấy có hai người trong bộ áo quần tù màu xanh đã bạc màu, người nọ níu lấy cánh tay người kia, đứng ở cổng báo cáo:
“Thưa cán bộ cho phép hai người xuất trại” nghĩa là được ra tù.
Thấy vậy, tôi đến góc nhà cùm để xem hai vị đó là ai. Khi đến gần, tôi mới nhận ra đó là Thiếu tá Đỗ Công Hào, thuộc Tiểu đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, và Thiếu tá Phạm Sĩ Phú là Trưởng phòng 2, Tiểu khu Quảng Tín. Tôi biết anh Hào, trong một lần chuyển gỗ đã bị một cành cây nhọn đâm xuyên bắp chân. Nhưng công an trại không cho đi bệnh viện, cũng chẳng cấp thuốc men gì cả, nên chân anh bị nhiễm trùng làm độc, mâng mủ. Cuối cùng anh đã bị “què” một chân. Còn anh Phú bị bệnh mắt hột, công an trại cũng không cho chữa trị bằng thưốc, mà lại ra lệnh cho Trung tá Tôn Thất Biên “điều trị” cho anh bằng cách... châm cứu. Kết quả là anh bị mù cả hai mắt. Sau ba năm bị mù anh mới được “phóng thích nhân đạo” để về quê ăn Tết. Anh Hào “què” nhưng còn đôi mắt, tay cầm gậy dắt anh Phú mất đôi mắt nhưng còn đôi chân. Hai nạn nhân khốn khổ dắt dìu nhau bước khập khễnh ra khỏi trại!!!
Trước cảnh đau lòng ấy, tất cả các anh ở “nhà cấp dưỡng” (nhà bếp) và làm vệ sinh đều ngưng làm việc. Những đôi mắt rưng rưng lệ nhìn theo hai anh, cho đến khi bóng hai người khuất hẳn - Dân biểu Trần Công Định đã nói: “Một người què dắt một người đui, biết bao giờ mới tới nhà!”.
Sau này, khi tôi được ra tù, về đến bến xe Tam Kỳ, biết tôi cũng vừa mới ra tù, thì đã được đồng bào ở bến xe kể lại rằng: Trước đây vào một đêm Giao thừa có hai người tù, một què, một đui, đã nằm ngủ trên nền gạch của phòng bán vé. Đồng bào thương cảm mời hai người vào nhà cho đỡ lạnh, cả hai người cám ơn nhưng từ chối và nói rắng họ bị đui, què nên không muốn có mặt trong nhà của bà con vào sáng mùng một Tết. Thấy vậy, đồng bào đã đem trà, bánh, mứt ra tại nền gạch của phòng bán vé, để mời hai anh cùng ăn và trò chuyện suốt đêm cho đến sáng.

Khi về Đà Nẵng, gặp anh Đỗ Công Hào, tôi kể lại chuyện đó. Anh Hào cho biết, hai người ngủ ở bến xe Tam Kỳ đêm Giao thừa năm ấy chính là anh và anh Phú.. Anh kể:
“Khi ra trại vì không có tiền đi xe, nên hai anh em tôi đã phải làm “khất sĩ” nghĩa là anh em chúng tôi phải vừa xin ăn và xin tiền để đi xe. Khi đủ tiền rồi thì hết xe vì là đêm 30 Tết. Nhưng may mắn, có một người dân “kinh tế mới” dùng xe Honda chở chúng tôi được một đoạn đường, vì thấy chúng tôi “khất thực” và biết chúng tôi mới ra tù giữa đêm 30 Tết, nên cảm thương, mà cho đi nhờ bằng xe Honda, một đoạn đường. Đến Tam Kỳ thì đã giao thừa. Nhà anh Phú ở Tam Kỳ, nhưng vì mù nên không tìm được, còn tôi lại không biết nhà anh Phú, trong túi không có tiền, đường sá vắng tanh, đồng bào ai cũng ở trong nhà, vì sắp đến giờ Giao Thừa, trời lạnh, không trăng sao, không biết giờ giấc chính xác, thân đui mù, què quặt, chúng tôi không dám gõ cửa đồng bào, vì sợ đầu năm mang cái xui đến cho họ, nên chúng tôi quyết định ngủ lại ở bến xe, chờ đến sáng hôm sau tôi đưa anh Phú về tận nhà, tôi mới yên tâm tìm xe, đi nhờ ra Đà Nẵng”. 

Nhắc đến Anh Phạm Sĩ Phú và Anh Đỗ Công Hào. Nhân đây, tôi xin kể qua về những nỗi “Đoạn trường” của hai Anh:
Trước hết, vì Thiếu tá Phạm Sĩ Phú đang có mặt tại Mỹ, nên người viết không muốn khơi lại những bi thương của Anh, mà chỉ xin ghi lại một phần nhỏ mà thôi.
Người viết vẫn nhớ, trong một lần được “thăm nuôi” cùng lúc với Thiếu tá Phạm Sĩ Phú. Lúc này, bọn Công an trại tù vẫn nghi ngờ Thiếu tá Phú “giả mù”, nên bình thường khi được “thăm nuôi”, tất cả người tù đều phải ngồi một bên, gia đình ngồi một bên, ở giữa là một chiếc bàn dài, phía dưới chân có một miếng ván dày và dài, đóng kín dọc theo chiếc bàn, để ngăn cách người tù và thân nhân không “đưa tin” với nhau bằng đôi chân được. Còn trên mặt bàn, tuyệt đối bị nghiêm cấm không cho bất cứ ai đưa tay ra, để cầm tay thân nhân. Điều này, không có người tù nào dám, vì có tên Công an vũ trang, được gọi là “cán bộ dẫn giải” đưa người tù đi và về trại, tên này ngồi ở đầu bàn, luôn luôn để mắt theo dõi những cử chỉ của người tù và thân nhân, nếu có ai “vi phạm nội quy”, thì sẽ bị cúp thăm nuôi, không cho nhận quà, dù nhận quà rồi, cũng bị trả lại cho gia đình ngay lập tức.
Trở lại với lần “thăm nuôi” cùng lúc với Thiếu tá Phạm Sĩ Phú. Như đã nói ở trên, không có một người tù nào được ngồi gần thân nhân của mình. Thế nhưng, lần đó, tôi thấy tên Công an “dẫn giải” bỗng bảo Anh Phạm Sĩ Phú đến ngồi gần bên cạnh vợ của Anh, rồi tên này đưa mắt nhìn, quan sát thật kỹ phản ứng của Anh Phú; nhưng cho đến phút cuối được gặp vợ, mà tôi thấy ánh mắt của Thiếu tá Phạm Sĩ Phú không hề có một phản ứng nào cả.

Về điều này, vào lúc đầu tôi không biết Anh Phú có mù thật hay không; nhưng khi Anh đến ngồi bên vợ của mình, mà đôi mắt Anh vẫn vô hồn như không nhìn thấy gì hết, thì theo tôi, không có một người chồng nào, khi nhìn thấy vợ đang ngồi trước mặt của mình với hoàn cảnh ấy, mà vẫn bình tĩnh như vậy cho được.
Thế rồi, kể từ lần “thăm nuôi” ấy, bọn Công an tin là Anh đã bị mù hẳn rồi, nên Anh mới  được “Phóng thích nhân đạo” cùng lúc với Thiếu tá Đỗ Công Hào, trong dịp Tết.
Người viết chân thành xin lỗi Thiếu tá Phạm Sĩ Phú, nếu những lời này, có khơi lại  những cảnh ngộ bi thương của Anh. Tôi nguyện cầu cho Anh khỏe mạnh, vui sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, để có thể trở về thăm lại cố hương, khi chế độ Cộng sản bạo tàn không còn nữa.
Và bây giờ, người viết xin nói về Thếu tá Đỗ Công Hào: Khi ra khỏi tại tù “cải tạo” đã phải cùng “khất thực” trong ba ngày Tết, lúc về đến căn nhà của chính mình, thì đau đớn  thay, trong nhà của Anh đã có mặt của tên “Thượng úy” Bộ đội Việt cộng đang sống với vợ của Anh.
Trước cảnh ngộ ấy, Thiếu tá Đỗ Công Hào, với tấm thân tàn, chân bị què một bên, phải chống gậy, lại phải đi “Trình diện” Công an Phường hàng tuần, vì bị “Quản chế”.  Không còn sức khỏe  để làm việc nữa. Anh đành phải vào nhà sống chung với vợ và tên Việt cộng, là tình nhân của vợ mình.
Sau đó, vợ của Thiếu tá Đỗ Công Hào nói với chồng:
“Anh phải ký giấy ly dị. Tôi đồng ý bán căn nhà chia đôi cho anh. Nhưng tôi và bốn đứa con phải ở trong nhà này, chừng nào bán được nhà, rồi hãy chia, còn anh một mình đi đâu sống cũng được”.
Đứng trước hoàn cảnh này, Thiếu tá Đỗ Công Hào không đuổi tên “Thượng úy” Việt cộng ra khỏi nhà như Thiếu tá Nguyễn Văn Được đã làm, vì Thiếu tá Nguyễn Văn Được từng làm Quận trưởng Lý Tín, nên cách hành xử có cứng rắn khác hơn. Nhưng điều quan trọng, là Thiếu tá Được còn sức khỏe. Còn Thiếu tá Đỗ Công Hào với tấm thân tàn phế, nên đã không suy nghĩ cho đến tận cùng. Thật là đau lòng và đáng tiếc:
Đó là việc Thiếu tá Đỗ Công Hào đã uống thuốc độc tự tử. Hôm ấy, tôi đang đạp xe đi mua bán ở Chợ Cồn, Đà Nẵng, thì gặp một số cựu tù “cải tạo” cùng trại Tiên Lãnh, họ cho biết Thiếu tá Đỗ Công Hào đã chết tại Bệnh viện Giải phẫu, đường Nguyễn Hoàng, Đà Nẵng (Hiện nay, Việt cộng đã đổi thành “Bệnh viện Đa khoa, đường Hải Phòng”.

Người viết đã được nghe quý cựu tù kể:
“Thiếu tá Đỗ Công Hào tự tử, đem xuống Bệnh viện Giải Phẫu, nhưng quá trễ, không cứu được. Sau khi Anh chết, các Bác sĩ và Y tá đã thấy trong túi áo của Thiếu tá Đỗ Công Hào có mấy dòng chữ:
“Sau khi tôi chết, xin Bệnh viện và các Bác sĩ, Y tá đừng cho vợ tôi nhận xác, mà xin quý vị hãy bó chiếu, rồi chôn tôi ở đâu đó cũng được. Chân thành cám ơn quý vị”.
Vì thế, sau đó, các  Bác sĩ và Y tá đã đóng góp tiền bạc lại, và mua quan tài, quần áo, để chôn cất Thiếu tá Lê Công Hào tại “Nghĩa địa Gò Cà”, vùng đất ở phía trên Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm Việt Nam Cộng Hòa.
Hôm ấy, tại Đà Nẵng, những cựu tù của trại “cải tạo” Tiên Lãnh, đã báo tin cho nhau, ai biết được, họ đều cùng nhau đến Bệnh viện Giải phẫu, để tiễn đưa Thiếu tá Đỗ Công Hào lên Gò Cà, với những đôi mắt bi thương và đẫm lệ!
Kể từ ngày ấy, sau khi đưa tiễn Thiếu tá Đỗ Công Hào, tôi vô cùng tiếc cho quyết định của Anh. Nhưng tôi cũng hiểu được hoàn cảnh của Anh. Vì kẻ đáng trách và đáng khinh bỉ là vợ của Anh. Một mụ đàn bà ác độc, đã đi ăn ở với một tên Việt cộng, quên hết  mọi sự, quên mình là con dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bất lương, tàn nhẫn, đẩy người chồng tàn phế, khốn khổ, cùng  đường,  phải chọn cái chết !
Và, một lần nữa, để tạm kết thúc bài này, người viết muốn lập lại những lời mình đã nói với “bà” Trinh vợ của Thiếu tá Nguyễn Văn Được, Quận trưởng, quận Lý Tín rằng:
Tôi đã nói với “bà” Trinh:
- Sao bà ác thế, bà đã bỏ ông ấy trong tù, để đi lấy “cán bộ”. Bây giờ còn muốn dồn cha con ông vào con đường cùng nữa chứ?
“Bà” Trinh đã trả lời:
“Tui trả thù ổng, vì hồi xưa ổng có con bồ là “con Ca sĩ” ở trong Lý Tín”..
Tôi liền nói với “bà” Trinh:
- Bà nói ổng có bồ. Ở trong đó, tôi biết có  một nữ Ca sĩ ở trong Đoàn Hoa Tình Thương, nếu là “bồ” thiệt, hay chỉ đến Quận đường, trong những lần Đoàn tổ chức Văn Nghệ cho đồng bào xem, vì tôi biết, ngày xưa, các Đoàn Dân Sự Vụ, hay Hoa Tình Thương, khi đến các Quận xa xôi, thì đều phải đến mượn sân của Quận đường vì rộng rãi, để dựng sân khấu, và hát - kịch, trình diễn cho đồng bào xem.
Nhưng nếu ông Được “có bồ” thật, bà không chấp nhận, hay thù ghét ông, thì tại sao bà không bỏ ông ngay lúc đó, rồi đi lấy một người khác hơn ông Được, có phải “ngon” hơn hay không.
Bây giờ, “bà” nói như vậy, thì có nghĩa là, lúc ấy, “bà” không dám bỏ ông Được, vì bà sợ “con Ca sĩ” nào đó, sẽ thay thế “bà”, sẽ trở thành vợ chính thức của ông Được. “Bà” sợ sẽ mất hết tất cả, vì lúc ấy, đi đâu, “bà” cũng được giới thiệu là “Phu nhân”. “Bà” đâu có dám bỏ chồng, khi ông ấy là Thiếu tá Quận trưởng. Và “bà” cũng tự biết, nếu có bỏ chồng, “bà” cũng không bao giờ lấy được một ai bằng ông Được. May lắm thì lấy tài xế của ông Được mà thôi.
Còn “bà nói “bà” trả thù ông Được, thì “bà” hãy  nghe tôi nói đây:
Còn “bà” nói đợi cho đến lúc ông Được vào tù, rồi mới “trả thù” là chính bà đã biết trước ông Được sẽ vào nhà tù “cải tạo”. Vậy, “bà” là ai, mà biết trước như vậy. Có phải “bà” từng là “cán bộ” nằm vùng hay như kẻ đang ăn, ngủ với “bà”..
Nhưng “bà” nói “trả thù” theo cách này, thì “bà” quá hèn hạ, đáng khinh bỉ. “Trả thù” một con người đã bị sa cơ, thất thế, là người đã “ngã ngựa”.. Đạp người “dưới ngựa- ngã ngựa” là hạng hèn mạt, bỉ ổi, đáng khinh. “Bà” nói “trả thù” chỉ là những lời Ngụy Biện mà thôi.
Đừng Ngụy biện nữa. Hãy im cái mồm lại, để người đời bớt khinh bỉ và phỉ nhổ vào cái bản mặt của một con mụ đàn bà,  là vợ của một Sĩ Quan Quân  Lực Việt Nam Cộng Hòa,  đã bỏ chồng trong nhà tù “cải tạo” để đi ăn ngủ với một tên Giặc Việt cộng!
Đã đăng trên Bán  Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong: Số 555 -  Đặc Biệt TÂN NIÊN – Từ ngày 01 đến ngày 15/03/1999
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
__._,_.___

Posted by: Hoa HoangLan 

Featured Post

BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP

 https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa r...

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List